Phía sau trang sách

Kẻ ly hương: Mã vạch H4

“Nhà nước đã có từ trước khi ta sinh ra, ta hoàn toàn bất lực không thể tiêu hủy Nhà nước. Kẻ nào tự chọn đặt mình ra ngoài Nhà nước là kẻ phi pháp”.
– J.M. Coetzee, Diary of A Bad Year, 2007.

Published

on

Sự thành công của Viet Thanh Nguyen với Người tị nạn, The Sympathizer hay Nothing Ever Dies đã chứng tỏ một điều: vấn đề tị nạn vẫn đang và sẽ luôn là một trong những nhân tố khắc họa nên lịch sử một cách rõ ràng nhất. Ở đó, những nạn dân lặng lẽ gom góp bóng hình mình vào văn chương, hồn ma của họ khuấy động thượng – nghị viện, dấu chân của họ làm nặng nề thêm hậu Brexit. Những nạn dân nói riêng hay kẻ ly hương nói chung vẫn luôn còn đó, họ đứng đấy phơi thân như những bù nhìn canh giữ cánh đồng lịch sử, nhưng tiếc thay, sẽ mãi mãi còn xác không hồn như những vật chất bất di bất dịch ấy, hoặc là biến mất mãi mãi. Và với Kẻ ly hương, thêm một lần nữa ta được bắt gặp từng mặt người một được vẽ nên bởi lớp da thiên di – cánh chim bay hoài mải miết hướng đến địa ngục khôn cùng.

Họ là những ai?

Nếu Người tị nạn của Viet Thanh Nguyen là phát súng đầu tiên cho ta thấy rõ những người tị nạn thật sự là ai, họ trốn chạy điều gì và thứ gì đang chờ đón họ; thì với riêng Kẻ ly hương, tập tiểu luận này là một góc nhìn đa chiều, xoáy sâu hơn bằng câu chuyện của những chứng nhân lịch sử mà những diễn biến hằn sâu trong đôi mắt họ, ký ức lưu lại mãi mãi như những sang chấn tâm lý không thể khôi phục. Người tị nan được viết như một tuyển tập truyện ngắn mà trong đó những sự thật lịch sử phần nào được thi vị hóa trong lớp nền văn chương, hơn thế nữa, dù đã cố gắng xoay chuyển góc nhìn ở nhiều nhân vật khác nhau: khi là nạn nhân, khi là người dang tay che chở; thì nó cũng không thoát khỏi gót chân Asin – sự độc diễn của riêng tác giả. Thiên di có năm bảy loại, và tình cảnh ly hương còn nhiều hơn thế. Dễ hiểu ly hương bao hàm tị nạn, và với sự đa dạng của nhiều góc nhìn, nhiều câu chuyện; Kẻ ly hương thật sự là một tác phẩm khá toàn diện về những con người lạc loài tìm miền đất mới.

Tị nạn đơn thuần là sự chạy trốn chiến tranh, chạy trốn mâu thuẫn lên cao giữa những thể chế chính trị cả trong hay ngoài đất nước; nhưng ly hương còn nhiều hơn thế. Nó có thể là sự chạy trốn về mặt kinh tế, tôn giáo, xã hội; hay cả gần đây, về mặt giáo dục. Những câu chuyện ly hương không chỉ đơn thuần là những cảnh ngộ vượt quá sức chịu đựng, mà hơn thế nữa, nó còn là câu chuyện đằng sau quá trình thiên di địa lý, là sự chấp nhận hay kháng cự, là cách họ bị đối xử, đứng lên, làm lại chính mình; là cách người bản xứ đối diện với họ, hoặc như con người hoặc những bóng ma,… Nhiều góc nhìn, nhiều chủ đề được đưa ra bàn luận như một hội nghị bàn tròn, mà ở đó cuốn sách như biên bản cuối cùng được kể lại để mãi mãi lưu vào lịch sử. Và hãy tin rằng, một khi dũng cảm để đọc hết nó, bạn cũng đồng thời góp phần mình vào chính những trang sử ấy.

Họ đã làm gì?

Lev Golinkin trong câu chuyện của mình đã viết những dòng sau đây: “Trở thành người tị nạn là một quá trình phai màu, chuyển tiếp từ từ sang dạng thức tồn tại như một bóng ma […] Trở thành một người tị nạn là bất lực đứng nhìn những mỏ neo bị dứt đứt, từng cái một, cho đến khi bạn lửng lơ bồng bềnh trên bề mặt xã hội, một bóng ma vất vưởng cần lắm một đời sống mới”. Ở đó, sau hậu chấn rời bỏ quê nhà, lênh đênh trên những con thuyền hoặc thót tim trên những chuyến tàu nối dài đông đúc; họ phải đối mặt với nỗi luyến nhớ những gì bỏ đi, hoặc thương tiếc, hoặc cam chịu quay đi. Có thể nói, nỗi đau trên những hành trình thiên di chỉ như cái đau thể xác: họ có thể đói, khát, bị cướp bóc, hãm hiếp, hoặc thậm chí bị giết chết; nhưng tất cả những thử đó chỉ như bên ngoài; sâu xa hơn, ở chính đằng sau, cái gậm nhấm tinh thần họ từng ngày như bầy chuột lang nhung nhúc trên da thịt người chính là quê hương, nguồn cội, là bản lai diện mục, là những đứa con người cháu, ông bố bà mẹ,… tất cả những quần thể xa xôi, những bóng ma quá vãng, là thứ khiến họ cắn rứt, dù lực bất tòng tâm hay có một phương cách nào, dù ít dù nhiều, đều là những vết khoét sâu mãi mãi không hàn gắn được.

