Chuyện người cầm bút

Linda Lê – Khi nỗi buồn lấp lánh như những hạt ngọc nơi khóe mắt

Linda Lê là một tác giả cần phải đọc với những ai luôn băn khoăn, trăn trở về nghề viết

Published

on

Tuần trước, khi đọc những dòng tin ngắn gọn thông báo về sự ra đi của Linda Lê, trong lòng tôi bồi hồi nhớ đến nhiều câu chuyện cũ. Buổi tối hôm đó, tôi đã đọc lại Vượt sóng – một tác phẩm bày tỏ nhiều băn khoăn, trăn trở về nghề viết rất hay của bà. Tôi nhận ra nhiều điều bà viết vẫn rất đúng và chưa bao giờ cũ. Đó không chỉ là câu chuyện của riêng nhân vật Antoine Sorel, hay của bà, đó có lẽ còn là câu chuyện chung của những người cầm bút.

Tôi biết đến Linda Lê lần đầu tiên vào năm 2011 do một bạn văn giới thiệu. Khi ấy, tôi còn loay hoay trong việc định hình văn phong, chưa đủ tự tin để đánh giá những gì mình viết liệu có ổn không, cần phải sửa chữa những gì cho lần tới, làm sao để tạo dựng phép tu từ độc đáo hơn. Thế là, bạn giới thiệu cho tôi cuốn Vu khống của Linda Lê và hết lời ca ngợi bà. Thời điểm đó, Việt Nam chỉ mới có hai tác phẩm của bà được dịch và xuất bản là Vu khống Lại chơi với lửa. Bạn nói cả hai cuốn đều hay nhưng tôi nên bắt đầu đọc Vu khống trước, rằng việc đọc văn của bà sẽ giúp tôi ngộ ra rất nhiều điều về văn chương có ích cho cách hành văn của tôi. Nhưng ở thời điểm ấy, khi tôi tìm thì cả hai quyển này cũng đều đã khan hiếm trên thị trường, hầu như không còn bất kì bản in nào nữa. Bạn đã cho tôi mượn hai quyển này với lời dặn dò tôi sớm đọc để trả lại bạn vì tuy bạn luôn sẵn sàng cho mọi người mượn sách (thậm chí là tặng) nhưng với hai quyển này thì bạn đặc biệt muốn giữ lại chỉ đơn giản vì trong đó có nhiều ghi chú riêng tư bên lề trang sách mà bạn không muốn bất kì ai đọc được. Tôi biết hai cuốn sách đó rất quí giá với bạn. Tôi nhớ rằng mình đã cố tình đặt cả hai quyển ở vị trí luôn lọt vào tầm mắt mỗi lần nhìn tủ sách để sớm đọc và trả lại bạn. Nhưng tôi không nhớ rõ vì sao mình đã không đọc vào thời điểm ấy – ngay khi bạn vừa mới cho mượn. Tôi cứ đọc những quyển sách khác rồi quên bẵng đi sự tồn tại của chúng trên kệ sách từ lúc nào không hay. Cho đến lúc không còn giữ được liên lạc với bạn, tôi vẫn chưa kịp đọc để trả lại bạn như lời đã hứa. Và tận bây giờ, sau mười một năm, cả hai quyển này vẫn ở trên kệ sách của tôi, tôi vẫn chưa đọc – nhưng nó ở đó giống như một lời nhắc nhở rằng Linda Lê là một trong những tác giả bạn tôi vô cùng yêu mến.

Có tồn tại khái niệm gọi là “diễn viên của một bộ phim”, “nghệ sĩ của một tác phẩm”, tức là người diễn viên sau khi đóng xong một vai diễn trong một bộ phim thì không thoát vai được, không thể tiếp tục diễn một vai khác trong một phim khác – hoặc nếu có diễn thì vẫn không để lại ấn tượng; “nghệ sĩ của một tác phẩm” cũng tương tự như thế. Nếu hiểu như thế thì đối với Linda Lê, trong vai trò là người đọc, tôi đang tạm giữ chức danh gọi là “độc giả của một tác phẩm”. Khi nghĩ đến danh xưng này, tôi cảm thấy hơi buồn cười một chút vì từ đó đến nay, tôi chưa nghe bất kì ai gọi như thế, có lẽ đơn thuần vì thông thường người ta sẽ không biến việc này thành một danh từ mà chỉ đơn giản giữ nó ở mức là một động từ, cách nói này sẽ phổ biến hơn: “Tôi chỉ mới đọc một tác phẩm của tác giả A,” đại loại như thế. Khi giữ mọi thứ ở mức động từ tức là các hành động ấy còn trong trạng thái tiếp diễn, có thể thay đổi, nó không cứng nhắc và gò vào một cái khung như khi đã được định danh. Thực tế ấy cũng phản ánh nguyên nhân vì sao người ta không có nhu cầu lập danh từ cho hành động này: đơn giản vì ở vị thế của một người đọc, việc phá vỡ định danh “độc giả của một tác phẩm” là điều rất dễ dàng, đọc là một hành động dễ dàng, dễ hơn viết hay bất kì hoạt động nghệ thuật nào khác rất nhiều – bạn chỉ cần đọc thêm một tác phẩm nữa của người đó thôi thì cái danh xưng “độc giả của một tác phẩm” sẽ không còn đúng nữa. Ấy vậy mà từ lúc đọc Vượt sóng vào đầu năm 2018 đến nay đã bốn năm, tôi vẫn chưa tìm được cách để thay đổi điều đó dù rằng trong tay có sẵn phương tiện là hai quyển sách bạn cho mượn. Điều này khiến tôi cảm thấy mình không có đủ tư cách để viết cảm nhận về bà – cho dù chỉ là dưới góc nhìn cá nhân – bởi lẽ sách bà đã viết so với số lượng một cuốn tôi đọc được thì khoảng cách quá lớn. Tuy nhiên, ở thời điểm này tôi lại cảm thấy thôi thúc muốn viết về bà, viết cho bà. Tôi nghĩ có lẽ bà cũng có thể thông cảm mà bỏ qua cho người “độc giả của một tác phẩm” như tôi.

2018 là một năm tôi đang ở điểm trũng của cuộc đời và việc đọc Vượt sóng ở thời điểm đó đã mang lại cho tôi sự khích lệ đáng kể. Ngay từ những trang đầu của quyển sách, ta biết được nhà văn tài năng Antoine Sorel – nhân vật trung tâm của câu chuyện đã tự sát bằng cách nhảy lầu. Một phóng viên trẻ mến mộ tác phẩm của Sorel đã hết sức bàng hoàng, anh quyết định tìm hiểu toàn bộ cuộc đời Sorel trước đó để biết được nguyên nhân vì sao câu chuyện đau lòng này lại diễn ra. Giống như tác phẩm Nhật kí chim én của Amélie Nothomb, câu chuyện khởi sự bằng một cái chết, bằng sự tiếc nuối khôn nguôi của người ở lại – đặc biệt khi người đó chỉ vừa mới biết và mến mộ người quá cố – nhưng có lẽ cuộc sống phần nào cũng tương tự như thế. Thông qua cuộc gặp gỡ giữa người phóng viên và những thân nhân của Sorel, bức tranh về cuộc đời nhà văn bất hạnh này dần sáng tỏ. Có thể thấy Linda Lê gửi gắm rất nhiều tâm tư về văn chương, về việc viết, việc đọc thông qua cuộc đời của Sorel.

Sorel rất nghèo khó, anh phải làm nhiều công việc cực khổ kiếm sống để đổi lại vài giờ ngắn ngủi được đọc sách. Dù vậy, chỉ cần có khoảng thời gian ít ỏi đắm mình vào văn chương với anh đã là hạnh phúc.

“Anh bắt đầu công việc lúc bình minh và chỉ lên giường vào một giờ sáng, mệt lả đến mức anh ngủ thiếp đi sau khi chỉ đọc được hai trang sách. Dù cực khổ anh vẫn hạnh phúc vì đã trốn xa bố anh.

