Trà chiều

Lợi ích của những mối hiểm nguy trong truyện cổ tích

Vì đôi khi, những con sói vẫn không mời mà tới.

Published

on

THE USEFUL DANGERS OF FAIRY TALES
Amber Sparks

Một ngày nào đó, con gái tôi sẽ hỏi tôi rằng tại sao lại có quá ít bà mẹ trong truyện cổ tích như vậy.

Hay nói cách khác, tại sao lại có quá ít bà mẹ còn sống. Trong truyện cổ tích, những bà mẹ không ở đâu cả hoặc là ở khắp mọi nơi: đã qua đời hoặc là linh hồn, hiện diện trong những giọng nói nội tâm hoặc như những bà tiên đỡ đầu, hóa thân thành những quái thú hoang dã hoặc thông thái. Phụ nữ tự kể rất nhiều câu chuyện cổ tích để chia sẻ với con gái họ. Nhưng tại sao lại viết rất nhiều câu chuyện mà trong đó, bạn chỉ được đóng vai trò là một con ma?

Đó là một câu hỏi phức tạp xứng đáng với một câu trả lời phức tạp, nhưng thực chất là: Tôi ngờ rằng những người mẹ đang chuẩn bị cho con gái mình một cuộc sống không có họ.

Rất, rất lâu rồi, khi mà những câu chuyện cổ tích đầu tiên vừa mới được sáng tác, những người mẹ đã luôn ở bên bờ vực biến mất. Trở thành một người phụ nữ trưởng thành là sống một cuộc đời bấp bênh – trong trường hợp khả quan nhất. Ngay từ sớm bạn có thể chắc chắn về bạo lực, bị hãm hiếp hoặc đánh đập, thậm chí là bị giết. Ngay từ sớm bạn có thể chắc chắn về bệnh tật hoặc chết khi đang chuyển dạ. Ngay từ sớm bạn có thể biến mất, được thay thế bởi một phụ nữ trẻ trung và mắn đẻ khác, có khả năng nuôi nấng đứa con của bạn. (Câu chuyện về những người mẹ kế là cả một chủ đề khác.) Thời bấy giờ, bạn phải tạo ra một cái gì đó mà bạn có thể để lại, để thắp sáng con đường, để tiếp tục rải những mẩu vụn bánh mì, để dọn sạch những gai góc từ bụi cây. Một cái cây, một con ma, một con gấu hay là một bà tiên tốt bụng – dù là gì đi nữa, cũng là một thứ gì đó kéo dài sự tồn tại của bạn.

Một người mẹ phải truyền lại một món quà, một câu chuyện. Và cô con gái phải sẵn sàng. Cho sự ra đi của mẹ cô ấy – và cũng cho sự ra đi của chính bản thân cô ấy.

*

Con gái tôi mới chỉ hai tuổi, nhưng tôi đã lo lắng về tình trạng được trao quyền của bé. Tôi mua những cuốn sách về những người phụ nữ nổi tiếng, những nhà khoa học và những họa sĩ, những chính trị gia. Một bìa sách đã ghi rằng: “Đây là những câu chuyện cổ tích, được thêu dệt lại và kể lại. Đánh thức những cô gái trẻ và phụ nữ mọi lứa tuổi”. Tôi không thể chờ đến lúc cô bé gặp gỡ công chúa Leia và đặc biệt (cuối cùng!) là Rey. Chúng tôi còn xem những chương trình nơi những cô gái mạnh mẽ tỏa sáng.

Và bây giờ, cô bé sẽ đọc những câu chuyện cổ tích vui vẻ, không có mối đe dọa nào. Nhưng khi cô bé lớn thêm một chút, chúng tôi sẽ đi sâu vào những điều thực tế, không thêu dệt. Khi mà cô bé sẵn sàng, tôi muốn cô bé đọc Cô bé lọ lem (Cinderella) với những cô chị kế tự cắt xẻo thân thể mình, Người đẹp ngủ trong rừng (Sleeping Beauty) với kẻ hiếp dâm và những đứa trẻ, Tấm da lừa (Donkey Skin) với người cha loạn luân tâm tưởng. Tôi muốn cô bé đọc Cô bé quàng khăn đỏ (Little Red Riding Hood) với con sói sát nhân nấp sau cánh cửa.

Không phải là tôi muốn con gái mình bị chấn thương tâm lý. (Cô bé cũng sẽ không bị, như bất kì ai từng đọc Bruno Bettelheim đều biết; trong The Uses of Enchantment (tạm dịch Tác dụng của Phù phép), ông viết: “Trẻ con đều hiểu theo trực giác rằng mặc dù những câu chuyện này không có thực, nhưng chúng cũng không phải là không đúng”.) Nhưng tôi muốn chúng ta ngừng giả vờ rằng nếu chúng ta tuyên bố một điều là như vậy, thì nó phải là như vậy. Chúng ta có thể viết vô số những cuốn sách chúng ta muốn về các công chúa anh hùng chinh phục thế giới – và tôi luôn chào đón chúng – nhưng điều đó không ngăn ngừa việc phụ nữ bị bám đuôi, bị quấy rối, bị bịt miệng, bị hãm hiếp, bị cưỡng ép kết hôn, bị nhắm đến, bị ngăn cản đấu tranh cho quyền sinh nở. Việc giúp cho con gái chúng ta hiểu rằng chúng có sức mạnh nội tại để trở nên thông minh, trở nên cứng rắn, để tiếp nhận thế giới theo cách riêng của chúng là một chuyện. Nhưng việc tẩy trắng những khó khăn rất thực tế mà chúng (và mẹ của chúng) gần như chắc chắn phải đối mặt, bất kể chúng được tiếp sức mạnh mẽ đến thế nào lại là một chuyện hoàn toàn khác. Chúng ta được sinh ra trong một thế giới nhất định, và cách chúng ta tồn tại trong thế giới một phần nhờ can đảm và một phần, thẳng thắn mà nói, là nhờ thận trọng và nghe theo các cảnh báo.

Vâng, con gái tôi sẽ xem Wonder WomanTangled. Nhưng cuối cùng, chúng tôi cũng sẽ tìm hiểu về Boko Haram, về những gia đình đa thê người Mormon, về các cô dâu của ISIS, rằng có một điều khó tin rằng cứ một trong ba phụ nữ trên thế giới sẽ trải qua bạo lực giới tính trong suốt cuộc đời của họ. Cô bé sẽ hiểu rằng thế giới này vẫn chưa dành cho phụ nữ. Cô bé sẽ học được rằng mặc dù được sinh ra trong thời đại này, trên mảnh đất này, cô vẫn không phải là một người đàn ông. Cô vẫn phải – kể cả thông qua thứ nữ quyền quả quyết, hân hoan của mình – học được một kĩ năng sắc bén nhất định. Cô bé có thể nhảy nhót theo cách của mình cả ngày, nhưng cô bé phải đi nhanh, chìa khóa sẵn sàng trên tay, khi trời đã mờ tối.

*

Tôi đã được hỏi trong các cuộc phỏng vấn, trong các lớp học và bởi các khán giả, liệu tôi có nghĩ rằng những câu chuyện cổ tích mang tính nữ quyền hay không. Tôi nghĩ là có, những không phải đúng cái định nghĩa hiện đại của chúng ta về nữ quyền. Những câu chuyện cổ tích truyền thống đã được tạo ra từ lâu trước khi có bất kì khái niệm nào như vậy tồn tại, và tôi sẽ nói rằng chúng hỗ trợ phụ nữ, thay vì nâng đỡ họ. Chúng cảnh báo, thay vì ca ngợi. Chúng có ích, và đó là một loại nữ quyền lâu đời hơn nhiều.

Tuy vậy, nhiều nhà văn hiện đại đã lấy những truyện cổ tích truyền thống và tạo ra một phiên bản nữ quyền rõ ràng hơn, một phần bằng cách đơn giản là đảo ngược các kì vọng. Angela Carter và Kelly Link là những ví dụ tôi nhớ, cũng như Helen Oyeyemi, Molly Gaudry, Kate Bernehimer và Matt Bell. Những nhà văn này không tạo ra những câu chuyện cổ tích nữ quyền rõ ràng theo cách như, ví dụ, của bộ phim Frozen. Thay vào đó, họ nhìn kĩ vào bản chất nan giải của những câu chuyện đặt trước mắt họ, và cho chúng ta những góc nhìn mới, cách thức mới để xem. Thường thì phiên bản kể lại của họ còn đen tối hơn cả bản gốc, một phần bởi vì họ mời gọi một ánh nhìn nữ quyền hiện đại, đồng thời vén bức màn tiết lộ sự thiếu thốn kinh khủng các lựa chọn mà những nhân vật chính của chúng ta phải đối mặt. Không hề có những cái đòn bẩy hay nút nhấn nào; chỉ có những độc giả hiện đại, nhìn thấy rõ ràng (và không thoải mái) sự tương đồng giữa cuộc sống những nhân vật chính và phụ nữ trong thời đại của chúng ta.