Ở đó có câu chuyện của người cha để lại con mình vì sự an toàn để rồi sau đó tình cảm gắn kết giữa họ rạn nứt mãi mãi (Reyna Grande), có người ông dù đã men bờ vực thẳm vẫn gắng sức vượt Afganistan sang Ấn Độ vì con gái (Joseph Azam), có người mẹ vì muốn gia đình đoàn tụ phải chịu cô độc giữa nước Đức giá rét không một ai (Meron Hadero) hay vì nội chiến mà người đàn bà nản lòng bỏ hết những niềm vui sống (Rosa Tshuma),… và còn nhiều nữa. Họ như cùng chung số mệnh – số mệnh của cách xa, chia ly, đổ vỡ; của lầy lội trong vũng bùn liệu có được là người. Không đơn thuần thế, trong chính nỗi đau thân thể hay tinh thần ấy, họ đồng thời phải chịu đựng chính sự khinh bỉ, dò xét của người bản xứ. Nó như nhát dao càng khoét sâu hơn vào trong tâm khảm họ, như thể, họ tự cảm nhận, bản thân là một cơ quan nội tạng bị chính cơ thể rộng lớn – nhân đạo – đào thải. Không nhà, không cửa, không quê hương, thân thích,… tất cả như những mũi neo đứt lìa bản thân họ ra khỏi bến bờ thân quen, vươn ra đại dương của những bất an cùng những bảo tố đang chờ phía trước.

Họ thấy thế nào?

Bằng nhiều giọng văn khi hài hước, oán hận; khi điềm tĩnh, nản lòng; những mảnh ghép trong cuốn sách này dần dần định hình thế giới mà chúng ta sống. Trở thành một kẻ ly hương là chấp nhận mất tất cả làm lại từ đầu, nhưng cũng đồng thời, là những dè bỉu, khinh khi: “Chúng tôi bị phán xét như một giống loài suy đồi, những tên đạo tặc, sát nhân, hãm hiếp, và bán ma túy đang làm nhiễm độc linh hồn Nam Phi”. Họ luôn trong trạng thái cúi mặt nhìn xuống tìm từng đồng xu lẻ vì có lý gì đâu mà ngẩng đầu nhìn lên như Viet Thanh Nguyen viết, hay luôn phải hàm chứa trong mình một sự biết ơn khó tả – biết ơn vì căn nhà, lẽ sống, vì lòng nhân đạo dang tay giúp đỡ. Họ biết ơn nhưng sẽ không bao giờ trả lại được loại tình nghĩa đó. Như loài bất tử cộng sinh vào người tị nạn, nó chiếm lấy lòng tự tôn của họ, dang tay lấy trọn những cố gắng của họ; dù có thành công đến đâu, nên người thế nào, nhưng với tư cách của một nhà văn, dấu gạch nối giữa hai quốc tịch vẫn không thể nào xóa bỏ. “Là những người tị nạn, chúng tôi mắc nợ họ căn cước trước kia của mình. Chúng tôi phải đặt nó trước cửa nhà họ như một tặng phẩm, và hân hoan từ bỏ nó để có được vị trí của chúng tôi trong xứ sở mới này. Không chân trong chân ngoài. Không có nền văn hóa thứ ba ở đây”.

Trong cuốn tiểu luận này, Marina Lewycka – tác giả của Lược sử máy kéo bằng tiếng Ukraina đã đóng góp một bài viết vô cùng sâu sắc về người tị nạn, trong một giọng văn vô cùng bất ngờ. Thay vì phong cách trào phúng châm biếm như cuộc tình 27 72 trong những tác phẩm trước đây, bà thay vào đó một sự nản lòng sâu sắc vì sự thay đổi của nhân tính, của đói nghèo và lòng tham. Bà đi từ nước Anh của những chiếc bánh ngọt hay lời mời ăn tối, sang một nước Anh của khủng hoảng hậu Brexit và sự xoay trục của tư tưởng Trump. Bài xích tị nạn, bài xích di dân hay chủ nghĩa bản địa bài ngoại,… tất cả len lỏi vào đời sống người dân Anh hiện đại như một phương cách đến gần hơn với cuộc rời bỏ EU.

