Chuyện người cầm bút

Linda Lê – Khi nỗi buồn lấp lánh như những hạt ngọc nơi khóe mắt

Linda Lê là một tác giả cần phải đọc với những ai luôn băn khoăn, trăn trở về nghề viết

Published

on

Tuần trước, khi đọc những dòng tin ngắn gọn thông báo về sự ra đi của Linda Lê, trong lòng tôi bồi hồi nhớ đến nhiều câu chuyện cũ. Buổi tối hôm đó, tôi đã đọc lại Vượt sóng – một tác phẩm bày tỏ nhiều băn khoăn, trăn trở về nghề viết rất hay của bà. Tôi nhận ra nhiều điều bà viết vẫn rất đúng và chưa bao giờ cũ. Đó không chỉ là câu chuyện của riêng nhân vật Antoine Sorel, hay của bà, đó có lẽ còn là câu chuyện chung của những người cầm bút.

Tôi biết đến Linda Lê lần đầu tiên vào năm 2011 do một bạn văn giới thiệu. Khi ấy, tôi còn loay hoay trong việc định hình văn phong, chưa đủ tự tin để đánh giá những gì mình viết liệu có ổn không, cần phải sửa chữa những gì cho lần tới, làm sao để tạo dựng phép tu từ độc đáo hơn. Thế là, bạn giới thiệu cho tôi cuốn Vu khống của Linda Lê và hết lời ca ngợi bà. Thời điểm đó, Việt Nam chỉ mới có hai tác phẩm của bà được dịch và xuất bản là Vu khống Lại chơi với lửa. Bạn nói cả hai cuốn đều hay nhưng tôi nên bắt đầu đọc Vu khống trước, rằng việc đọc văn của bà sẽ giúp tôi ngộ ra rất nhiều điều về văn chương có ích cho cách hành văn của tôi. Nhưng ở thời điểm ấy, khi tôi tìm thì cả hai quyển này cũng đều đã khan hiếm trên thị trường, hầu như không còn bất kì bản in nào nữa. Bạn đã cho tôi mượn hai quyển này với lời dặn dò tôi sớm đọc để trả lại bạn vì tuy bạn luôn sẵn sàng cho mọi người mượn sách (thậm chí là tặng) nhưng với hai quyển này thì bạn đặc biệt muốn giữ lại chỉ đơn giản vì trong đó có nhiều ghi chú riêng tư bên lề trang sách mà bạn không muốn bất kì ai đọc được. Tôi biết hai cuốn sách đó rất quí giá với bạn. Tôi nhớ rằng mình đã cố tình đặt cả hai quyển ở vị trí luôn lọt vào tầm mắt mỗi lần nhìn tủ sách để sớm đọc và trả lại bạn. Nhưng tôi không nhớ rõ vì sao mình đã không đọc vào thời điểm ấy – ngay khi bạn vừa mới cho mượn. Tôi cứ đọc những quyển sách khác rồi quên bẵng đi sự tồn tại của chúng trên kệ sách từ lúc nào không hay. Cho đến lúc không còn giữ được liên lạc với bạn, tôi vẫn chưa kịp đọc để trả lại bạn như lời đã hứa. Và tận bây giờ, sau mười một năm, cả hai quyển này vẫn ở trên kệ sách của tôi, tôi vẫn chưa đọc – nhưng nó ở đó giống như một lời nhắc nhở rằng Linda Lê là một trong những tác giả bạn tôi vô cùng yêu mến.

Có tồn tại khái niệm gọi là “diễn viên của một bộ phim”, “nghệ sĩ của một tác phẩm”, tức là người diễn viên sau khi đóng xong một vai diễn trong một bộ phim thì không thoát vai được, không thể tiếp tục diễn một vai khác trong một phim khác – hoặc nếu có diễn thì vẫn không để lại ấn tượng; “nghệ sĩ của một tác phẩm” cũng tương tự như thế. Nếu hiểu như thế thì đối với Linda Lê, trong vai trò là người đọc, tôi đang tạm giữ chức danh gọi là “độc giả của một tác phẩm”. Khi nghĩ đến danh xưng này, tôi cảm thấy hơi buồn cười một chút vì từ đó đến nay, tôi chưa nghe bất kì ai gọi như thế, có lẽ đơn thuần vì thông thường người ta sẽ không biến việc này thành một danh từ mà chỉ đơn giản giữ nó ở mức là một động từ, cách nói này sẽ phổ biến hơn: “Tôi chỉ mới đọc một tác phẩm của tác giả A,” đại loại như thế. Khi giữ mọi thứ ở mức động từ tức là các hành động ấy còn trong trạng thái tiếp diễn, có thể thay đổi, nó không cứng nhắc và gò vào một cái khung như khi đã được định danh. Thực tế ấy cũng phản ánh nguyên nhân vì sao người ta không có nhu cầu lập danh từ cho hành động này: đơn giản vì ở vị thế của một người đọc, việc phá vỡ định danh “độc giả của một tác phẩm” là điều rất dễ dàng, đọc là một hành động dễ dàng, dễ hơn viết hay bất kì hoạt động nghệ thuật nào khác rất nhiều – bạn chỉ cần đọc thêm một tác phẩm nữa của người đó thôi thì cái danh xưng “độc giả của một tác phẩm” sẽ không còn đúng nữa. Ấy vậy mà từ lúc đọc Vượt sóng vào đầu năm 2018 đến nay đã bốn năm, tôi vẫn chưa tìm được cách để thay đổi điều đó dù rằng trong tay có sẵn phương tiện là hai quyển sách bạn cho mượn. Điều này khiến tôi cảm thấy mình không có đủ tư cách để viết cảm nhận về bà – cho dù chỉ là dưới góc nhìn cá nhân – bởi lẽ sách bà đã viết so với số lượng một cuốn tôi đọc được thì khoảng cách quá lớn. Tuy nhiên, ở thời điểm này tôi lại cảm thấy thôi thúc muốn viết về bà, viết cho bà. Tôi nghĩ có lẽ bà cũng có thể thông cảm mà bỏ qua cho người “độc giả của một tác phẩm” như tôi.

2018 là một năm tôi đang ở điểm trũng của cuộc đời và việc đọc Vượt sóng ở thời điểm đó đã mang lại cho tôi sự khích lệ đáng kể. Ngay từ những trang đầu của quyển sách, ta biết được nhà văn tài năng Antoine Sorel – nhân vật trung tâm của câu chuyện đã tự sát bằng cách nhảy lầu. Một phóng viên trẻ mến mộ tác phẩm của Sorel đã hết sức bàng hoàng, anh quyết định tìm hiểu toàn bộ cuộc đời Sorel trước đó để biết được nguyên nhân vì sao câu chuyện đau lòng này lại diễn ra. Giống như tác phẩm Nhật kí chim én của Amélie Nothomb, câu chuyện khởi sự bằng một cái chết, bằng sự tiếc nuối khôn nguôi của người ở lại – đặc biệt khi người đó chỉ vừa mới biết và mến mộ người quá cố – nhưng có lẽ cuộc sống phần nào cũng tương tự như thế. Thông qua cuộc gặp gỡ giữa người phóng viên và những thân nhân của Sorel, bức tranh về cuộc đời nhà văn bất hạnh này dần sáng tỏ. Có thể thấy Linda Lê gửi gắm rất nhiều tâm tư về văn chương, về việc viết, việc đọc thông qua cuộc đời của Sorel.