“Chúng cảnh báo, thay vì ca ngợi. Chúng có ích, và đó là một loại nữ quyền lâu đời hơn nhiều”

Gần đây, Hilary Mantel đã chỉ trích các nhà văn đã trao quyền sai cách cho những người phụ nữ của lịch sử, nói rằng, “Đây là một khó khăn dai dẳng cho các nhà văn nữ, những người muốn viết về phụ nữ trong quá khứ, nhưng không thế cưỡng lại lại việc ‘trao quyền’ họ. Điều đó là sai lầm.”

Tôi nghĩ rằng tôi đồng ý với Mantel ở một mức độ nào đó. Bạn không thể trao quyền cho các nhân vật khi mà sự thiếu quyền của họ là điều dẫn dắt câu chuyện ngay từ đầu. Nhưng luôn luôn có một điều gì đó mà nhà văn có thể đưa cho nữ nhân vật bị vây khốn trong truyện cổ tích của họ – kể cả khi đó chỉ là một con dao lớn sắc bén. Hay là những kĩ năng để dụ con sói lên giường.

*

Cha sinh mẹ đẻ của một số trong những câu chuyện cổ tích này đã thêu dệt từ rất, rất lâu – trong một số trường hợp, đến hàng ngàn năm. Cuộc sống thật khó khăn, ngắn ngủi, tàn bạo, đặc biệt là đối với phụ nữ. Và ngay cả khoảnh khắc này trong lịch sử, phụ nữ và các cô gái trẻ vẫn còn phải làm bạn với bóng tối, nơi mà những câu chuyện cổ tích thể hiện tốt nhất.

Những cảnh báo vẫn vang lên đúng đắn.

Trong Người đẹp và quái vật (Beauty and the Beast), con gái của thương gia cuối cùng cũng phải lòng chính kẻ bắt cóc nàng, hoặc ít nhất là nàng giả vờ. Trong Chú lính chì dũng cảm (The Steadfast Tin Solider), cô vũ công ba lê – vì phớt lờ người lính nhỏ yêu cô – nên đã bị trừng phạt bằng việc bị đốt cháy trong bếp lò cùng với anh ta. Trong Những chú thiên nga hoang dã (The Wild Swans), Những viên kim cương và những chú cóc (Diamonds and Toads), Nàng tiên cá (The Little Mermaid), và một số lượng lớn những câu chuyện cổ tích khác, nhân vật nữ chính bị mất đi khả năng nói, và do đó cô ấy mất đi khả năng kiểm soát số phận của chính mình.

Và chẳng phải là chúng ta vẫn luôn có những phụ nữ mắc kẹt trong những cuộc hôn nhân và gia đình lạm dụng, phụ nữ bị trừng phạt (đôi khi là bị giết) bởi vì họ không thể đáp trả tình yêu của một người đàn ông, phụ nữ đã ép phải im lặng theo vô số cách? Một báo cáo mới của CDC tiết lộ rằng, phần lớn các vụ giết người với nạn nhân là phụ nữ Mỹ liên quan đến bạo lực gia đình. Làm sao chúng ta có thể không nhìn thấy lời cảnh báo trong những câu chuyện cổ tích, đối với con gái chúng ta và ngay cả chính chúng ta, vẫn còn ở trong mối đe dọa bây giờ và cả ngày mai?

*

Một điều cứ xuất hiện liên tục trong các cuộc trò chuyện và đánh giá trực tuyến: một số độc giả trẻ nhất định cảm thấy rằng câu chuyện cổ tích trong bộ sưu tập gần đây nhất của tôi, một phiên bản của Những chú thiên nga hoang dã, làm họ nôn nao khó chịu. Có một cảnh cưỡng hiếp – mang tính ám chỉ nhiều hơn là mô tả trực diện, nhưng họ vẫn cảm thấy như bị đánh úp. Và tôi hiểu cùng đồng cảm với sự sầu muộn đa cảm của họ. Là một người mới làm mẹ, tôi cảm thấy choáng ngợp với những nhu cầu gần như là bản năng cần thiết để bảo vệ tất cả những người phụ nữ trẻ tôi biết.

Nhưng đồng thời, tôi nghĩ rằng những cảm xúc đau khổ có thể có ích. Tôi nghĩ nó rất quan trọng. Vì hiếp dâm, lạm dụng, quấy rối – những điều đó CÓ đánh úp phụ nữ. Chúng ta không thể được trao quyền nếu chúng ta không sẵn sàng, nếu chúng ta không chuẩn bị, nếu chúng ta không biết tại sao những người mẹ và các cô con gái biến mất. Đôi khi, những con sói không mời mà đến.