Mỗi khi anh lãnh lương, anh mua gom những cuốn tiểu luận nói về những chủ đề khác nhau ở các cửa hiệu sách cũ. Vào mỗi Chủ nhật, ngày nghỉ duy nhất của anh, anh ngồi dính vào chiếc ghế cứng mà Malek cho anh mượn và đắm chìm vào những trang sách ấy, chúng làm anh quên mọi thứ. Anh không còn là đứa con trai của Martin. Anh không còn là tên túng thiếu không có lấy một đồng để mua sách nếu Malek không cho anh ăn miễn phí. Anh không phải bị rét cóng trong căn phòng băng giá của anh vào mùa đông đến mức anh phải ủ người trong chiếc áo khoác anorac, mang những đôi găng tay hở ngón và thòng vào chân nhiều đôi vớ. Anh không còn là gã bồi bàn quán cà phê chạy lăng xăng để thỏa mãn khách, chạy từ bếp ra sảnh nhiều đến nỗi chân của anh rộp những bọng nước. Anh không còn là người thanh niên bị buộc phải làm việc trong khi đó anh ước ao trở thành sinh viên văn khoa, chỉ quan tâm đến việc ghi chú các trang sách, biết rõ tiểu sử của các nhà tri thức bách khoa, dịch các truyện thơ tiếu lâm cổ trung đại sang ngôn ngữ hiện đại và tìm hiểu các nhà hình thức chủ nghĩa Nga.”

Tuy vậy, Sorel lại không tự tin vào tài năng văn chương của mình và gần như xa rời mọi cuộc giao lưu với giới văn sĩ Pháp.

“Thậm chí sau khi xuất bản vài cuốn sách, anh vẫn không có được niềm tin vào tài năng viết văn sẽ được giới văn học công nhận, nhất là anh không bao giờ đặt chân lên Paris mỗi tuần và không tới lui những quán cà phê nơi tụ tập của các nhà văn. Anh không rời Le Havre – ở tỉnh vẫn dễ dàng xoay xở hơn khi không giàu có. Anh luôn kiếm được vài ba đồng đây đó, anh xoay xở với những gì anh có, buổi trưa anh ăn bánh mì thịt nguội trét bơ hay dùng những miếng rau củ chiên, và tối anh ăn mì ăn liền. Món sang của anh đó là thuốc lá và rượu. Vào những lúc anh xuống tinh thần, anh đi ngắm sóng vỗ vào đê biển.”

“Antoine chỉ đến những bữa tiệc cocktail vì có rượu ngon để uống. Anh không bắt chuyện làm quen với một ai. Khi ai hỏi anh về công việc, anh thậm chí không trả lời anh viết sách. Isabelle kể lại cho Jean những chuyện đó và cho rằng anh không phải là một người biết hòa đồng.”

Giống như phần lớn mọi nhà văn, anh không có được sự ủng hộ từ bậc song thân.

Với người cha thì:

“Hẳn ông dám đánh cược năm ăn một rằng con trai ông sẽ thất bại, nó sẽ chết trẻ, và chẳng làm được gì khác ngoài việc làm thất vọng những độc giả của mình qua việc chỉ ra hai thực tế: họ chỉ là trò bịp, họ cố thổi phồng nhân sinh quan của cá nhân, nhưng họ chỉ đẻ ra những thứ tiểu tiết.”

Với người mẹ thì:

“Bà cảm thấy tiếc cho trí thông minh của anh, anh đã không trèo lên địa vị cao trong xã hội, anh lại chọn cuộc sống mộng mơ trong túng quẫn. Những cuốn sách không mang lại may mắn, bà nói thế. Càng đọc, anh càng trở nên gần như điên loạn. Giá như anh tự bằng lòng với việc đọc thôi, đằng nay anh lại đi vào con đường viết sách. Bà không đọc báo, bà không thể hình dung người ta có thể sống bằng văn chương. Tại sao Antoine không có một nghề nghiệp nào như bao người quen khác? Bà ấy đỏ mặt tía tai khi người ta hỏi về anh. Và khi những cuốn tiểu thuyết đầu tay của anh ra đời, một vài người nói với bà rằng thằng Antoine “của bà” muốn làm “như Parisian” nhưng đâu dễ. Bà còn không được tặng sách, dù gì bà cũng chẳng đọc, vì bà không tán thành chuyện Antoine chọn con đường sự nghiệp nhiều rủi ro như vậy, theo bà đa số các nhà văn chỉ là những người làm công bấp bênh. Anh đã có thể gửi sách đến cho bà, xem như để cho bà biết tin tức, vì anh đã bỏ đi sống ở đâu bà cũng không biết.”

Tuy nhiên, Sorel cũng có một quãng thời gian hạnh phúc, đáng nhớ với vợ. Linda Lê đã khắc họa mối tình này rất kĩ lưỡng, có thể thấy ở đây là một khuôn mẫu điển hình của tình yêu giữa nhà văn và độc giả. Thông qua hình ảnh của Isabelle – vợ của Sorel, Linda Lê cũng cho thấy kiểu độc giả lí tưởng của một nhà văn sẽ là người như thế nào. Gia đình của Isabelle không có đam mê văn chương như cô, thói quen đọc của họ khác hẳn cô.

“Cô tự nhủ có lẽ cô không có cùng gen với bố. Cô đam mê nghệ thuật và văn chương, nhưng những nhà thơ cô ngưỡng mộ là những “tên xấu xa” dưới con mắt bố cô, họ tự cho mình quyền được nhàn rỗi và vô trách nhiệm, sống bám xã hội. Dĩ nhiên ông không đọc những tác phẩm của họ, ông chỉ đọc những tạp chí về trang trí nội thất, để bắt kịp các xu hướng mới, ông cũng đọc các báo về kinh tế để biết nên đầu tư vào nơi nào. Kiểu nói văn vẻ về tình yêu, theo như ông ấy nói, là thứ keo dán, ngay ông có lẽ cũng rất tiết kiệm những lời nói yêu đương. Mẹ của cô đặt mua một nguyệt san về chiêm tinh học, để bà có thể trao đổi trong những bữa tiệc trà về những tiên đoán của một bà tiên tri nổi tiếng (“Theo như quan sát vị trí của Pluton, đảng xã hội sẽ thua đậm trong cuộc bầu cử”), về tính thực dụng của Xử Nữ, sự kiên cường của Bạch Dương, sự công minh của Bảo Bình. Bà cũng đặt mua một tuần báo chủ yếu nói về các đám cưới hoàng gia và các ngôi sao quay lại sàn diễn với những bài hát đánh dấu quãng đời niên thiếu của bà.”

Có thể thấy chỉ bằng việc miêu tả thói quen đọc của từng người, Linda Lê đã phác họa được khoảng cách khác biệt giữa các thành viên trong gia đình lớn như thế nào. Chính vì vậy, Isabelle dễ dàng tìm thấy sự đồng điệu trong tâm hồn với Antoine và cô đã yêu anh trước hết bằng tình yêu của một độc giả với một tác giả.

“Khi được biết anh là tác giả của hai cuốn tiểu thuyết và một tuyển tập thơ được xuất bản với số lượng ít ỏi nhưng được những người am hiểu khen ngợi, dù không may đấy không phải là những người có tầm ảnh hưởng lớn, cô đã hứa sẽ mua các tác phẩm của anh và đọc chúng một cách say mê, bởi vì cô biết chắc rằng nếu như vậy cô sẽ được khai sáng về tinh thần. Cô cũng biết chắc rằng sau khi đọc xong cô đủ khôn khéo để gửi cho Sorel một bức thư sẽ lay động anh.

Ngay sáng hôm sau, cô nhanh chóng đi ra một hiệu sách để mua cho mình ba cuốn sách đó. Chúng đóng bụi trên một kệ sách ở phía cuối trong một góc tối của cửa tiệm. Cô mang chúng về nhà, đặt chúng gần chiếc gối và trong nhiều đêm liên tiếp, cô đắm mình vào việc đọc chúng và ngày càng bị chinh phục. Cô nghĩ: “Tôi sẽ có được người đàn ông này. Cho dù gia đình họ hàng sẽ không thích.” Cô chưa bao giờ làm những gì người khác bắt cô làm. Nếu cô đã sống như những người phụ nữ dại khờ trong cái thế giới của mình, cô sẽ chỉ là một cô bé đáng thương, chỉ nghĩ đến việc có được những bộ đầm như những minh tinh màn bạc được các thợ săn ảnh chụp, đi chơi với những tên trẻ tuổi trong những chiếc xế hộp của chúng và lui tới những nơi cần đến để được người ta chú ý. Cô không phải là những phụ nữ kiều diễm không có đầu óc, với tương lai mù mịt, một con búp bê đẹp nhưng không có tầm nhìn sâu. Cô đón nhận những thông điệp chứa đựng trong các tác phẩm của Sorel dù văn chương của anh không phải kiểu văn chương truyền tải thông điệp: anh viết nhiều về bản thân mình, nhưng anh không phải là một người ngạo mạn và không thiếu sự chua cay. Ngay từ đầu cô xếp anh trong số những nhà văn có tài, có cái nhìn sáng suốt và đã phải làm việc rất nhiều để viết ra những tác phẩm hoàn hảo.”

“Trong những bài phỏng vấn của anh với một số báo, anh không nói nhiều về anh mà cũng không tỏ ra mình quan trọng. Anh nói rằng anh luôn bị bao vây bởi những nghi vấn, chúng đè nặng lên anh và đã rất nhiều lần anh có ý định buông tất cả để sống bụi. Chính điều này đã làm anh trở nên thân thuộc dưới con mắt cô. Cô tiếc vì đã không đọc sách của anh sớm hơn, trong khi đó cô luôn đi tìm những gì mới, cô không thể sống nếu cô không tự mình đi khắp nơi tìm cái đẹp ẩn náu, cô thấy trong thơ ca những lí lẽ để không phải đi theo con đường của bố mẹ cô. Cô hãnh diện đã không như hai chị em gái mình, xa lạ với nghệ thuật, không như bố của cô, hám tiền, và không như mẹ của cô chỉ làm những công việc nhàm chán, như chuẩn bị thực đơn cho bữa tiệc hay lương thưởng cho người hầu, vào những lúc bà không xem tử vi, chắc rằng mình đang làm những thứ siêu việt.”

“Trong suốt nhiều ngày, Isabelle hoàn thiện bức thư trong đó cô nói với Sorel rằng cô như bị phê thuốc sau khi đọc xong sách của anh. Cô chỉ có một ham muốn: kết bạn với anh. Cô viết nhiều về tính khí nóng nảy của cô, về việc cô cảm thấy cô đơn trong chính gia đình mình, một gia đình vô cảm trước cái đẹp, chỉ quan tâm đến “những thú vui trần tục”, cô viết về nhu cầu được thăng hoa và tình yêu của cô đối với những tác phẩm nghệ thuật đã giúp cô cách xa những thứ “vật chất tầm thường”. Việc liên lạc thư từ giữa hai người sẽ mang lại cho cô nhiều niềm vui lớn. Antoine sẽ giúp cô khai sáng. Những điều anh viết từ ngòi bút của anh dù nhỏ thôi cũng chứa đựng vô vàn điều hay…”

Tình yêu đẹp tuyệt vời là thế; tuy nhiên, khi hai người đã đến được với nhau thì cảnh tượng đau lòng tương tự như nhân vật Hộ trong tác phẩm Đời thừa của Nam Cao một lần nữa lại diễn ra.

“Nhiều đêm cô khóc, vùi đầu vào gối, trong khi đó, anh ngồi ở bàn làm việc chỉnh sửa bản viết tay mà anh tính vứt vào thùng rác. Cô thấy qua thái độ đó một lời trách móc thầm lặng nhắm vào cô: do sống chung anh đã phải hy sinh cuộc sống độc lập và nỗi đam mê viết của anh ngày càng lụi dần. Trước khi trở thành vợ của Sorel, cô không biết rằng có một đối thủ sẽ như thế nào, cô nói, cô nhanh chóng khám phá ra một đối thủ mang tên văn chương, và đó là một đối thủ có sức mạnh đáng gờm.”

Cuối cùng, Sorel rơi vào cảm giác chán nản không thể kháng cự nổi nữa:

“Anh la lớn anh chán ngấy cuộc đời này. Anh sẽ kết liễu nó nếu như anh đủ can đảm. Ngay những cuốn sách cũng không an ủi anh phần nào. Anh luôn tìm kiếm trong những cuốn kinh điển anh đã đọc nhiều lần lí do để bám lấy ảo tưởng rằng anh phải hoàn thành một nhiệm vụ trên thế gian này, rằng việc anh đam mê viết là hoàn toàn chính đáng, rằng chưa phải là mất tất cả khi nào anh vẫn còn tìm thấy câu chữ để có thể trấn an nỗi sợ hãi bên trong mình và quyết chiến với sự giả tạo bên ngoài. Nhưng ở tuổi ba mươi, anh có cảm giác ‘thể xác và tâm hồn’ đã kiệt quệ, như theo ai đó đã nói… Jean không còn nhớ là ai. Những năm tháng cực khổ đã vắt kiệt mọi sức lực của anh. Nhà văn không quan tâm đến tiền vì với anh, nuôi mộng bất tử là điều hoang tưởng. Anh đã sống cả một thập niên mà thậm chí không có gì để bỏ bụng và anh đã viết sách vào những lúc có lẽ anh nên bắn một phát vào đầu thay vì sống lay lắt như vậy. Nếu anh không chết ngay, ít ra anh cũng không muốn tham gia cuộc chơi của những người hợm hĩnh, mà anh không đi tìm nữa, như những tác giả trẻ mong muốn được đứng phía trước sân khấu, anh mong muốn có những thứ thỏa mãn nho nhỏ này khi đọc những phê bình ca ngợi anh. Hai cuốn tiểu thuyết đầu của anh chưa đủ táo bạo, anh tỏ ý tiếc nuối. Anh là người đánh giá khắt khe nhất, anh không tự cho mình là một người độc nhất vô nhị, nhưng anh cũng không ra vẻ khiêm tốn như những người thích tìm kiếm những lời ca ngợi. Anh hành xử không như một người tài năng thiên phú cảm thấy mình ưu việt. Anh không bao giờ đi rải những lời ca thán khi anh lại bị những thừa phát bám gót, anh không bao giờ nghĩ mình là nạn nhân của chủ nghĩa bài xích thơ ca khi sách của anh không được ai biết đến. Khi anh bị trầm cảm nặng, anh trốn trong nhà, tắt điện thoại sau khi báo cho các em trai biết anh cần được ở một mình, và trong những ngày như thế, anh cố gắng bằng mọi cách chiến thắng tình trạng mệt mỏi này và tránh làm phiền bất kì ai. Anh tin tưởng vào khả năng kháng cự của mình: nó chỉ phản bội anh nếu anh không tập hợp đủ năng lượng để sáng tác. Những tác phẩm của anh ra đời trong những giây phút kiệt quệ chán nản như thế.”

Và cuối cùng, anh đã chọn đến giải pháp là kết liễu chính cuộc đời mình.

Nhưng khác với nhân vật của mình, Linda Lê đã không lựa chọn giải pháp này. Dù đời sống có khó khăn thế nào, bà vẫn quyết tâm theo đuổi văn chương đến cùng, làm một nhà văn chuyên nghiệp chỉ sống bằng việc viết. Nhìn vào văn nghiệp của bà, ta có thể thấy cứ đều đặn một, hai năm bà lại cho ra mắt một tác phẩm. Vào năm ngoái, tác phẩm mới của bà có tên Toutes les colères du monde: La colère cũng vừa được xuất bản. Và bằng cách lao động miệt mài như thế, dù phải ra đi ở một độ tuổi vẫn còn trẻ, bà đã thực sự chiến thắng được tử thần với những tác phẩm sống mãi trong lòng người đọc.

Tôi mong trong một ngày gần nhất, mình sẽ không còn là “độc giả của một tác phẩm” của bà nữa. Vì bà xứng đáng được ta dành nhiều thời gian hơn, đọc đi đọc lại, để đắm chìm vào văn chương, đắm chìm vào thế giới mà ở nơi đó, nỗi buồn cũng thật lấp lánh, tựa như những hạt ngọc nơi khóe mắt.

Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Chuyện người cầm bút

Từ viết báo đến viết sách – Những con chữ đi qua lửa

Published

on

Có những con đường không hề cách biệt như ta từng nghĩ. Tưởng như báo chí và văn học là hai lối đi rẽ về hai phía: một nơi sắc lạnh hiện thực, một nơi dịu dàng mộng tưởng. Nhưng thực ra, giữa chúng là một cây cầu âm thầm bắt nhịp từ những con chữ. Và trên cây cầu ấy, biết bao người đã đi, trong lặng lẽ, đam mê, và đôi khi đau đớn, để từ trang báo bước sang trang sách, để từ tiếng nói của thời cuộc hóa thành tiếng lòng của con người.

Vào mỗi dịp 21/6 ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam, chúng ta không chỉ tưởng nhớ những người đã ngã xuống vì sự thật, vì lịch sử, mà còn để tướng nhớ trước những người đã viết không chỉ để đưa tin, mà để giữ lại một phần linh hồn thời đại. Những người viết báo, nhưng trong đáy chữ luôn có hơi văn. Những người viết sách, nhưng trong từng dòng vẫn vang vọng nhịp đập của tin tức, của điều vừa xảy ra, đang xảy ra. 

Báo chí: Trường học đầu đời của nhiều nhà văn lớn

Nói đến mối quan hệ giữa báo chí và văn học, không thể không nhắc tới những tên tuổi lớn như Nguyễn Tuân, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, hay sau này là Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng, Tô Hoài, Nguyễn Quang Thiều - những người đã bước ra từ báo chí để làm nên diện mạo của văn học hiện đại Việt Nam. 

Quả thật, báo chí đã trở thành cánh đồng đầu tiên nơi nhiều nhà văn cắm bút xuống đất, viết ra những mùa màng chữ nghĩa - vừa tươi rói đời sống, vừa nhuốm màu trăn trở nhân sinh.

Ở giai đoạn đầu thế kỷ XX, khi văn học Việt Nam đang chuyển mình từ văn chương chương hồi, biền ngẫu sang hình thái hiện đại, thì báo chí lại chính là chiếc cầu nối đầy táo bạo giữa chữ nghĩa và cuộc sống.

Vũ Trọng Phụng, cây bút hiện thực phê phán sắc bén nhất giai đoạn 1930–1945, đã bắt đầu sự nghiệp bằng những bài báo ngắn, tiểu phẩm và phóng sự đăng đều đặn trên Hà Nội Báo, Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Ông chính là người khai phá dòng văn học phóng sự ở Việt Nam với những tác phẩm như Kỹ nghệ lấy Tây, Lục xì, Cạm bẫy người - vừa mang tính điều tra báo chí, vừa kết tinh phong cách văn chương sâu cay, châm biếm.

Hay Ngô Tất Tố, bắt đầu từ những bài viết báo chí phê phán xã hội nông thôn, để rồi kết tinh lại trong Tắt đèn - một tiểu thuyết xé lòng về kiếp người trong vòng xoáy sưu thuế. Những bài phóng sự ngắn, góc nhìn trực diện của ông về nông thôn Bắc Kỳ thời kỳ Pháp thuộc đã sớm cho thấy một bút lực không khoan nhượng. Và với chị Dậu, khái niệm báo chí đã không còn như ban đầu, mà đã được tiểu thuyết hoá để trở thành biểu tượng cho hàng vạn thân phận bị nghiền nát trong guồng máy bất công - một sức mạnh mà chỉ văn chương mới có thể tạo nên, sau khi đã được chưng cất từ đời sống và ngôn ngữ báo chí.

Có một điều không thể phủ nhận: báo chí không chỉ rèn luyện kỹ năng viết, mà còn giúp nhà văn học cách sống giữa đời thực - nơi mà ngôn ngữ không còn là sự bày biện thẩm mỹ, mà là công cụ để chạm vào con người.

Nam Cao là một minh chứng. Trước khi trở thành nhà văn của những phận người tăm tối như Chí Phèo, Thị Nở, Lão Hạc, ông từng là phóng viên chiến trường, viết trong mưa bom, bụi đỏ. Những bài viết khi ấy không chỉ giúp ông rèn kỹ năng quan sát và ngôn ngữ, mà còn hun đúc nên giọng văn nhân đạo đến tận cùng, đau đáu với cái nghèo, cái đói, và lòng tự trọng bị chà đạp.

Nguyễn Tuân, cây bút tài hoa, duy mỹ bậc nhất của văn học Việt Nam hiện đại, cũng có một quá trình dài làm báo. Ông từng là phóng viên chiến trường trong cả kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Nhưng dù là phóng sự, tùy bút hay ghi chép, Nguyễn Tuân vẫn giữ cho mình phong cách “chơi ngông” chữ nghĩa - thứ làm nên linh hồn độc đáo trong Tùy bút sông Đà, tác phẩm kết tinh sự giao thoa hoàn hảo giữa chất liệu thực tế báo chí và cảm hứng nghệ thuật thuần túy.

Với Tô Hoài, hành trình từ báo chí đến văn chương cũng là một dòng chảy liền mạch. Ông bắt đầu viết báo từ thập niên 1930, sau này làm biên tập cho các tờ báo lớn. Những năm tháng gắn bó với nghề viết tin, phóng sự, đã rèn luyện cho ông một lối văn quan sát sắc sảo, từ tốn mà đậm tình. Điều đó thể hiện rõ trong Dế Mèn phiêu lưu ký – tác phẩm thiếu nhi kinh điển, nhưng đặc biệt sâu sắc trong các tập hồi ký như Cát bụi chân ai, Chiều chiều - nơi ông hòa trộn những mảnh đời thực với lớp ký ức văn chương đầy trầm tích.

Được coi là một hiện tượng văn chương sau Đổi mới, Nguyễn Huy Thiệp cũng là cái tên đi lên từ nghề báo, từng sống đời công chức bình dị, dạy học, làm xuất bản, rồi mới bước vào văn đàn với loạt truyện ngắn gây chấn động. Chính chất hiện thực trần trụi, cách nhìn sắc lạnh và nhãn quan xã hội bén nhạy trong văn của ông đã cho thấy dấu ấn của một người từng quen với thực tế đời sống, với cách tư duy nhanh gọn của nghề báo.

Có thể nói, giữa dòng chảy báo chí đầy biến động, họ - những nhà văn - đã không chỉ đưa ngôn từ vào con chữ, mà còn thắp lửa lên từng con chữ. Nhìn chung, có thể khẳng định rằng những cái tên trứ danh đi lên từ bao chi đều là những người viết giữa hai thế giới: thực và mơ, lý trí và cảm xúc, thông tin và ký ức.

Phóng sự – Giao lộ giữa thời sự và văn chương

Để kể về một trong những dạng thức tiêu biểu nhất cho sự dung hòa giữa báo chí và văn học trong lịch sử, thì ắt hẳn không thể bỏ qua dòng văn học phóng sự - thể loại nở rộ từ đầu thế kỷ XX với những cây bút như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Tam Lang (Tôi kéo xe), Nguyễn Huy Tưởng (Bốn năm sau), và sau này là các phóng sự chiến trường đầy ấn tượng của Nguyễn Tuân, Trần Đăng, Phùng Quán.

Những tác phẩm như Tôi kéo xe của Tam Lang hay Kỹ nghệ lấy Tây của Vũ Trọng Phụng không chỉ dừng lại ở việc thuật lại sự kiện, mà đã trở thành tấm gương phản chiếu xã hội, nơi người đọc vừa thấy thực tại, vừa cảm nhận được góc nhìn sắc sảo, nhân văn của người cầm bút. Phóng sự, nhờ vậy, không chỉ là một thể loại, mà còn là minh chứng sống động cho quyền lực của chữ nghĩa trong việc đối thoại với thời đại.

Phóng sự mang đậm hơi thở thời sự, tinh thần thời điểm, và sức mạnh phản ánh hiện thực - ba yếu tố cốt lõi làm nên giá trị sống còn của báo chí. Đây đều là những điều cốt tủy của nghề viết báo, và khi đi qua bàn tay nhà văn, nó được nâng lên thành nghệ thuật nhờ cách kể chuyện, xây dựng hình ảnh, sử dụng ngôn ngữ và biểu đạt cảm xúc. Những đoạn miêu tả ngắn, những câu kết hóm hỉnh mà giàu suy tư, hay những chi tiết bắt gặp giữa dòng đời, v.v. tất cả được nhà văn khéo léo đặt vào khung hình chữ, vừa chân thực, vừa rung động.

Có thể nói, văn học phóng sự chính là dạng thức rõ ràng nhất của sự giao thoa giữa hai thế giới: thực và mơ, lý trí và cảm xúc, thông tin và ký ức. Nó vừa yêu cầu tính chính xác, trách nhiệm xã hội của người làm báo, vừa đòi hỏi sự tinh tế, đồng cảm và chiều sâu tư tưởng của người nghệ sĩ ngôn từ.

Báo chí, ở một nghĩa nào đó, chính là chiếc neo giữ cho văn chương không bị trôi dạt khỏi một thực tại đầy biến động mà văn học hiện đại đôi khi e ngại đối diện. Và ngược lại, văn học cũng truyền cho báo chí một điều ngược lại: khả năng lay động cảm xúc, chiều sâu của cái nhìn và sức sống bền bỉ qua thời gian. Những phóng sự xuất sắc không chỉ khiến người đọc "biết", mà còn khiến họ "nghĩ" và "thấy" - bằng đôi mắt của trái tim.

Ngày nay, thể loại này vẫn tiếp tục được phát triển, với các cây bút như Trần Mai Hạnh (Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75), hay qua những ký sự dài kỳ mang tính văn học đăng trên các báo lớn như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, An Ninh Thế Giới. Chúng không chỉ ghi chép sự kiện mà còn truyền tải tinh thần thời đại bằng những câu chuyện đời thường lay động.

Từ sự thật đến hư cấu: Văn học thể nghiệm và ảnh hưởng của báo chí

Bên cạnh văn học phóng sự, một mạch ngầm khác đang trỗi dậy là văn học thể nghiệm, nơi các tác giả không ngại thử nghiệm các hình thức viết mới, trộn lẫn chất báo chí với tư duy tiểu thuyết, hồi ký, thậm chí là phi hư cấu sáng tạo (creative nonfiction). Đây là nơi mà sự thật không chỉ được ghi nhận, mà còn được tái tạo qua lăng kính cá nhân. Người viết không đứng ngoài quan sát, mà dấn thân vào câu chuyện. Họ không chỉ “thấy” mà còn “cảm” và “nghĩ”. Chính sự nhập vai ấy khiến văn học thể nghiệm ngày nay không còn là vùng đất của thuần hư cấu, mà là chỗ để đời sống lên tiếng, không qua trung gian.

Chúng ta có thể nhắc đến các tác giả như Đặng Hoàng Giang với Điểm đến của cuộc đời, hay Phan Việt với Xuyên Mỹ, nơi văn học được viết bằng giọng điệu của nhật ký, ký sự, đôi khi lồng ghép cả dữ liệu thực tế. Ở đó, ranh giới giữa nhà văn và nhà báo được làm mờ, và người viết trở thành một nhân chứng, một người kể chuyện mang tính cá nhân nhưng phản ánh vấn đề chung. 

Các tác phẩm như Chuyện của thiên tài của Nguyễn Thế Hoàng Linh, hay Những thiên đường mù của Dương Thu Hương - dù không trực tiếp là báo chí - vẫn cho thấy ảnh hưởng của lối viết sát thực, sắc lạnh, đậm tính “nhìn thấy rồi kể lại” mà nghề báo rèn giũa. Điều này tạo nên một dòng văn chương dung hợp giữa quan sát xã hội và đào sâu nội tâm, giữa lý trí tỉnh táo và cảm xúc mãnh liệt.

Sự dung hòa giữa cái thật và cái nghĩ, giữa báo chí và văn chương, đang mở ra một không gian viết mới, nơi người đọc không chỉ đọc để biết, mà đọc để thấm, để đối diện với chính mình trong hiện thực đang biến động.

“Văn chương dung hợp” hay sự “khai phá” cho văn học hiện đại

Trong những năm gần đây, sự chuyển mình của báo chí hiện đại - từ báo giấy sang báo mạng, từ đưa tin sang bình luận - đã đồng thời mở ra một không gian mới cho văn chương thể nghiệm. Nhiều nhà văn trẻ hiện nay không chỉ “làm văn học” theo nghĩa truyền thống, mà còn tận dụng các công cụ báo chí, điều tra, ghi chép thực tế, phỏng vấn nhân vật,... để dựng nên những cấu trúc tiểu thuyết “lai” điển hình giữa ký sự, tiểu luận và hư cấu.

Khi báo chí và văn chương hòa quyện, điều ta có được là một thứ văn học không chỉ để "thưởng thức" mà còn để "hiểu", không chỉ để "mơ mộng" mà còn để "thức tỉnh". Thế hệ những cây bút trẻ hiện nay như Nguyễn Ngọc Tư, Phan An, Đinh Hằng, Nguyễn Thiên Ngân cùng nhiều gương mặt khác đang cho thấy một hướng đi thú vị: họ không ngần ngại bắt đầu từ những chuyên trang báo chí, blog, mạng xã hội, nhưng lại làm nên những tác phẩm văn học độc đáo, cá nhân, và giàu chất sống.

Không khó để nhận ra những tác phẩm đương đại đang đi theo con đường dung hợp ấy. Đi như là ở lại của Lê Vũ Trường Giang mang dáng dấp của một hành trình ký sự nhưng lại thấm đẫm chiêm nghiệm nội tâm. Ngay cả những tập truyện ngắn như Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư cũng cho thấy khả năng nhìn đời sống từ một con mắt báo chí - sắc lạnh nhưng không đánh mất độ rung cảm.

Sự lai ghép không làm văn học mất đi bản sắc, mà ngược lại, mở ra những hình thức biểu đạt mới, nơi người viết không còn bó mình trong vai trò “người kể chuyện” mà còn trở thành “người đối thoại”: vừa là nhân chứng, vừa là kẻ kiến tạo thế giới. Trong dòng chảy ấy, “văn chương dung hợp” không chỉ là một khái niệm, mà là một câu trả lời nghệ thuật cho những khắc khoải hiện sinh, cho khát vọng ghi lại thế giới này bằng đôi mắt vừa tỉnh táo vừa dịu dàng.

Sự dung hợp này không đơn thuần là một trào lưu hình thức, mà là cách mà văn học hiện đại đang tìm đường để tái định nghĩa chính mình: không còn khép kín trong thế giới hư cấu, mà mở ra trước những chuyển động của đời sống và con người đương đại. Văn học, nhờ đó không chỉ tiếp tục vai trò phản ánh, mà còn trở thành một công cụ nhận thức - như một cuộc trò chuyện hai chiều giữa tác giả và độc giả, giữa thực tại và tưởng tượng. 

Ngày nay, sự phân ranh giữa nhà báo và nhà văn có thể mờ đi, nhưng điều quan trọng vẫn là: người cầm bút cần giữ cho mình sự trung thực, dũng cảm và thấu cảm, bất kể viết ở thể loại nào. Nhà báo giỏi cũng có thể trở thành nhà văn lớn, và nhà văn, nếu biết lắng nghe đời sống và giọng nói nhân dân, cũng là một nhà báo của tinh thần.

Trong thời đại mà thông tin tràn ngập và cái gọi là “thật” nhiều khi bị thao túng, thứ văn chương dung hợp giữa báo chí và nghệ thuật chính là ngọn lửa giữ cho chữ nghĩa không hóa rỗng. Và hành trình “từ viết báo đến viết sách” sẽ còn tiếp tục như một dòng chảy, nơi con chữ được gọt giũa bởi cả sự thật và cái đẹp.

Hải Đăng

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Khám phá hồn cốt Sài Gòn qua từng trang viết của Phạm Công Luận

Tháng Tư về, Sài Gòn không chỉ rực rỡ pháo hoa, náo nhiệt diễu binh mà còn lung linh với trình diễn drone, 3D mapping hiện đại. Giữa không khí lễ hội tưng bừng, sách Phạm Công Luận lại mở ra một Sài Gòn trầm mặc, nơi hồn phố lắng đọng sau lớp áo hào quang.

Published

on

Hòa mình vào không khí tưng bừng với những màn trình diễn drone ngoạn mục vẽ lên bầu trời đêm, những hình ảnh 3D mapping ấn tượng phủ lên các công trình biểu tượng, hay tiếng reo hò theo các đoàn diễu hành được ví von như “concert quốc gia”..., lòng người không khỏi trào dâng niềm tự hào, phấn khích trước sức sống và sự phát triển của thành phố. Nhưng bên cạnh sự náo nhiệt của những hoạt động kỷ niệm quy mô ấy, Sài Gòn còn có một chiều sâu khác, một lớp trầm tích ký ức mà đôi khi cần những khoảng lặng để cảm nhận.

Giữa vô vàn ấn phẩm viết về Sài Gòn, tác phẩm của nhà báo Phạm Công Luận chiếm một vị trí đặc biệt, như một cánh cửa dẫn lối về những khoảng lặng đó. Sách của Phạm Công Luận là sự kết hợp nhuần nhị giữa tư liệu quý giá, hình ảnh sống động và những câu chuyện kể thấm đẫm tình người. Nhân dịp đại lễ 30/4, thời điểm không chỉ để hướng đến tương lai mà còn để suy tư về quá khứ, việc tìm đọc lại những cuốn sách như Sài Gòn – Chuyện đời của phố (5 tập), Hồn đô thị, Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, Những bức tranh phù thế, Made in Sài Gòn, hay Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn: Ký ức rực rỡ… chính là cách để ta kết nối hiện tại sống động với những giá trị tinh thần lắng đọng, thấu hiểu sâu sắc hơn hồn cốt đã làm nên bản sắc riêng của mảnh đất này.

Góc nhìn của người kể chuyện thầm lặng

Phạm Công Luận luôn tiếp cận Sài Gòn bằng đôi mắt và sự say mê tìm tòi của một nhà báo với hơn 30 năm kinh nghiệm. Điều này thể hiện rõ trong cách tác giả thu thập tư liệu và kể chuyện. Phạm Công Luận thường lần theo dấu vết của những câu chuyện đời thường, những phận người tưởng chừng đã bị lãng quên, những chi tiết nhỏ bé nhưng lại hàm chứa cả một giai đoạn quá khứ. Bộ sách Sài Gòn – Chuyện đời của phố là minh chứng tiêu biểu cho phương pháp này. Tác giả không ngần ngại tìm đến những nhân chứng sống, lắng nghe họ kể, đối chiếu thông tin, để rồi tái hiện lại lịch sử một con hẻm, chân dung một họa sĩ vẽ bìa nhạc xưa, hay nguồn gốc tên gọi một địa danh quen thuộc như Ngã ba Ông Tạ.

Chính sự kiên nhẫn và tỉ mỉ trong việc nhặt nhạnh ký ức từ những nhân chứng, kết hợp với việc sưu tầm công phu hình ảnh, hiện vật cũ đã tạo nên giá trị tư liệu độc đáo cho các tác phẩm của ông. Đọc sách của Phạm Công Luận, ta như đang ngồi trong một quán cà phê cóc đầu hẻm, nghe người Sài Gòn kể chuyện xưa, chuyện nay, chuyện người lạ, chuyện người quen, chuyện vui, chuyện buồn… Giọng văn điềm đạm, mang nhiều hơi thở của cuộc sống đời thường nhưng chính sự chân thật, không tô vẽ ấy lại cuốn hút lạ kỳ. Tác giả ý thức được sự mênh mông của đề tài và sự hữu hạn của bản thân nên từng chia sẻ với Bookish khi nói về quá trình thực hiện cuốn sách Có một thời ở Chợ Lớn rằng: “Tuy ra được cuốn này, nhưng tôi thấy mình chỉ mới phản ánh được phần rất nhỏ về cuộc sống phong phú trong khu Chợ Lớn mà thôi.” Sự khiêm tốn này càng làm tăng thêm độ tin cậy và sức hấp dẫn cho những đề tài mà Phạm Công Luận theo đuổi.

Trong bài phỏng vấn trên báo Tuổi Trẻ khi Sài Gòn – Chuyện đời của phố 2 được ra mắt, Phạm Công Luận có trích dẫn câu nói của Will & Ariel Durant về việc sử gia thường chỉ chép về “máu và xác” trên dòng sông lịch sử, mà bỏ quên những người “trên bờ” đang “cất nhà, làm vườn, nuôi con, làm thơ”. Phạm Công Luận tự nhận mình muốn góp sức viết về những câu chuyện “trên bờ” ấy. Đó là những mảnh ghép đời thường, những sinh hoạt văn hóa, những nếp nhà, những tâm tình… tưởng chừng riêng tư nhưng lại góp phần định hình nên tâm hồn, cốt cách của cả một thành phố. Cuốn Hồn đô thị, tuyển tập những bài tùy bút đặc sắc từ bộ sách Chuyện đời của phố, chính là nơi hội tụ của những câu chuyện “trên bờ” đó, giúp người đọc cảm nhận sâu sắc hơn cái “chất Sài Gòn” thấm đẫm trong từng nếp sống, từng con người. Hay như Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, dù mang tên gọi gợi về quá khứ xa xôi, vẫn giữ mạch kể chuyện gần gũi, soi chiếu lịch sử qua những lát cắt dung dị của đời sống.

Sài Gòn đa diện qua từng trang sách

Thế giới Sài Gòn trong sách Phạm Công Luận vô cùng phong phú và đa dạng, vượt xa những hình ảnh hào nhoáng thường thấy. Đó không chỉ là Sài Gòn của những con đường trung tâm quận Nhứt với giới thượng lưu thanh lịch, mà còn là Sài Gòn của những con hẻm nhỏ ở Đa Kao, Thị Nghè, Phú Nhuận, Chợ Lớn… nơi phần đông người bình dân sinh sống, làm ăn và giữ gìn bản sắc riêng. Người Sài Gòn trong trang viết của Phạm Công Luận cũng vậy, không chỉ có những nghệ sĩ nổi danh, những giai nhân một thuở, mà còn là những người lao động thầm lặng, những gia tộc nhiều đời gắn bó với mảnh đất này, những người nhập cư mang theo vốn văn hóa độc đáo góp phần làm nên sự đa dạng của thành phố. Tác giả kể về họ một cách trân trọng, không phán xét, để độc giả tự cảm nhận về nghĩa khí, sự hào sảng, phóng khoáng nhưng cũng rất mực đời thường của con người nơi đây.

Mỗi cuốn sách lại mở ra một cánh cửa riêng để khám phá những khía cạnh khác nhau của Sài Gòn. Nếu Sài Gòn – Chuyện đời của phố là một bức tranh toàn cảnh với nhiều mảng màu, thì Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn: Ký ức rực rỡ lại như một thước phim quay chậm, đầy chất thơ, tập trung vào những khoảnh khắc, những không gian và những hoài niệm đẹp đẽ về một thời đã xa. Cuốn sách này gợi lại hình ảnh những chiều Chủ nhật nhàn du, những quán xá vỉa hè, những góc phố bán sách xôn xao, những tà áo dài tung bay trong gió sông… khiến những ai từng gắn bó với Sài Gòn không khỏi bồi hồi. Đọc sách, ta thấy được tâm huyết của tác giả trong việc không ngừng khám phá những mảnh ghép đa dạng của thành phố, và chính tác giả cũng từng hé lộ về dự định viết thêm về các khu đô thị khác sau Hồi ức Phú Nhuận và Có một thời ở Chợ Lớn: “Tôi có dự định viết về hai khu đô thị khác như kế hoạch từ đầu là viết về bốn khu đô thị ở thành phố này.”

Bên cạnh những câu chuyện về cộng đồng, về không gian đô thị, Phạm Công Luận còn dành một phần không nhỏ trong tác phẩm của mình để soi chiếu vào chính ký ức cá nhân, đặc biệt là những kỷ niệm tuổi thơ. Cuốn Những bức tranh phù thế là một tập hợp những hồi ức như vậy. Tác giả viết về tuổi thơ không phải để trốn chạy thực tại, mà là để “nhận ra mình là ai”, để hiểu vì sao mình yêu tha thiết thành phố này đến vậy, ngay cả khi nó đã đổi thay. Như chính tác giả bộc bạch: “Khi viết về quá khứ, tôi nhận ra mình là ai, những gì đã tác động đến mình để trở thành một con người đủ cả những điều hay và dở… Tôi hiểu rõ hơn vì sao mình yêu tha thiết một thành phố dù nó dần dần không còn giống nơi chốn mình yêu thương…” Những trang viết này không chỉ là câu chuyện của riêng ông, mà còn chạm đến ký ức chung của nhiều thế hệ người Sài Gòn, về những trò chơi thơ bé, những món quà vặt hè phố, những hương vị, âm thanh đã gắn liền với một thời hoa mộng.

Lưu giữ di sản vật chất và tinh thần

Một đóng góp quan trọng khác của Phạm Công Luận là nỗ lực sưu tầm và giới thiệu những di sản mang tính vật chất, những chứng nhân của một thời kỳ sản xuất, kinh doanh sôi động tại Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn. Cuốn sách Made in Sài Gòn là một ví dụ điển hình. Với tập hợp hàng trăm hình ảnh về nhãn hiệu, bao bì sản phẩm, quảng cáo trên báo chí xưa… cuốn sách không chỉ là một bộ sưu tập độc đáo về thiết kế đồ họa một thời, mà còn phần nào phác họa lại bức tranh kinh tế, xã hội và đời sống tiêu dùng của người Sài Gòn trong khoảng nửa thế kỷ. Tác giả chia sẻ, động lực thực hiện cuốn sách này là vì “mong muốn qua cuốn sách, người đọc biết thêm về nền sản xuất và dịch vụ của Sài Gòn xưa, nơi không chỉ là thành phố tiêu thụ mà làm ra được nhiều sản phẩm phục vụ cuộc sống. Và để cho những ai từng sống ở đây trong nửa thế kỷ trở về trước ôn lại kỷ niệm thời ấu thơ của họ với những gì họ từng dùng.”

Quá trình thực hiện Made in Sài Gòn cũng cho thấy sự kỳ công và nghiêm túc của Phạm Công Luận. Tác giả không chỉ sưu tầm hình ảnh mà còn cố gắng xác minh nguồn gốc, thông tin về từng sản phẩm, từng thương hiệu. Việc này không hề dễ dàng, bởi thời gian đã làm thất lạc nhiều tư liệu, và không phải thương hiệu nào cũng còn dấu vết rõ ràng. Phạm Công Luận thẳng thắn thừa nhận những khó khăn gặp phải: “Có những thương hiệu rất nổi tiếng, thí dụ như bột Bích Chi, dầu khuynh diệp bác sĩ Tín và nhiều nhiều nữa lại không có hình ảnh nên không thể giới thiệu. Có một số sản phẩm rất quen thuộc, có hình ảnh quảng cáo nhưng không rõ gốc gác (sản xuất trong nước hay nhập ngoại) nên không đưa vô.” Chính sự cẩn trọng và minh bạch này càng làm tăng giá trị tham khảo cho cuốn sách Made in Sài Gòn.

Nhìn chung, toàn bộ các tác phẩm viết về Sài Gòn của Phạm Công Luận, từ Chuyện đời của phố đến Made in Sài Gòn, từ Hồn đô thị đến Ký ức rực rỡ, đều xuyên suốt một tinh thần: trân trọng và nỗ lực lưu giữ ký ức đô thị, cả về vật chất lẫn tinh thần, trước sự bào mòn của thời gian và những biến đổi không ngừng của xã hội. Phạm Công Luận làm việc đó một cách thầm lặng, bền bỉ, giống như cách tác giả mô tả về công việc viết lách của mình là “viết sách theo kiểu ‘dàn hàng ngang’, bản thảo nào xong trước mới đưa cho nhà xuất bản xem xét”.

Trong không khí của những ngày tháng Tư lịch sử, đọc sách Phạm Công Luận không chỉ là tìm về hoài niệm, mà còn là một cách để hiểu thêm về sức sống mãnh liệt, khả năng tự phục hồi và thích ứng của Sài Gòn, một thành phố luôn rộng mở, luôn chuyển mình nhưng vẫn giữ được những nét hồn cốt riêng biệt, đáng quý. Đó là những di sản vô giá mà thế hệ hôm nay cần biết, cần trân trọng và tiếp nối.

Kodaki

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Kazuo Ishiguro: “Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại”

Nhân kỉ niệm 20 năm ra mắt tiểu thuyết Mãi đừng xa tôi, tác giả đoạt giải Nobel Văn chương người Anh gốc Nhật Kazuo Ishiguro đã nói về vai trò của nhà văn trong thế giới hậu sự thật, và lý do tại sao ông “không phải là một nhà viết văn xuôi vĩ đại”.

Published

on

Bán chạy vì giống tiểu thuyết Young Adult

40 năm qua, Ishiguro là một trong những cây viết được đánh giá cao qua hàng chục tiểu thuyết, nhưng có lẽ không cuốn sách nào được yêu thích và nổi tiếng hơn cuốn sách thứ 6 Mãi đừng xa tôi. Nó bán chạy hơn bất kì tác phẩm nào khác trong văn nghiệp ông, đồng thời cũng được chuyển thể thành phim điện ảnh lẫn kịch sân khấu.  

Vẫn tìm được độc giả mới sau 20 năm xuất bản, cuốn tiểu thuyết này được Ishiguro ghi nhận là đã khởi đầu cho một chuỗi ngẫm nghĩ và định hình nên những tác phẩm tiếp theo như Người khổng lồ ngủ quên hay Klara và mặt trời sau này. Ông cho biết bộ 3 tác phẩm đều xoay quanh một sự thật cơ bản và không thể tránh khỏi là tất cả chúng ta đều sẽ chết, nhưng ta hiện sống như thể không bao giờ chết.

Xuất phát từ góc nhìn này, Mãi đừng xa tôi lấy bối cảnh một xã hội giả tưởng nơi trẻ em được nhân bản vô tính để cung cấp các cơ quan khỏe mạnh nhằm kéo dài cuộc sống cho người khác. Sau 2 hay 3 lần hiến không tự nguyện, những đứa trẻ sẽ hoàn thanh xong sứ mệnh và chết đi. Nhưng cũng có tin đồn rằng trong một số trường hợp nếu chứng minh được bản thân đang yêu, thì chúng sẽ được phép sống.

Chính niềm tin vô căn cứ này rằng đã tạo nên mạch vận động chính cho cuốn tiểu thuyết. Ishiguro giải thích: “Chúng ta dường như không bao giờ chấp nhận số phận và luôn khao khát tìm ra lối thoát đặc biệt. Tôi nghĩ điều đó không phải vì ta cứ muốn sống mãi, mà bởi chúng ta không muốn đối mặt với nỗi đau, nỗi buồn và sự cô đơn đi kèm cái chết. Chúng ta sợ mất đi những người thân yêu. Chúng ta sợ sự chia ly.”

Tựa đề cuốn tiểu thuyết là một bài hát mà người kể chuyện, Kathy H, phát đi phát lại trong thời gian cô ở trường nội trú Hailsham của những người nhân bản. Nó vừa là một hiện hữu vật lí dưới dạng cuộn băng cassette bị mất, vừa là lá bùa hộ mệnh - một biểu tượng của thời điểm trước khi cô biết cuộc sống của mình và của những người bạn như Tommy và Ruth sẽ phát triển như thế nào. Ishiguro đã sáng tác ra bài hát, sau đó được người bạn và cộng sự của ông - ca nhạc sĩ dòng jazz Stacey Kent thu âm. 