Sorel rất nghèo khó, anh phải làm nhiều công việc cực khổ kiếm sống để đổi lại vài giờ ngắn ngủi được đọc sách. Dù vậy, chỉ cần có khoảng thời gian ít ỏi đắm mình vào văn chương với anh đã là hạnh phúc.

“Anh bắt đầu công việc lúc bình minh và chỉ lên giường vào một giờ sáng, mệt lả đến mức anh ngủ thiếp đi sau khi chỉ đọc được hai trang sách. Dù cực khổ anh vẫn hạnh phúc vì đã trốn xa bố anh.

Mỗi khi anh lãnh lương, anh mua gom những cuốn tiểu luận nói về những chủ đề khác nhau ở các cửa hiệu sách cũ. Vào mỗi Chủ nhật, ngày nghỉ duy nhất của anh, anh ngồi dính vào chiếc ghế cứng mà Malek cho anh mượn và đắm chìm vào những trang sách ấy, chúng làm anh quên mọi thứ. Anh không còn là đứa con trai của Martin. Anh không còn là tên túng thiếu không có lấy một đồng để mua sách nếu Malek không cho anh ăn miễn phí. Anh không phải bị rét cóng trong căn phòng băng giá của anh vào mùa đông đến mức anh phải ủ người trong chiếc áo khoác anorac, mang những đôi găng tay hở ngón và thòng vào chân nhiều đôi vớ. Anh không còn là gã bồi bàn quán cà phê chạy lăng xăng để thỏa mãn khách, chạy từ bếp ra sảnh nhiều đến nỗi chân của anh rộp những bọng nước. Anh không còn là người thanh niên bị buộc phải làm việc trong khi đó anh ước ao trở thành sinh viên văn khoa, chỉ quan tâm đến việc ghi chú các trang sách, biết rõ tiểu sử của các nhà tri thức bách khoa, dịch các truyện thơ tiếu lâm cổ trung đại sang ngôn ngữ hiện đại và tìm hiểu các nhà hình thức chủ nghĩa Nga.”

Tuy vậy, Sorel lại không tự tin vào tài năng văn chương của mình và gần như xa rời mọi cuộc giao lưu với giới văn sĩ Pháp.

“Thậm chí sau khi xuất bản vài cuốn sách, anh vẫn không có được niềm tin vào tài năng viết văn sẽ được giới văn học công nhận, nhất là anh không bao giờ đặt chân lên Paris mỗi tuần và không tới lui những quán cà phê nơi tụ tập của các nhà văn. Anh không rời Le Havre – ở tỉnh vẫn dễ dàng xoay xở hơn khi không giàu có. Anh luôn kiếm được vài ba đồng đây đó, anh xoay xở với những gì anh có, buổi trưa anh ăn bánh mì thịt nguội trét bơ hay dùng những miếng rau củ chiên, và tối anh ăn mì ăn liền. Món sang của anh đó là thuốc lá và rượu. Vào những lúc anh xuống tinh thần, anh đi ngắm sóng vỗ vào đê biển.”

“Antoine chỉ đến những bữa tiệc cocktail vì có rượu ngon để uống. Anh không bắt chuyện làm quen với một ai. Khi ai hỏi anh về công việc, anh thậm chí không trả lời anh viết sách. Isabelle kể lại cho Jean những chuyện đó và cho rằng anh không phải là một người biết hòa đồng.”

Giống như phần lớn mọi nhà văn, anh không có được sự ủng hộ từ bậc song thân.

Với người cha thì:

“Hẳn ông dám đánh cược năm ăn một rằng con trai ông sẽ thất bại, nó sẽ chết trẻ, và chẳng làm được gì khác ngoài việc làm thất vọng những độc giả của mình qua việc chỉ ra hai thực tế: họ chỉ là trò bịp, họ cố thổi phồng nhân sinh quan của cá nhân, nhưng họ chỉ đẻ ra những thứ tiểu tiết.”

Với người mẹ thì:

“Bà cảm thấy tiếc cho trí thông minh của anh, anh đã không trèo lên địa vị cao trong xã hội, anh lại chọn cuộc sống mộng mơ trong túng quẫn. Những cuốn sách không mang lại may mắn, bà nói thế. Càng đọc, anh càng trở nên gần như điên loạn. Giá như anh tự bằng lòng với việc đọc thôi, đằng nay anh lại đi vào con đường viết sách. Bà không đọc báo, bà không thể hình dung người ta có thể sống bằng văn chương. Tại sao Antoine không có một nghề nghiệp nào như bao người quen khác? Bà ấy đỏ mặt tía tai khi người ta hỏi về anh. Và khi những cuốn tiểu thuyết đầu tay của anh ra đời, một vài người nói với bà rằng thằng Antoine “của bà” muốn làm “như Parisian” nhưng đâu dễ. Bà còn không được tặng sách, dù gì bà cũng chẳng đọc, vì bà không tán thành chuyện Antoine chọn con đường sự nghiệp nhiều rủi ro như vậy, theo bà đa số các nhà văn chỉ là những người làm công bấp bênh. Anh đã có thể gửi sách đến cho bà, xem như để cho bà biết tin tức, vì anh đã bỏ đi sống ở đâu bà cũng không biết.”

Tuy nhiên, Sorel cũng có một quãng thời gian hạnh phúc, đáng nhớ với vợ. Linda Lê đã khắc họa mối tình này rất kĩ lưỡng, có thể thấy ở đây là một khuôn mẫu điển hình của tình yêu giữa nhà văn và độc giả. Thông qua hình ảnh của Isabelle – vợ của Sorel, Linda Lê cũng cho thấy kiểu độc giả lí tưởng của một nhà văn sẽ là người như thế nào. Gia đình của Isabelle không có đam mê văn chương như cô, thói quen đọc của họ khác hẳn cô.