Những người phương Tây hiện đại nhìn người tị nạn bằng con mắt căm thù – hờn căm không phải vì họ làm nhơ bẩn phông nền văn hóa vĩ đại từ lâu, cũng không hẳn vì họ giành lấy cơm ăn áo mặc, chỗ ở, việc làm của cộng đồng mình; mà dễ thấy, vì nỗi tị hiềm. Vì một khao khát đổi thay cuộc đời, người tị nạn hay kẻ ly hương luôn mang trong mình thứ gene chiến thắng thời cuộc, họ học và làm việc gần hết tốc lực. Và chỉ khi câu châm ngôn nước Mỹ bị băng hoại vì sự thờ ơ biếng nhác, thì Donald Trump và “Make American Great Again” mới đủ sức lật ngửa bàn cờ chính trị. Kết lại bằng tiếng thở dài của những tự do dân chủ đã mất; bà viết trong cơn nản lòng: “Có lẽ với tất cả những người như chúng tôi cái gọi là quê hương chân chính chỉ là một khung cảnh điền viên đượm sắc hồng tuổi hoa niên, nơi từ đó chúng tôi đã chia ly biền biệt vào cõi lưu đày”.

Những tín hiệu mới

Khi Donald Trump bước một bước thần kỳ lên cầm quyền và hoạch định kế hoạch xây bức tường ngăn cách với Mexico, và cũng trước khi Barbra Streisand làm một đĩa nhạc đậm tính chính trị mỏng để “diss” vị tân tổng thống này; thì từ sâu xa trước đó có một thực tế là những nhen nhóm đoàn kết văn hóa đã bắt rễ vào sâu trong lòng nước Mỹ. Trump có thể làm mọi thứ: ông ta có tiền, quyền lực, điều hành; và nếu Thượng viện thông qua chính sách này (dù trường hợp ấy chỉ có thể xuất hiện trong những tiểu thuyết viễn tưởng của H.G. Wells, Belyaev hay Čapek), thì có lẽ ông ta cũng không thể ngờ chính sự gắn kết văn hóa đã là một ngáng trở khó thể vượt qua, mà biểu hiện hùng hồn và đơn giản nhất, là trong một siêu thị nước Mỹ. Ariel Dorfman một cách hài hước đã viết nên chính những gắn kết yếu tố Mỹ Latin này. Ông dùng sự đa dạng của một siêu thị, nơi những mặt hàng Mỹ Latin bày bán còn phong phú hơn cả nơi quê nhà, nơi bạn có thể mua đến 18 loại ớt Chile chỉ trong không gian siêu thị. Cũng chính trong không gian nhỏ này, sự luyến nhớ cố hương của họ cộng hưởng cùng nhau làm nên một sức mạnh bất di bất dịch mặc cho quyền lực hay của cải. Dorfman khẳng định: “Lục địa của Juárez và García Márquez và Eva Perón không còn có thể được hiểu là chấm dứt tại Rio Grande mà trải dài mãi tận xứ Mỹ xa xôi phương Bắc”.

Nhưng cũng gần đó, trong bài viết “Quê hương thứ hai”, Joself Kertes đã cho ta thấy một Canada hào sảng mở rộng vòng tay, một đất nước linh hoạt và dễ thích nghi. Cũng như Mỹ thuở ban đầu, Canada không có một lịch sử dân cư rõ ràng, và cũng vì thế, nó dễ chấp nhận một nền văn hóa đa bản sắc. Và những nạn dân hay kẻ trôi dạt chính lại là một trong những mảng màu làm phong phú thêm: họ góp màu da mình vào màu da chung, tiếng nói mình vào tiếng nói chung, và hơn hết, san sẻ ký ức mình thành ký ức chung. Những tín hiệu này đồng thời cho ta thấy vẫn còn đấy những bầu trời tươi sáng, chủ nghĩa bài xích dẫu sao vẫn chưa lan đến những nền dân chủ văn minh.

Kết

Ngô là loài C4, nghĩa là, chúng hấp thụ và khóa nhiều cacbon vào trong phân tử của mình hơn hẳn những loài thực vật C3 khác. Chính đặc điểm này làm nên vai trò chính yếu của nó trong nền công nghiệp thực phẩm hay trong những di chỉ tàn tích hóa thạch, khi đồng vị C13 chiếm một tỉ lệ chính yếu rất dễ nhận thấy; thì song song đó, người tị nạn hay kẻ ly hương cũng là giống loài kì lạ như thế. Nếu người Mexico được gọi là “người ngô” vì sự tôn sùng của họ vào loài cây này; thì mở rộng ra hơn, người Mexico tị nạn nói riêng hay những kẻ ly hương nói chung, họ cũng đồng thời mang trong mình những tính chất rất “ngô”: họ là những con người duy nhất mang trong mình cảm thức đau thương hay nỗi mặc cảm như những đồng vị đặc biệt. Họ hấp thụ nỗi đau nhiều hơn ai hết và làm nên con người mình độc lập như thế. Như Alexandar Hemon viết trong Mệnh trời:“Giản lược họ thành một đám đông vô diện mạo, xóa bỏ những câu chuyện của họ chính là tội ác chống lại loài người và lịch sử”, thì với cuốn sách này, câu chuyện của họ lại một lần nữa tập hợp tại đây như lời gói gọn gửi ra thế giới. Một võ đài của những nỗi niềm tị nạn.

Hết.

Ngô Thuận Phát


Xem tất cả những bài viết của Ngô Thuật Phát tại đây.


Tìm hiểu thêm về tác phẩm Kẻ ly hương


Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng