Phía sau trang sách

Đẹp là một nỗi đau: Khi “vùng trũng” đắp bồi

“Đám đàn bà tội nghiệp. Chống lại những nỗi đau không thể tránh khỏi là điều tồi tệ hơn bất cứ cái gì khác.”

Published

on

“Một buổi chiều cuối tuần tháng Ba, Dewi Ayu bước ra khỏi ngôi mộ của bà sau khi đã chết hai mươi mốt năm.

Trên là câu văn mở đầu của Đẹp là một nỗi đau: Ngờ ngợ một điều thân quen, lần ngược mở lại Juan Rulfo và câu mở đầu của nó cũng thế này: “Tôi tới làng Comala vì người ta bảo rằng cha tôi, một Pedro Páramo nào đó, đã từng sống ở đó.” Hai thế giới quan gặp nhau, hai cá tính gặp nhau; kẻ đi ra người đi vào nhưng cả hai đều bắt đầu bằng cái chết; và cũng như nhau, tử khí bắt đầu tỏa ra không gian của hai tiểu thuyết một màu hiện thực kỳ ảo.

*

Văn chương châu Á từ trước đến nay dường như vẫn là đứa con ngoài giá thú của dòng chảy văn chương đương đại. Lật lại những bài điểm cuối năm 2019 về 10 hay 100 cuốn sách hay nhất thập niên vừa qua, thì văn chương từ lục địa này vẫn luôn chiếm thiểu số (kể cả khi đã bao hàm các tác gia gốc Á). Tổng thể là thế, khi nhắc đến văn chương Đông Nam Á, bức màn chỉ càng trở nên mờ nhạt hơn khi luôn gắn với hai từ “vùng trũng”. Thế nhưng với Han Kang hay Eka Kurniawan, việc góp mặt hay chiến thẳng giải Man Booker International vừa qua đã cho thấy dấu hiệu của những khởi sắc tích cực. Và với Đẹp là một nỗi đau, Eka Kurniawan đã phần nào phơi bày được lịch sử Indonesia trải dài hơn 100 năm, mà trong đó chính những ngang trái tình yêu, phụ nữ, đàn bà, nhan sắc… làm nên thời loạn trong một phông nền mới lạ của hiện thực kỳ ảo.

Nhân vật chính của Đẹp là một nỗi đau là Dewi Ayu – cô gái hậu duệ cuối cùng của dòng họ Stampler – thực dân người Hà Lan. Khi Nhật tràn vào trước ngưỡng Đệ nhị thế chiến, cô bị bắt trở thành tù nhân và sau đó thành trò tiêu khiển cho bọn lính Nhật. Lịch sử qua đi và cô chứng kiến từ khi chiến tranh cho đến giải phóng. Dewi Ayu lớn lên trong lòng lịch sử; và đến lượt mình, lịch sử cũng đồng thời cựa dậy trong cô ở nơi âm đạo thiêng liêng. Cũng từ nơi đó, bốn người con gái ra đời, mỗi người đại diện cho một thời đoạn khác nhau khi được tạo tác từ những người cha khác nhau, đại diện cho những giai đoạn thống trị liên tiếp. Đến lượt mình, những cô gái ấy lần lượt kế thừa những khoái lạc ngổn ngang riêng mình và từ trong đó, lịch sử Indonesia hiện lên qua tầng tầng lớp lớp những rẽ nhánh chánh trị âm ỉ, sục sôi, bùng phát và rồi nổ tung.

Điều đầu tiên Eka Kurniawan đã làm rất tốt trong cuốn sách này có thể kể đến là đã tái hiện một cách hoàn hảo lịch sử theo hướng văn chương. Cốt truyện của Đẹp là một nỗi đau dường như không mới. Ta từng bắt gặp Mạc Ngôn trong Phong nhũ phì đồn cũng dùng câu chuyện về người phụ nữ sinh ra đến bảy người con, đến lượt mỗi một người họ tự hiến thân cho người đàn ông cũng là thủ lĩnh một phe chính trị, từ đó dựng lên bối cảnh của vùng Cao Mật chịu xâu xé từ Đức đến Nhật, từ Quốc dân Đảng đến Đảng Cộng Sản.