“Cô tự nhủ có lẽ cô không có cùng gen với bố. Cô đam mê nghệ thuật và văn chương, nhưng những nhà thơ cô ngưỡng mộ là những “tên xấu xa” dưới con mắt bố cô, họ tự cho mình quyền được nhàn rỗi và vô trách nhiệm, sống bám xã hội. Dĩ nhiên ông không đọc những tác phẩm của họ, ông chỉ đọc những tạp chí về trang trí nội thất, để bắt kịp các xu hướng mới, ông cũng đọc các báo về kinh tế để biết nên đầu tư vào nơi nào. Kiểu nói văn vẻ về tình yêu, theo như ông ấy nói, là thứ keo dán, ngay ông có lẽ cũng rất tiết kiệm những lời nói yêu đương. Mẹ của cô đặt mua một nguyệt san về chiêm tinh học, để bà có thể trao đổi trong những bữa tiệc trà về những tiên đoán của một bà tiên tri nổi tiếng (“Theo như quan sát vị trí của Pluton, đảng xã hội sẽ thua đậm trong cuộc bầu cử”), về tính thực dụng của Xử Nữ, sự kiên cường của Bạch Dương, sự công minh của Bảo Bình. Bà cũng đặt mua một tuần báo chủ yếu nói về các đám cưới hoàng gia và các ngôi sao quay lại sàn diễn với những bài hát đánh dấu quãng đời niên thiếu của bà.”

Có thể thấy chỉ bằng việc miêu tả thói quen đọc của từng người, Linda Lê đã phác họa được khoảng cách khác biệt giữa các thành viên trong gia đình lớn như thế nào. Chính vì vậy, Isabelle dễ dàng tìm thấy sự đồng điệu trong tâm hồn với Antoine và cô đã yêu anh trước hết bằng tình yêu của một độc giả với một tác giả.

“Khi được biết anh là tác giả của hai cuốn tiểu thuyết và một tuyển tập thơ được xuất bản với số lượng ít ỏi nhưng được những người am hiểu khen ngợi, dù không may đấy không phải là những người có tầm ảnh hưởng lớn, cô đã hứa sẽ mua các tác phẩm của anh và đọc chúng một cách say mê, bởi vì cô biết chắc rằng nếu như vậy cô sẽ được khai sáng về tinh thần. Cô cũng biết chắc rằng sau khi đọc xong cô đủ khôn khéo để gửi cho Sorel một bức thư sẽ lay động anh.

Ngay sáng hôm sau, cô nhanh chóng đi ra một hiệu sách để mua cho mình ba cuốn sách đó. Chúng đóng bụi trên một kệ sách ở phía cuối trong một góc tối của cửa tiệm. Cô mang chúng về nhà, đặt chúng gần chiếc gối và trong nhiều đêm liên tiếp, cô đắm mình vào việc đọc chúng và ngày càng bị chinh phục. Cô nghĩ: “Tôi sẽ có được người đàn ông này. Cho dù gia đình họ hàng sẽ không thích.” Cô chưa bao giờ làm những gì người khác bắt cô làm. Nếu cô đã sống như những người phụ nữ dại khờ trong cái thế giới của mình, cô sẽ chỉ là một cô bé đáng thương, chỉ nghĩ đến việc có được những bộ đầm như những minh tinh màn bạc được các thợ săn ảnh chụp, đi chơi với những tên trẻ tuổi trong những chiếc xế hộp của chúng và lui tới những nơi cần đến để được người ta chú ý. Cô không phải là những phụ nữ kiều diễm không có đầu óc, với tương lai mù mịt, một con búp bê đẹp nhưng không có tầm nhìn sâu. Cô đón nhận những thông điệp chứa đựng trong các tác phẩm của Sorel dù văn chương của anh không phải kiểu văn chương truyền tải thông điệp: anh viết nhiều về bản thân mình, nhưng anh không phải là một người ngạo mạn và không thiếu sự chua cay. Ngay từ đầu cô xếp anh trong số những nhà văn có tài, có cái nhìn sáng suốt và đã phải làm việc rất nhiều để viết ra những tác phẩm hoàn hảo.”

“Trong những bài phỏng vấn của anh với một số báo, anh không nói nhiều về anh mà cũng không tỏ ra mình quan trọng. Anh nói rằng anh luôn bị bao vây bởi những nghi vấn, chúng đè nặng lên anh và đã rất nhiều lần anh có ý định buông tất cả để sống bụi. Chính điều này đã làm anh trở nên thân thuộc dưới con mắt cô. Cô tiếc vì đã không đọc sách của anh sớm hơn, trong khi đó cô luôn đi tìm những gì mới, cô không thể sống nếu cô không tự mình đi khắp nơi tìm cái đẹp ẩn náu, cô thấy trong thơ ca những lí lẽ để không phải đi theo con đường của bố mẹ cô. Cô hãnh diện đã không như hai chị em gái mình, xa lạ với nghệ thuật, không như bố của cô, hám tiền, và không như mẹ của cô chỉ làm những công việc nhàm chán, như chuẩn bị thực đơn cho bữa tiệc hay lương thưởng cho người hầu, vào những lúc bà không xem tử vi, chắc rằng mình đang làm những thứ siêu việt.”

“Trong suốt nhiều ngày, Isabelle hoàn thiện bức thư trong đó cô nói với Sorel rằng cô như bị phê thuốc sau khi đọc xong sách của anh. Cô chỉ có một ham muốn: kết bạn với anh. Cô viết nhiều về tính khí nóng nảy của cô, về việc cô cảm thấy cô đơn trong chính gia đình mình, một gia đình vô cảm trước cái đẹp, chỉ quan tâm đến “những thú vui trần tục”, cô viết về nhu cầu được thăng hoa và tình yêu của cô đối với những tác phẩm nghệ thuật đã giúp cô cách xa những thứ “vật chất tầm thường”. Việc liên lạc thư từ giữa hai người sẽ mang lại cho cô nhiều niềm vui lớn. Antoine sẽ giúp cô khai sáng. Những điều anh viết từ ngòi bút của anh dù nhỏ thôi cũng chứa đựng vô vàn điều hay…”

Tình yêu đẹp tuyệt vời là thế; tuy nhiên, khi hai người đã đến được với nhau thì cảnh tượng đau lòng tương tự như nhân vật Hộ trong tác phẩm Đời thừa của Nam Cao một lần nữa lại diễn ra.

“Nhiều đêm cô khóc, vùi đầu vào gối, trong khi đó, anh ngồi ở bàn làm việc chỉnh sửa bản viết tay mà anh tính vứt vào thùng rác. Cô thấy qua thái độ đó một lời trách móc thầm lặng nhắm vào cô: do sống chung anh đã phải hy sinh cuộc sống độc lập và nỗi đam mê viết của anh ngày càng lụi dần. Trước khi trở thành vợ của Sorel, cô không biết rằng có một đối thủ sẽ như thế nào, cô nói, cô nhanh chóng khám phá ra một đối thủ mang tên văn chương, và đó là một đối thủ có sức mạnh đáng gờm.”

Cuối cùng, Sorel rơi vào cảm giác chán nản không thể kháng cự nổi nữa:

“Anh la lớn anh chán ngấy cuộc đời này. Anh sẽ kết liễu nó nếu như anh đủ can đảm. Ngay những cuốn sách cũng không an ủi anh phần nào. Anh luôn tìm kiếm trong những cuốn kinh điển anh đã đọc nhiều lần lí do để bám lấy ảo tưởng rằng anh phải hoàn thành một nhiệm vụ trên thế gian này, rằng việc anh đam mê viết là hoàn toàn chính đáng, rằng chưa phải là mất tất cả khi nào anh vẫn còn tìm thấy câu chữ để có thể trấn an nỗi sợ hãi bên trong mình và quyết chiến với sự giả tạo bên ngoài. Nhưng ở tuổi ba mươi, anh có cảm giác ‘thể xác và tâm hồn’ đã kiệt quệ, như theo ai đó đã nói… Jean không còn nhớ là ai. Những năm tháng cực khổ đã vắt kiệt mọi sức lực của anh. Nhà văn không quan tâm đến tiền vì với anh, nuôi mộng bất tử là điều hoang tưởng. Anh đã sống cả một thập niên mà thậm chí không có gì để bỏ bụng và anh đã viết sách vào những lúc có lẽ anh nên bắn một phát vào đầu thay vì sống lay lắt như vậy. Nếu anh không chết ngay, ít ra anh cũng không muốn tham gia cuộc chơi của những người hợm hĩnh, mà anh không đi tìm nữa, như những tác giả trẻ mong muốn được đứng phía trước sân khấu, anh mong muốn có những thứ thỏa mãn nho nhỏ này khi đọc những phê bình ca ngợi anh. Hai cuốn tiểu thuyết đầu của anh chưa đủ táo bạo, anh tỏ ý tiếc nuối. Anh là người đánh giá khắt khe nhất, anh không tự cho mình là một người độc nhất vô nhị, nhưng anh cũng không ra vẻ khiêm tốn như những người thích tìm kiếm những lời ca ngợi. Anh hành xử không như một người tài năng thiên phú cảm thấy mình ưu việt. Anh không bao giờ đi rải những lời ca thán khi anh lại bị những thừa phát bám gót, anh không bao giờ nghĩ mình là nạn nhân của chủ nghĩa bài xích thơ ca khi sách của anh không được ai biết đến. Khi anh bị trầm cảm nặng, anh trốn trong nhà, tắt điện thoại sau khi báo cho các em trai biết anh cần được ở một mình, và trong những ngày như thế, anh cố gắng bằng mọi cách chiến thắng tình trạng mệt mỏi này và tránh làm phiền bất kì ai. Anh tin tưởng vào khả năng kháng cự của mình: nó chỉ phản bội anh nếu anh không tập hợp đủ năng lượng để sáng tác. Những tác phẩm của anh ra đời trong những giây phút kiệt quệ chán nản như thế.”

Và cuối cùng, anh đã chọn đến giải pháp là kết liễu chính cuộc đời mình.

Nhưng khác với nhân vật của mình, Linda Lê đã không lựa chọn giải pháp này. Dù đời sống có khó khăn thế nào, bà vẫn quyết tâm theo đuổi văn chương đến cùng, làm một nhà văn chuyên nghiệp chỉ sống bằng việc viết. Nhìn vào văn nghiệp của bà, ta có thể thấy cứ đều đặn một, hai năm bà lại cho ra mắt một tác phẩm. Vào năm ngoái, tác phẩm mới của bà có tên Toutes les colères du monde: La colère cũng vừa được xuất bản. Và bằng cách lao động miệt mài như thế, dù phải ra đi ở một độ tuổi vẫn còn trẻ, bà đã thực sự chiến thắng được tử thần với những tác phẩm sống mãi trong lòng người đọc.

Tôi mong trong một ngày gần nhất, mình sẽ không còn là “độc giả của một tác phẩm” của bà nữa. Vì bà xứng đáng được ta dành nhiều thời gian hơn, đọc đi đọc lại, để đắm chìm vào văn chương, đắm chìm vào thế giới mà ở nơi đó, nỗi buồn cũng thật lấp lánh, tựa như những hạt ngọc nơi khóe mắt.

Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Chuyện người cầm bút

Kazuo Ishiguro: “Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại”

Nhân kỉ niệm 20 năm ra mắt tiểu thuyết Mãi đừng xa tôi, tác giả đoạt giải Nobel Văn chương người Anh gốc Nhật Kazuo Ishiguro đã nói về vai trò của nhà văn trong thế giới hậu sự thật, và lý do tại sao ông “không phải là một nhà viết văn xuôi vĩ đại”.

Published

on

Bán chạy vì giống tiểu thuyết Young Adult

40 năm qua, Ishiguro là một trong những cây viết được đánh giá cao qua hàng chục tiểu thuyết, nhưng có lẽ không cuốn sách nào được yêu thích và nổi tiếng hơn cuốn sách thứ 6 Mãi đừng xa tôi. Nó bán chạy hơn bất kì tác phẩm nào khác trong văn nghiệp ông, đồng thời cũng được chuyển thể thành phim điện ảnh lẫn kịch sân khấu.  

Vẫn tìm được độc giả mới sau 20 năm xuất bản, cuốn tiểu thuyết này được Ishiguro ghi nhận là đã khởi đầu cho một chuỗi ngẫm nghĩ và định hình nên những tác phẩm tiếp theo như Người khổng lồ ngủ quên hay Klara và mặt trời sau này. Ông cho biết bộ 3 tác phẩm đều xoay quanh một sự thật cơ bản và không thể tránh khỏi là tất cả chúng ta đều sẽ chết, nhưng ta hiện sống như thể không bao giờ chết.

Xuất phát từ góc nhìn này, Mãi đừng xa tôi lấy bối cảnh một xã hội giả tưởng nơi trẻ em được nhân bản vô tính để cung cấp các cơ quan khỏe mạnh nhằm kéo dài cuộc sống cho người khác. Sau 2 hay 3 lần hiến không tự nguyện, những đứa trẻ sẽ hoàn thanh xong sứ mệnh và chết đi. Nhưng cũng có tin đồn rằng trong một số trường hợp nếu chứng minh được bản thân đang yêu, thì chúng sẽ được phép sống.

Chính niềm tin vô căn cứ này rằng đã tạo nên mạch vận động chính cho cuốn tiểu thuyết. Ishiguro giải thích: “Chúng ta dường như không bao giờ chấp nhận số phận và luôn khao khát tìm ra lối thoát đặc biệt. Tôi nghĩ điều đó không phải vì ta cứ muốn sống mãi, mà bởi chúng ta không muốn đối mặt với nỗi đau, nỗi buồn và sự cô đơn đi kèm cái chết. Chúng ta sợ mất đi những người thân yêu. Chúng ta sợ sự chia ly.”

Tựa đề cuốn tiểu thuyết là một bài hát mà người kể chuyện, Kathy H, phát đi phát lại trong thời gian cô ở trường nội trú Hailsham của những người nhân bản. Nó vừa là một hiện hữu vật lí dưới dạng cuộn băng cassette bị mất, vừa là lá bùa hộ mệnh - một biểu tượng của thời điểm trước khi cô biết cuộc sống của mình và của những người bạn như Tommy và Ruth sẽ phát triển như thế nào. Ishiguro đã sáng tác ra bài hát, sau đó được người bạn và cộng sự của ông - ca nhạc sĩ dòng jazz Stacey Kent thu âm. 

Mãi đừng xa tôi đã trải qua một thời kỳ thai nghén dài và chỉ tồn tại như những suy nghĩ và ghi chép về một nhóm sinh viên có tuổi thọ khác biệt rõ rệt so với những người cùng trang lứa – có lẽ cũng tương tự như tác hại của một thảm họa hạt nhân gây ra. Bước đột phá đến thông qua sự kết hợp của các yếu tố bên ngoài và thời điểm: sự quan tâm của xã hội đối với những lợi ích và nguy cơ tiềm ẩn của nhân bản trong giai đoạn mà hình ảnh chú cừu Dolly liên tục xuất hiện. 

Nói về điều này, Ishiguro cho biết: “Tôi cho phép bản thân sử dụng những gì mà theo truyền thống có thể được coi là phép ẩn dụ. Đó không phải vì tôi quá dũng cảm để tạo ra lối đi mới hay gì cả. Tôi nghĩ bầu không khí xung quanh thay đổi là nguyên nhân chính cho điều này, bởi thế hệ nhà văn tiếp sau - những người trẻ hơn tôi khoảng 15 tuổi như David Mitchell hoặc Alex Garland chẳng hạn – lại thấy nó không có gì kì lạ. Họ lấy cảm hứng từ đủ mọi nơi và tôi thực sự thích tác phẩm của họ.”

Thế hệ đề cao sáng tạo

Bên cạnh sự đột phá về thể loại là tiểu thuyết khoa học viễn tưởng phản địa đàng, Ishiguro từ đó cũng phát hiện ra một thể loại mới. Theo đó, lượng độc giả của Mãi đừng xa tôi đã vượt xa các tiểu thuyết khác của ông, bao gồm cả Tàn ngày để lại, và từ đó thu hút nhiều độc giả hơn đến các buổi đọc sách. Ông cho biết: "Tôi nghĩ một trong những lý do khiến tác phẩm này nổi bật vì nó giống như một cuốn sách YA trước khi thể loại này trở thành loại sách rất được yêu thích. Nó không nhất thiết dành cho những người trẻ tuổi, nhưng nó có rất nhiều thứ mà bây giờ đã trở thành đặc trưng của dòng chảy này: những đứa trẻ ở trường, các cảm xúc phức tạp, sự đố kỵ, tranh giành, nông nổi... Tôi nghĩ đó là một phần lý do khiến Mãi đừng xa tôi tiếp tục tìm được lượng độc giả mới."

Ông nói điều này khiến cho bản thân cảm thấy thú vị, khi nó dường như tách khỏi dòng chung là các tiểu thuyết văn chương xuất hiện trước những năm 1990 để thuộc về thế hệ mới là những tên tuổi ông được đặt cùng trong danh sách Granta's Best of Young British Novelists năm 1983, gồm Martin Amis, Salman Rushdie, Julian Barnes và Pat Barker. Ở giai đoạn đó, ông chia sẻ, “Chúng tôi tuy lạ lẫm với giới xuất bản khi đó nhưng khá tự hào vì mình là những người sáng tác văn chương thực thụ và hiểu giá trị của văn chương”. Khi được hỏi vì sao Doris Lessing cũng viết một cách linh hoạt rất nhiều thể loại nhưng không bị coi nhẹ, Ishirguro nói: “Chà, tôi cho rằng bà ấy chẳng quan tâm cải tiến, đổi mới gì đâu! Bà ấy chỉ đuổi theo trí tưởng tượng của mình mà thôi. Margaret Atwood cũng vậy nhưng thuộc thời này. Ý tôi là, những người này, họ không quan tâm đến kiểu sứ mệnh xây dựng một trào lưu mới”.

Nhưng khi bối cảnh văn học bắt đầu thay đổi, Ishiguro đã ở vị trí thuận lợi, xét về mặt ảnh hưởng và tính khí, để tận dụng lợi thế từ sự “nới lỏng của các dây buộc”. Ông đã đọc và sáng tác truyện tranh dẫu trước đó còn tương đối mơ hồ về thuật ngữ "tiểu thuyết đồ họa", nhưng niềm đam mê âm nhạc và phim ảnh suốt đời đã mang đến cho ông một góc nhìn khác về ý tưởng kết hợp các phong cách viết và thể loại. Người ông hâm mộ gồm Bob Dylan, Miles Davis, Picasso cũng như Stanley Kubrick trong điện ảnh.

"Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại"

Mặc dù nhiệt tình đón nhận dòng chảy của các thể loại và phong cách mới, nhưng Ishiguro vẫn kiên quyết một cách đáng kinh ngạc về những hạn chế của mình. Khi nói về sở thích của ông đối với câu chuyện kể ngôi thứ nhất và cam kết tạo ra những giọng nói đặc biệt sẽ thiết lập nên tông điệu và nội dung cho các tiểu thuyết của mình, ông đã đưa ra một tuyên bố thẳng thừng: "Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại cả". Ông giải thích thêm “Đôi khi tôi đọc nhiều cuốn sách mà bản thân thấy kinh ngạc trước vẻ đẹp của thứ văn xuôi được in ở đó. Tôi chẳng thể nào viết ra được chúng”.

Nói về trách nhiệm của mình với tư cách một nhà văn, Ishiguro cho biết: “Tôi khá hoài nghi sức mạnh khơi gợi cảm xúc ở người đọc mà người ta hay ngợi ca tôi, hay Uỷ ban Nobel đã từng trích dẫn khi gọi tên tôi. Sách của tôi không cho độc giả biết thêm điều gì. Nếu họ muốn biết về các sự kiện, thì chẳng phải đã có các sử gia ở đó rồi sao?” Nhưng trong vài năm trở lại đây, ông ngày càng lo ngại rằng việc khơi dậy những phản ứng cảm xúc mạnh mẽ có một chiều hướng đen tối hơn nhiều, khi chúng bị lợi dụng cho những múc đích khác nhau.

Ông nói thêm: “AI sẽ trở nên rất giỏi trong việc điều khiển cảm xúc. Tôi nghĩ chúng ta đang ở bờ vực của điều đó. Hiện tại, chúng ta chỉ nghĩ đến việc AI xử lý dữ liệu hoặc làm gì đó khô khan. Nhưng rất sớm thôi, AI sẽ có thể tìm ra cách tạo ra một số loại cảm xúc nhất định ở con người - tức giận, buồn bã, cười đùa.” Cũng vì AI có khả năng cũng sẽ có tác động đáng kể đến nghệ thuật sáng tạo nên Ishiguro gần đây đã kêu gọi chính phủ Anh bảo vệ tác phẩm của các nhà văn và nghệ sĩ khỏi sự săn mồi của các tập đoàn công nghệ, mô tả kỷ nguyên hiện tại là “khoảnh khắc ngã ba đường”.

Đối mặt với câu hỏi rằng trong một xã hội hậu sự thật được hỗ trợ bởi AI và thuật toán, liệu tiểu thuyết có đủ sức gây ấn tượng về mặt cảm xúc không? Ông trả lời: “Nếu tôi triển khai công nghệ đó để phục vụ một chính trị gia hoặc một tập đoàn lớn muốn bán dược phẩm, bạn sẽ không nghĩ đó là điều gì đáng chú ý cả. Nhưng nếu dùng nó để mà kể chuyện, thì nó sẽ được đánh giá rất cao. Chính nó khiến tôi ngày càng cảm thấy không thoải mái, bởi tôi chưa được khen ngợi về phong cách đáng kinh ngạc hoặc vì tiểu thuyết của mình giúp vạch trần những bất công lớn trên thế giới. Thay vào đó tôi được khen ngợi vì làm cho mọi người khóc”. Ông cười lớn và sau đó nói: “Họ đã trao cho tôi Nobel Văn chương chỉ vì điều đó”.

Ngô Minh dịch từ The Guardian

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Băng: Hành trình lạc lối trong thế giới hậu tận thế

Published

on

By

Tiểu thuyết Băng của tác giả Anna Kavan là một câu chuyện giả tưởng độc đáo, kể về mối tình tay ba tuyệt vọng đan xen với bối cảnh hậu tận thế ảm đạm do thảm họa sinh thái và chính trị gây ra.

Băng không tuân theo lối kể chuyện truyền thống. Thay vào đó, Kavan sử dụng nhiều hình ảnh ẩn dụ và biểu tượng để dẫn dắt người đọc vào thế giới nội tâm của các nhân vật. Cuốn sách mang đến cho người đọc trải nghiệm đầy ám ảnh, khơi gợi những suy tư về bản chất con người và tương lai của thế giới. Để giúp độc giả hiểu rõ hơn về Băng, Bookish đã có cuộc phỏng vấn với Tâm Anh – dịch giả của quyển sách. 

Băng là một tác phẩm không viết theo lối tuyến tính thông thường. Điều này có khiến bạn gặp phải khó khăn nào trong quá trình dịch tác phẩm sang tiếng Việt không? Nếu có thì bạn đã vượt qua được bằng cách nào?

Khó khăn lớn nhất là ban đầu chính mình cũng thấy tương đối hoang mang, không nắm bắt được câu chuyện. Đến khoảng một phần ba sách rồi nhưng mình không thực sự hiểu tác giả muốn nói về điều gì. Thật tình cờ, khoảng thời gian ấy mình tham dự một buổi giao lưu trực tuyến với dịch giả Trần Nguyên của tác phẩm Bà Dalloway. Trong phần thảo luận, dịch giả An Lý đặt một câu hỏi liên quan đến bút pháp unreliable narrator, tạm dịch là người kể chuyện không đáng tin cậy. Lần đầu tiên mình nghe thấy khái niệm này, nhưng không cần viện đến định nghĩa hay tra cứu thêm, ngay khoảnh khắc đó trong đầu mình như reo vang “Eureka!” Đây chính là cách mình tiếp cận phần còn lại của tác phẩm. Mình không còn quá áp lực chú tâm vào việc lần theo một cốt truyện mạch lạc, mà tự đặt mình vào vị trí người lắng nghe một câu chuyện mơ hồ, đứt quãng, không nhân quả, không đầu cuối của nhân vật tường thuật dường như đã đạt đến đỉnh cao của thuật thao túng tâm lý ở chỗ anh ta đánh lừa được cả chính bản thân. Từ đây, mình đọc hiểu tác phẩm dễ dàng hơn và cảm giác thoải mái hơn với việc chuyển ngữ sang tiếng Việt. Dĩ nhiên đây chỉ là cách tiếp cận tác phẩm của riêng mình, và mình chắc chắn rằng còn rất nhiều cách phân tích Băng khác không chỉ của các nhà phê bình, nghiên cứu mà của từng độc giả. Nhưng điều mình đúc kết được là người dịch cần hiểu và có cảm giác thân thuộc với tác phẩm. 

Trong bức tranh hậu tận thế mà tác giả đã khắc họa, điều gì khiến bạn cảm thấy ấn tượng nhất? Đồng thời, có điều gì khiến bạn cảm thấy gần gũi với bối cảnh hiện đại ngày nay và lo sợ rằng viễn cảnh trong Băng cũng sẽ sớm xảy đến với nhân loại không?

Mình rất thích những đoạn mô tả “băng” trong tác phẩm, đây dường như là một nhân vật còn sinh động hơn “cô gái”. Tuy nhiên hiện tượng băng tràn đi khắp nơi có lẽ trái ngược với biến đổi khí hậu ngày nay – ấm lên toàn cầu dẫn đến băng tan. Dẫu vậy, mình nghĩ chi tiết này trong sách và tình trạng biến đổi khí hậu thực tế chia sẻ nhiều điểm chung: tác động quy mô toàn cầu và sức ảnh hưởng đến mọi người, không ai tránh được, song chịu thiệt thòi nhất sẽ là những nhóm người yếu thế. Mình nghĩ tác giả cố tình chọn chi tiết ngược với thực tế để câu chuyện không bị trói buộc trong lớp nghĩa duy nhất về biến đổi khí hậu mà đa tầng nghĩa, giàu tính khái quát hơn.

Có lẽ viễn cảnh trong Băng sẽ không xảy ra, ít nhất là trong tương lai gần. Nhưng mình lo lắng rằng chúng ta sẽ không hành động kịp thời để ngăn chặn các thảm họa khí hậu mà khoa học đã cảnh báo nhiều thập kỷ qua.

Bạn tâm đắc nhất điều gì về văn phong của Anna Kavan, cũng như cách tác giả xây dựng câu chuyện?

Mình có cảm giác gắn bó và kết nối kỳ lạ với “cô gái” – nhân vật nữ được kể từ góc nhìn của người nam. Mình nghĩ ngôi kể và góc nhìn này đã khắc họa rất tốt cái theo mình cảm nhận là tính nam độc hại. Không khí vô định mất phương hướng ban đầu khiến mình chật vật về sau khi nghĩ lại, chính là điểm khiến cho tác phẩm hấp dẫn đối với mình – chỉ trong những lần đọc đi đọc lại và suy ngẫm về sau, mình mới càng hiểu hơn những điều mà trước đó chưa mảy may thoáng qua tâm trí mình.

Dịch giả Tâm Anh

Việc câu chuyện này không có một nhân vật nào được đặt tên mang lại cho bạn cảm giác gì khi dịch?

Cũng như lối kể không tuyến tính, đó là cảm giác mơ hồ mất định hướng. Và mình nghĩ đây là chủ đích của tác giả. Một người bạn của mình gần đây đọc sách cũng nói đến điểm này, và rằng bạn ấy cảm nhận như thể có hai nhân vật hóa ra chính là một (các bạn đọc sẽ rõ mình sợ tiết lộ mất).