“Nhưng luôn luôn có một điều gì đó mà nhà văn có thể đưa cho nữ nhân vật bị vây khốn trong truyện cổ tích của họ – kể cả khi đó chỉ là một con dao lớn sắc bén.”

Tôi chưa bao giờ tin rằng những người trẻ bây giờ bị cưng chiều hay là những kẻ hèn nhát theo một cách nào đó. Điều này hoàn toàn là vớ vẩn, và, thẳng thắn mà nói, cái sự thật rằng lời buộc tội này nhắm đến một thế hệ trưởng thành trong cái bóng của biến đổi khí hậu và vụ 11/9 cùng khoản nợ vay vốn sinh viên khổng lồ thật tởm lợm. Nhưng một cách tôi muốn bảo vệ họ, và cũng là để bảo vệ con gái của tôi và thế hệ của nó, là vẽ nên khuôn mặt của những cái ác để họ có thể nhận ra nó, ngay lúc này và không hề cách đây lâu.

Và tôi cho rằng đó là những điều mà các bà mẹ ấy đang làm – những người viết nên những câu chuyện này. Tôi không cho rằng họ muốn dọa dẫm con gái hay cháu gái của họ giống như tôi không muốn dọa con gái tôi. Nhưng họ biết những điều mà các cô gái cần biết về thế giới rộng lớn và độc ác. Kể cả khi họ cần phải phát minh ra một cái cây hay một con cáo hay một nàng tiên để kể về nó.

*

Một ngày nào đó, con gái của tôi sẽ hỏi tôi rằng tại sao lại không có những người mẹ trong những câu chuyện cổ tích, và tôi sẽ nói với cô bé rằng thế giới là một nơi nguy hiểm cho phụ nữ thời đó.

Thời đó, tôi sẽ nói vậy, và tôi sẽ truyền tải thông điệp đó với nhiều ý nghĩa nhất có thể. Tôi sẽ không thêm vào “và bây giờ”. Tôi sẽ để cô bé tự đi đến kết luận đó giống như tôi đã từng làm, giống như những người đọc truyện cổ tích trước tôi đã làm, cả quãng đường đi ngược tìm về khởi nguyên của chính những câu chuyện ấy. Cô bé sẽ không sợ hãi, tôi hi vọng là như vậy – và cô bé sẽ được trao quyền, tôi hi vọng vậy – nhưng cũng sẵn sàng nghiêm túc để đi vào thế giới và chiến đấu với tất cả những gì cô bé nhìn thấy. Vua và hoàng hậu, phù thủy và những tấm gương ma thuật, mẹ kế và những người cha nhu nhược, kẻ cải trang và thợ săn, vâng, – cả những con sói xinh đẹp và nguy hiểm.

Hết.

Natsukashii Ame dịch.

Bản gốc được thực hiện bởi Amber Sparks, đăng tại Literary Hub.


Những bài viết có cùng chủ đề cổ tích



1 Comment

1 Bình luận

  1. Pingback: Truyện cổ tích: Minh chứng cho sự khác biệt trong cách các nền văn hóa nhìn nhận thế giới – Bookish

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Sài Gòn – Hồi sinh từ ký ức, vươn mình đến tương lai

Từ ngày 1/7/2025, cái tên “Sài Gòn” chính thức trở lại trên bản đồ hành chính Việt Nam. Đây không phải là tên thành phố, mà là tên của một phường trung tâm thuộc TPHCM. Một sự thay đổi tưởng chừng kỹ thuật, hành chính, nhưng lại gợi lên những suy tư lớn hơn: về ký ức đô thị, về cách chúng ta gọi tên một vùng đất và về hướng đi của tương lai giữa dòng chảy đổi mới.

Published

on

Từ nay, người dân sẽ phải làm quen với những tên gọi mới, địa giới mới và cả cách quản lý mới. Nhưng giữa tất cả những đổi thay ấy, cái tên “Sài Gòn” không trở lại như một nỗi hoài niệm, mà như một sợi chỉ đỏ âm thầm nối liền ký ức và hiện tại: bền bỉ, lặng lẽ nhưng chưa từng đứt đoạn. Một cái tên chưa bao giờ mất đi trong tâm thức người dân, nay được trả về đúng vị trí của nó: chính danh và được ghi nhận.

Tên cũ hồi sinh, đô thị vươn mình

Không chỉ hiện diện trong ký ức của hàng triệu người dân, Sài Gòn còn là mạch nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều thế hệ người viết, người sáng tác. Trong đó, có thể kể đến tác giả Phạm Công Luận - một cây bút gắn bó lâu năm với Phương Nam Book và được xem là người dành trọn tâm huyết để viết về Sài Gòn. Gần như mỗi năm, ông lại cho ra đời một tác phẩm mới, nhưng điều đặc biệt là dù đã viết rất nhiều năm, rất nhiều sách, ông vẫn luôn tìm ra được những góc nhìn mới, tinh tế và giàu cảm xúc về vùng đất này.

Từ Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, Hồi ức Phú Nhuận,đến Có một thời ở Chợ LớnMade in Sài Gòn - hai tác phẩm vừa được phát hành đầu năm nay, những trang viết của ông như một hành trình gom nhặt lại những ký ức xưa cũ về Sài Gòn. Chính những tác phẩm ấy là bằng chứng cho thấy: Sài Gòn không chỉ tồn tại trên bản đồ, mà sống động trong văn hóa, tâm tưởng và cả trong từng chi tiết đời sống hàng ngày của người dân.

Bởi vậy, khi cái tên “Sài Gòn” trở lại trong một vị trí hành chính cụ thể, đó không đơn thuần là sự phục dựng danh xưng, mà là sự thừa nhận giá trị văn hóa, tinh thần mà vùng đất này đã và đang mang trong mình. Nhưng câu chuyện không chỉ dừng ở ký ức hay bản sắc. Việc sáp nhập, thay đổi đơn vị hành chính lần này còn là một phần trong chiến lược cải tổ toàn diện, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, tinh gọn bộ máy và hướng đến một đô thị hiện đại.

Bởi vậy, mô hình hành chính mới không đơn thuần là tinh gọn bộ máy, mà còn là cơ hội để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, hiện đại hóa quản lý, nâng cao chất lượng dịch vụ công và cuộc sống người dân. Đây là một phần trong chiến lược phát triển bền vững, toàn diện và hội nhập sâu rộng mà Việt Nam đang theo đuổi. Và để chiến lược đó đi vào thực tế, không thể thiếu sự góp sức của mỗi cá nhân - những người đang sống, làm việc, học tập và trực tiếp cảm nhận từng thay đổi nhỏ nhất trong đời sống hàng ngày.

Đổi mới không chỉ đến từ chính sách, mà bắt đầu từ chính chúng ta - những người kiến tạo nên diện mạo mới cho đô thị mỗi ngày.

Thế hệ trẻ giữ vai trò tiên phong trong hành trình đổi mới

Đổi mới không phải là khẩu hiệu treo tường, mà là từng hành động cụ thể mỗi ngày: một sinh viên chọn học thêm kỹ năng mềm; một kỹ sư chủ động cập nhật công nghệ mới; một giáo viên thay đổi cách giảng dạy để học sinh dễ tiếp cận tri thức hơn. Con đường học vấn không chỉ là hành trang cá nhân, mà còn là cách mỗi người góp phần xây dựng quốc gia trong thời đại tri thức. Như lời Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói: “Mỗi ngày làm việc là một ngày kiến tạo”. Và với người trẻ hôm nay, sự kiến tạo ấy chính là học tập, là tư duy phản biện, là sự dấn thân vào hành trình đổi mới - không chỉ để thay đổi bản thân, mà còn để thay đổi xã hội.

Những thay đổi ấy đang diễn ra ở khắp nơi: từ miền núi, hải đảo xa xôi đến các đô thị trung tâm hay những vùng sáp nhập mới. Và câu chuyện của Sài Gòn hôm nay - một địa danh cũ trở lại trong hình hài hành chính mới chỉ là một lát cắt trong bức tranh cải tổ rộng lớn mà cả nước đang cùng nhau vẽ nên.

Tên gọi có thể đổi. Địa giới có thể gộp. Nhưng khát vọng vươn lên, ý chí tự cường và tinh thần làm chủ vận mệnh thì vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Sài Gòn hôm nay đang bước vào một hành trình mới: hành trình của hiện đại, của tinh gọn, của đổi mới. Nhưng trên hết, đó là hành trình mà trong đó, người dân không chỉ là đối tượng của thay đổi, mà là chủ thể kiến tạo.

Một cái tên trở lại. Và cả một thời đại mới - bắt đầu.

Thùy Dương

Đọc bài viết

Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Cafe sáng