Nếu Thượng Quan Lỗ Thị sinh bảy người con thông qua những cuộc vụng trộm, thì Dewi Ayu sinh bốn người con từ nơi nhà thổ của má Kulong. Cả hai người họ trở thành mấu chốt của hai cốt truyện. Nếu Lỗ Thị chịu ách phong kiến phải sinh con trai, của chồng vũ phu của mẹ bạc nhược; thì Dewi Ayu là cảnh trở thành tội phạm chiến tranh, tự mình chống cự và rồi buông xuôi thành thứ tiêu khiển cho bọn lính Nhật. Hai người phụ nữ tuy sống cách nhau hai đầu Nam Bắc, thế nhưng ở hai người họ là mối tương quan không thể chối từ của một hạt giống châu Á – nơi phụ nữ rất ít giá trị và phải gồng mình để được tồn tại.

Tiếp tục là khi các cô con gái trở mình lớn lên, và mỗi người họ lại chọn cho mình một con đường riêng. Nếu Thượng Quan Lỗ Thị đã nhìn thấy trước tương lai các con, đã cố thử thách những tên thổ phỉ muốn lấy con mình bằng cách bắt hết số thỏ tưởng như không thể; thì cũng tương tự ở Dewi Ayu, là khi bà biết chính bởi sắc đẹp của chúng rồi sẽ trở thành hiểm nguy. Và khi Lỗ Thị đánh chết mẹ chồng dở dở ương ương để đèo các con vòng tránh chiến tranh; thì cùng lúc đó Dewi Ayu đã quyết định số phận của các con mình. Dễ thấy bà chọn lùi lại không ở gần họ vì không muốn họ lại lầm bước, trở thành nữ nhân tửu quán nơi má Kulong hằng tối bà đến – nơi một trăm bảy mươi hai người đàn ông đã đi vào bà, người già nhất chín mươi, đứa nhỏ nhất mười hai, một tuần sau lễ cắt bao quy đầu của nó.

Thế nhưng cuộc đời không như là mơ. Gia đình tứ tán mặc cho Lỗ Thị ra tay ngăn trở, Dewi Ayu cũng không gì hơn trước sự hoang dại của các con mình. Đến nỗi một câu bà tự ngẫm nghĩ: Đàn ông săn lùng cái ấy của mình, còn mình đẻ ra những đứa con gái săn lùng cái ấy của đàn ông. Cũng chính trong những ngã rẽ cuộc đời ấy, lịch sử của một Trung Quốc hay Indonesia đã được dựng lên vô cùng đậm màu. Nhưng cũng từ đây, hai người tỏa ra hai hướng khác nhau. Nếu Mạc Ngôn tiếp cận lịch sử chỉ theo cái nghĩa trực quan, thì Eka Kurniawan gắn kết lịch sử theo câu chuyện tình một cách văn chương đậm đặc huê tình.

Dễ thấy Phong nhũ phì đồn nhìn chung là một câu chuyện phản ánh lịch sử thông qua số phận của người đàn bà; thế nhưng với Đẹp là một nỗi đau, Eka Kurniawan đã khai thác được nhiều hơn thế. Có lẽ là điều dễ hiểu bởi những đặc trưng nơi quê nhà họ: Mạc Ngôn vốn bản thân là thành viên của Hội nhà văn Trung Quốc; ngay cả Phong nhũ phì đồn đắp chăn lên bờ xuống ruộng rất lâu mới được xuất bản thì việc không chứa một tính cá nhân nào âu cũng dễ đoán. Trong khi với Eka Kurniawan và thời đại của anh, tự do là cốt tử. Ở đây ta thấy, Phong nhũ phì đồn ẩn chứa trong mình sức mạnh của một dòng nước, nhưng bởi kiểm duyệt cũng như ngưỡng cửa hẹp của yếu tố chính trị, nó như đang bị bóp chẹt ở ngay đầu ra.