Bạn có gặp phải những từ hoặc cụm từ nào trong bản gốc khiến bạn cân nhắc rất kỹ lưỡng khi dịch không? Ví dụ, có cụm từ hay câu văn nào có thể hiểu theo nhiều nghĩa hay không?

Có một điểm là xuyên suốt cuốn sách tác giả dùng rất nhiều tính từ “white” – trắng, tuy nhiên nếu chỉ dịch đơn thuần là “trắng” trong tiếng Việt thì đôi khi vừa không nhịp nhàng, thuận tai, lại vừa như thiếu đi nét nghĩa nào đó. Do đó trong một số trường hợp mình có cân nhắc và mượn đến một số sắc thái trắng trong tiếng Việt mà mình nghĩ là phù hợp để dịch tính từ “white”. Còn về cụm từ làm khó mình thì cũng có kha khá, đa số mình đều tham khảo nhiều từ điển Anh-Anh lẫn Anh-Việt để tìm nét nghĩa tương đương nhất. Rất nhiều chỗ tra theo từng từ đơn lẻ sẽ bị sai nghĩa, vì phải tra cứu đúng cả cụm từ (ngữ) mới ra nghĩa chính xác.

Một chia sẻ thực lòng là dịch cuốn này mình còn rất non tay nên bản dịch sau cuối trên tay độc giả hiện nay cũng có sự trợ giúp biên tập, hiệu đính của một dịch giả uy tín. Bản thân mình trong quá trình dịch đã tự học được rất nhiều và khi đối chiếu với bản thảo dịch đã biên tập lại càng học thêm được nhiều điều hơn. Mình hy vọng nhờ được biên tập kỹ lưỡng như vậy nên cuốn sách xuất bản là một bản dịch trọn vẹn, hoàn thiện, cho độc giả một trải nghiệm đọc xứng đáng.

Bạn có lời nhắn nhủ nào cho những ai muốn đọc/ sắp sửa đọc tác phẩm này không? Chẳng hạn như, trước khi đọc cần phải chuẩn bị một tâm thế ra sao để việc thưởng thức tác phẩm được diễn ra trọn vẹn nhất?

Mình nghĩ với hầu hết các tác phẩm chứ không riêng gì Băng, ta có thể cứ thế bắt đầu đọc và thả mình theo câu chuyện, nếu cần tra cứu thông tin bổ trợ thì tìm kiếm thêm sau. Tuy nhiên nếu cảm giác đọc mà hoang mang không hiểu, không nắm bắt được, mình thường sẽ tìm đến các bài viết, thường là các bình luận trên The New Yorker, The New York Times hoặc một trang gần gũi hơn, tổng hợp nhiều ý kiến như Goodreads, đọc qua một số ý chính về cách tiếp cận tác phẩm, sau đó thử áp dụng vào cuốn sách mình đang đọc. Với riêng Băng, mình nghĩ các bạn đừng quá chú trọng đến cốt truyện hay một thông điệp nào. Mình cảm giác chỉ đến khi đọc xong và ngẫm lại, đọc đi đọc lại nhiều lần nữa, trong mình mới ngờ ngợ được những gì tác giả muốn nói (với một độc giả là mình, còn với người khác có lẽ bà lại nói điều khác).

Cảm ơn Tâm Anh vì đã mang đến cho Bookish một buổi trò chuyện ý nghĩa. Chúc bạn luôn thành công và gặt hái nhiều thành tựu trong tương lai.

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi: Biến mất cũng có thể là một điều rất đẹp

Published

on

By

Nhà văn Nguyễn Hoàng Mai vừa ra mắt bạn đọc tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi về chủ đề tình yêu và những nỗi trăn trở của người trẻ. Tác phẩm tạo nên sức hút riêng với lối văn trầm tĩnh, sâu lắng. Bookish đã có cuộc trò chuyện cùng nhà văn để giúp bạn đọc hiểu hơn về tác phẩm này.

Nguyễn Hoàng Mai là tác giả của hai tác phẩm đầy cảm xúc về tuổi trẻ: Đung đưa trên những đám mây (tiểu thuyết, 2018), Bây giờ mình đi đâu (tập truyện ngắn, 2019). Bên cạnh đó, cô còn là đồng dịch giả của tác phẩm nghiên cứu Sứ đoàn Iwakura viết về chuyến du khảo nhằm canh tân Nhật Bản thời Minh Trị, vừa được Phương Nam Book phát hành trong năm 2023.

Năm 2023 vừa qua có vẻ là một năm bội thu trong lĩnh vực văn chương với Mai. Bạn vừa ra mắt tác phẩm đồng dịch thuật là Sứ đoàn Iwakura vào tháng 7 thì đến cuối năm lại ra mắt tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi vào ngày có số đôi đặc biệt là 12.12. Được biết, công việc của Mai ở Nhật cũng rất bận rộn; vậy bạn thu xếp thời gian ra sao để vẫn có thể vừa làm việc vừa sáng tác với năng lượng dồi dào như thế?

Thật ra hai tác phẩm được ra mắt vào năm nay Sứ đoàn Iwakura và tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi đều là quả muộn của quá trình viết lách từ rất nhiều năm về trước. Việc tác phẩm ra mắt vào ngày có số đôi 12.12 tuy ngẫu nhiên nhưng trở thành điểm trùng hợp khá thú vị. Trong thời gian tôi viết Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi có những cột mốc đều gắn với con gắn liền với con số 12. Sau này tìm hiểu thì tôi mới biết khái niệm về “con số thiên thần” (Angel Number) 1212 nhằm mục đích dẫn lối đến sự mạnh mẽ dấn thân, tiến tới sự trưởng thành trong tâm thức, để sau này khi đối mặt với những sóng gió kinh khủng nhất cũng không thể làm bản thân gục ngã.

Công việc và cuộc sống ở Nhật cũng khá nhanh và bận rộn nhưng tôi luôn tìm kiếm một khoảng trời riêng, để tự do viết nên thế giới qua những trải nghiệm của chính mình. Thực ra quá trình viết cũng là quá trình tôi tự đối mặt với cảm xúc của mình, tìm ra con đường hướng tới sự an lành, bình yên trong tâm trí.

Nhân vật Mimi đã biến mất trong tiểu thuyết Đung đưa trên những đám mây, và trong tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi vừa ra mắt của bạn cũng có rất nhiều nhân vật biến mất. Tại sao Mai không cho họ hiện hữu lâu hơn?

Thời gian viết tập truyện, tôi đã gặp một cô gái – có thể gọi là nàng thơ cũng được – người lúc nào cũng nói về sự biến mất của chính mình. Điều đó làm tôi suy nghĩ, ngẫu nhiên cũng đã chạm vào những điều trong tâm tư của chính tôi. Một người lúc nào cũng suy nghĩ sự biến mất có lẽ luôn luôn chiêm nghiệm về sự tồn tại của mình. Có lẽ họ là những người mà đã nếm trải quá nhiều về sự vô thường trong kiếp người, và cảm giác mất mát lần lượt những thứ quan trọng trong đời.