Mãi đừng xa tôi đã trải qua một thời kỳ thai nghén dài và chỉ tồn tại như những suy nghĩ và ghi chép về một nhóm sinh viên có tuổi thọ khác biệt rõ rệt so với những người cùng trang lứa – có lẽ cũng tương tự như tác hại của một thảm họa hạt nhân gây ra. Bước đột phá đến thông qua sự kết hợp của các yếu tố bên ngoài và thời điểm: sự quan tâm của xã hội đối với những lợi ích và nguy cơ tiềm ẩn của nhân bản trong giai đoạn mà hình ảnh chú cừu Dolly liên tục xuất hiện. 

Nói về điều này, Ishiguro cho biết: “Tôi cho phép bản thân sử dụng những gì mà theo truyền thống có thể được coi là phép ẩn dụ. Đó không phải vì tôi quá dũng cảm để tạo ra lối đi mới hay gì cả. Tôi nghĩ bầu không khí xung quanh thay đổi là nguyên nhân chính cho điều này, bởi thế hệ nhà văn tiếp sau - những người trẻ hơn tôi khoảng 15 tuổi như David Mitchell hoặc Alex Garland chẳng hạn – lại thấy nó không có gì kì lạ. Họ lấy cảm hứng từ đủ mọi nơi và tôi thực sự thích tác phẩm của họ.”

Thế hệ đề cao sáng tạo

Bên cạnh sự đột phá về thể loại là tiểu thuyết khoa học viễn tưởng phản địa đàng, Ishiguro từ đó cũng phát hiện ra một thể loại mới. Theo đó, lượng độc giả của Mãi đừng xa tôi đã vượt xa các tiểu thuyết khác của ông, bao gồm cả Tàn ngày để lại, và từ đó thu hút nhiều độc giả hơn đến các buổi đọc sách. Ông cho biết: "Tôi nghĩ một trong những lý do khiến tác phẩm này nổi bật vì nó giống như một cuốn sách YA trước khi thể loại này trở thành loại sách rất được yêu thích. Nó không nhất thiết dành cho những người trẻ tuổi, nhưng nó có rất nhiều thứ mà bây giờ đã trở thành đặc trưng của dòng chảy này: những đứa trẻ ở trường, các cảm xúc phức tạp, sự đố kỵ, tranh giành, nông nổi... Tôi nghĩ đó là một phần lý do khiến Mãi đừng xa tôi tiếp tục tìm được lượng độc giả mới."

Ông nói điều này khiến cho bản thân cảm thấy thú vị, khi nó dường như tách khỏi dòng chung là các tiểu thuyết văn chương xuất hiện trước những năm 1990 để thuộc về thế hệ mới là những tên tuổi ông được đặt cùng trong danh sách Granta's Best of Young British Novelists năm 1983, gồm Martin Amis, Salman Rushdie, Julian Barnes và Pat Barker. Ở giai đoạn đó, ông chia sẻ, “Chúng tôi tuy lạ lẫm với giới xuất bản khi đó nhưng khá tự hào vì mình là những người sáng tác văn chương thực thụ và hiểu giá trị của văn chương”. Khi được hỏi vì sao Doris Lessing cũng viết một cách linh hoạt rất nhiều thể loại nhưng không bị coi nhẹ, Ishirguro nói: “Chà, tôi cho rằng bà ấy chẳng quan tâm cải tiến, đổi mới gì đâu! Bà ấy chỉ đuổi theo trí tưởng tượng của mình mà thôi. Margaret Atwood cũng vậy nhưng thuộc thời này. Ý tôi là, những người này, họ không quan tâm đến kiểu sứ mệnh xây dựng một trào lưu mới”.

Nhưng khi bối cảnh văn học bắt đầu thay đổi, Ishiguro đã ở vị trí thuận lợi, xét về mặt ảnh hưởng và tính khí, để tận dụng lợi thế từ sự “nới lỏng của các dây buộc”. Ông đã đọc và sáng tác truyện tranh dẫu trước đó còn tương đối mơ hồ về thuật ngữ "tiểu thuyết đồ họa", nhưng niềm đam mê âm nhạc và phim ảnh suốt đời đã mang đến cho ông một góc nhìn khác về ý tưởng kết hợp các phong cách viết và thể loại. Người ông hâm mộ gồm Bob Dylan, Miles Davis, Picasso cũng như Stanley Kubrick trong điện ảnh.

"Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại"

Mặc dù nhiệt tình đón nhận dòng chảy của các thể loại và phong cách mới, nhưng Ishiguro vẫn kiên quyết một cách đáng kinh ngạc về những hạn chế của mình. Khi nói về sở thích của ông đối với câu chuyện kể ngôi thứ nhất và cam kết tạo ra những giọng nói đặc biệt sẽ thiết lập nên tông điệu và nội dung cho các tiểu thuyết của mình, ông đã đưa ra một tuyên bố thẳng thừng: "Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại cả". Ông giải thích thêm “Đôi khi tôi đọc nhiều cuốn sách mà bản thân thấy kinh ngạc trước vẻ đẹp của thứ văn xuôi được in ở đó. Tôi chẳng thể nào viết ra được chúng”.

Nói về trách nhiệm của mình với tư cách một nhà văn, Ishiguro cho biết: “Tôi khá hoài nghi sức mạnh khơi gợi cảm xúc ở người đọc mà người ta hay ngợi ca tôi, hay Uỷ ban Nobel đã từng trích dẫn khi gọi tên tôi. Sách của tôi không cho độc giả biết thêm điều gì. Nếu họ muốn biết về các sự kiện, thì chẳng phải đã có các sử gia ở đó rồi sao?” Nhưng trong vài năm trở lại đây, ông ngày càng lo ngại rằng việc khơi dậy những phản ứng cảm xúc mạnh mẽ có một chiều hướng đen tối hơn nhiều, khi chúng bị lợi dụng cho những múc đích khác nhau.

Ông nói thêm: “AI sẽ trở nên rất giỏi trong việc điều khiển cảm xúc. Tôi nghĩ chúng ta đang ở bờ vực của điều đó. Hiện tại, chúng ta chỉ nghĩ đến việc AI xử lý dữ liệu hoặc làm gì đó khô khan. Nhưng rất sớm thôi, AI sẽ có thể tìm ra cách tạo ra một số loại cảm xúc nhất định ở con người - tức giận, buồn bã, cười đùa.” Cũng vì AI có khả năng cũng sẽ có tác động đáng kể đến nghệ thuật sáng tạo nên Ishiguro gần đây đã kêu gọi chính phủ Anh bảo vệ tác phẩm của các nhà văn và nghệ sĩ khỏi sự săn mồi của các tập đoàn công nghệ, mô tả kỷ nguyên hiện tại là “khoảnh khắc ngã ba đường”.

Đối mặt với câu hỏi rằng trong một xã hội hậu sự thật được hỗ trợ bởi AI và thuật toán, liệu tiểu thuyết có đủ sức gây ấn tượng về mặt cảm xúc không? Ông trả lời: “Nếu tôi triển khai công nghệ đó để phục vụ một chính trị gia hoặc một tập đoàn lớn muốn bán dược phẩm, bạn sẽ không nghĩ đó là điều gì đáng chú ý cả. Nhưng nếu dùng nó để mà kể chuyện, thì nó sẽ được đánh giá rất cao. Chính nó khiến tôi ngày càng cảm thấy không thoải mái, bởi tôi chưa được khen ngợi về phong cách đáng kinh ngạc hoặc vì tiểu thuyết của mình giúp vạch trần những bất công lớn trên thế giới. Thay vào đó tôi được khen ngợi vì làm cho mọi người khóc”. Ông cười lớn và sau đó nói: “Họ đã trao cho tôi Nobel Văn chương chỉ vì điều đó”.

Ngô Minh dịch từ The Guardian

Đọc bài viết

Cafe sáng