Nhân vật người mẫu Mộc Anh mang nhiều mâu thuẫn, vừa dự cảm được vừa rất sợ sự biến mất. Nhân vật tôi đã cho cô ấy thấy biến mất cũng có thể rất đẹp, không cần phải quá sợ hãi, vì cô ấy luôn có người một người hiểu mình ở bên cạnh. Biến mất cũng có thể hiểu về cách hình dung đến cái chết. Hành trình sống của mỗi người là hành trình đi về cái chết. Nghe có vẻ bi quan nhưng có lẽ, ai cũng phải đối mặt với cái chết – sự thật này – dù sớm hay muộn. Suy nghĩ về thời gian sống còn lại, giúp người ta có thể sống một cách đam mê, dũng cảm, chân thành hơn.

Vì biết chắc một ngày nào đó, mình sẽ biến mất nên có thể sống một cách rực rỡ. Mộc Anh là một nhân vật luôn phải đấu tranh giữa những cám dỗ cuộc sống phồn hoa, nhưng một ngày cô ấy đã thức tỉnh tìm đến Tokyo – vùng đất mà cô tin mình có thể được chữa lành. Thời khắc những cánh hoa anh đào rơi trở thành điều kỳ diệu, một khoảnh khắc cũng có thể trở nên vĩnh hằng trong tâm trí những người trẻ mơ mộng ấy.

Những truyện ngắn trong Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi lấy bối cảnh trải dài khắp các tỉnh thành ở nước Nhật. Bạn đã thực sự đi qua hết những địa điểm đề cập trong sách hay có nơi nào bạn chưa kịp đến và chỉ viết dựa trên sự hứng thú, nghiên cứu về nơi đó không? Trong các địa danh được đề cập trong sách, đâu là những nơi để lại cho Mai nhiều ấn tượng và kỉ niệm sâu sắc nhất?

Nhật Bản là quốc đảo có hình thể trải dài từ Bắc xuống Nam, gần giống như dáng hình của đất nước Việt Nam mình. Mỗi tỉnh thành của xứ sở này lại có những đặc sản riêng, màu sắc thiên nhiên, văn hóa lễ hội riêng biệt. Mỗi tỉnh thành như một nét vẽ, mảng màu kỳ diệu, hài hòa trong bức tranh tổng thể. Khi viết Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi, tôi đã có một chút tham vọng, muốn độc giả chỉ qua những trang sách, những con chữ, vẫn có thể cảm nhận bằng giác quan, hình dung nên những câu chuyện, cảnh sắc, trải nghiệm về những nơi chốn tôi từng đặt chân đến.

Trong những tỉnh thành đó, để lại ấn tượng sâu đậm nhất có lẽ là Tokyo và Kyoto, hai thành phố có vẻ đối lập như những tấm gương phản chiếu cho nhau về lịch sử, văn hóa, phong cảnh, tính cách con người. Nơi chứa đựng nhiều kỷ niệm mang màu sắc cá nhân nhất là Tokyo sôi động, nhiệt huyết, nơi tôi đã trải qua hơn 7 năm tuổi trẻ của chính mình. Nơi lưu giữ một phần trái tim, tâm hồn tôi lại là Kyoto trầm mặc, có khả năng thấm sâu vào lòng người như hơi rượu sake ngày mưa, như những trang sách tuyệt đẹp trong tiểu thuyết Cố Đô của Kawabata Yasunari.

Ở tập truyện ngắn lần này, Mai thể hiện sự trưởng thành khá rõ trong lối viết ở cách chọn bối cảnh và những nghiên cứu kĩ lưỡng về nghề nghiệp của nhân vật được thể hiện qua các chi tiết trong truyện. Bên cạnh đó, Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi còn có sự đa dạng về sắc thái tình yêu và những xu hướng tính dục khác nhau, không chỉ đơn thuần là tình yêu giữa hai người khác giới như nhiều tác phẩm khác trên thị trường hiện nay. Tại sao bạn lại có sự lựa chọn này?

Thông qua chủ đề khá nhạy cảm của giới trẻ là tình dục và giới tính, tôi đã muốn khắc họa sâu hơn gương mặt muôn vẻ của Tình yêu và Thanh Xuân Tuổi trẻ những ngọt ngào, mới mẻ, mơ mộng, đầy khát khao khám phá thế giới.

Về tình yêu, tôi đã luôn hiểu đó là khái niệm diệu kỳ bắt nguồn từ bên trong vẫn luôn ở đấy, nguồn sống bao trùm, tràn ngập thế giới này. Tình yêu luôn thuần khiết, mang năng lượng chữa lành vượt qua những ranh giới như: giới tính, vật chất, tuổi tác, khoảng cách địa lý v.v... Tôi đã nghĩ như vậy, muốn đem thông điệp đó vào tác phẩm của mình. Chúng ta luôn có vô vàn tình yêu trong trái tim mình. Chúng ta có bản năng yêu thương, có thể cho đi tình yêu vô điều kiện miễn là trước tiên chúng ta biết chấp nhận và yêu thương bản thân vô điều kiện. Sau khi trải qua những tháng năm tuổi trẻ ở cả Việt Nam và xứ sở Mặt Trời Mọc, tôi đã suy nghĩ, chiêm nghiệm như vậy.

Sau tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi, trong năm 2024, Mai có ấp ủ những dự định sáng tác mới nào không?

Giai đoạn này, tôi vẫn đang dành thời gian lắng đọng, trau chuốt lại bản thảo tiểu thuyết viết từ năm 21 tuổi. Cùng với đó là dự án kết hợp cùng một ca sĩ nhạc sĩ Gen Z viết cuốn sách về âm nhạc đường phố với bối cảnh là những khu ổ chuột Sài Gòn, một câu chuyện rất thật, khắc họa những nhân vật trẻ, cá tính, nhiều vấp ngã nhưng luôn biết cách đứng lên đầy mạnh mẽ. Với tập truyện này tôi muốn thể nghiệm một chút thay đổi trong phong cách viết, gai góc, hài hước, gần gũi hơn nhưng nếu có thể chạm sâu vào trái tim những người trẻ, gieo trong họ một câu chuyện truyền cảm hứng về sự nỗ lực không ngừng nghỉ, rằng đừng bao giờ ngừng tin tưởng vào bản thân, đừng bao giờ dập tắt ngọn lửa đam mê khi còn trẻ.

Tận sâu trong tôi vẫn còn nhiều nguồn cảm hứng sáng tác, muốn viết thêm về Tokyo, kể những câu chuyện theo những cách khác nhau, nhưng có lẽ theo một tâm thế tỉnh thức hơn.

Cảm ơn Mai đã dành thời gian trò chuyện với Bookish, chúc bạn có một hành trình thật rực rỡ trong năm mới.

Đọc bài viết

Cafe sáng