Tình yêu, phụ nữ, nhan sắc, tính dục… những yếu tố đậm chất huê tình làm nên Đẹp là một nỗi đau vừa huy hoàng lịch sử như thế, nhưng cũng riêng tư một bờ một cõi. Kết quả của bốn mối tình không hơn gì khác hai chữ “sầu muộn” để rồi trở thành mấu chốt cho nền lịch sử. Alamanda vì những khờ dại phải cưới Sodancho – người cô không yêu, kẻ đã cưỡng hiếp vợ mình đến mức cô chỉ mang thai một khối khí rỗng: Mất một đứa con còn kinh khủng hơn gặp một con quỷ, nhưng dành tình yêu của tôi cho ông còn kinh khủng hơn mất hai mươi đứa con. Trong khi đó, Adinda – cô gái đến với Kliwon không có gì hơn một sự thương hại. Còn với Maya Dewi, cô con gái út được Dewi Ayu quyết định gả đi khi chỉ 12 để ngừa tai họa, với lí lẽ rằng Chó lấy nhau lúc hai tuổi còn gà lấy nhau lúc tám tháng.

Eka Kurniawan bằng những yếu tố vô cùng châu Á – quan hệ huyết thống, bối cảnh lịch sử, yếu tố dân gian – đã xây nên Đẹp là một nỗi đau như một tinh cầu ẩn chứa tình yêu. Ở đó có đủ mọi thứ, từ nhan sắc cho đến xấu xí, từ tự hiến dâng đến căm hờn, từ yêu mãnh liệt đến những bội phản… cả một vũ trụ sắc thái tình yêu được anh dệt nên trong cuốn sách này, để rồi qua đó, tình yêu – khoái lạc không hơn gì khác con dao hai lưỡi: nó đưa người ta đến những đê mê nhưng cũng đồng thời dìm những người họ xuống vũng đau khổ. Và đẹp, như ba đứa con đầu, sẽ luôn đi cùng là những nỗi đau. Nhưng còn xấu xí? – Cũng không khác mấy. Đến cuối rồi thì chẳng phải sắc đẹp, mà chính tình yêu làm nên nỗi đau, một niềm dai dẳng.

*

Tình yêu trong nền lịch sử là hai mắt xích vô cùng phổ biến trong văn châu Á, và với Eka Kurniawan anh không đơn thuần chỉ dừng ở đấy. Nếu điểm đặc biệt thứ nhất là bối cảnh lịch sử diễn ra nơi âm hộ của tình yêu, thì điểm thứ hai – sáng nhất (nếu được gọi thế) – nằm trong một phong cách viết vô cùng mới lạ. Hiện thực kỳ ảo rõ ràng không phải là mới trong văn chương thế giới, nhưng với Đẹp là một nỗi đau, anh đã căn chỉnh hài hòa giữa cái kỳ ảo và chuyện tâm linh phảng phất Á Đông, làm nên những nét cân đối cho cuốn sách này.

Từ việc Dewi Ayu trở về từ mộ của bà sau ngần ấy năm đến việc Alamanda mang thai một khối không khí, từ chuyện công chúa mang thai với chó đến chuyện gọi hồn những jailangkung; Eka Kurniawan đã cho ta thấy những nét sáng tạo trong từng tình tiết. Một chút Márquez, một chút Latin; dường như anh đã chuyển dời ngôi làng Macondo nơi ấy trở thành vương quốc bất khả xâm nhập Halimunda, nơi câu chuyện nghiệt ngã kéo dài đến bảy đời người. Nếu Mạc Ngôn từng dùng hình tượng mông – vú khái quát lên đỉnh tâm tưởng trong đầu Kim Đồng; thì bằng tình yêu, bội phản, cái chết và những niềm đau; Eka Kurniawan đã xây nên một câu chuyện vô cùng bảng lảng và kỳ lạ. Ở đó tình yêu, khoái lạc, niềm đau, cái chết cách nhau rất gần, gần hơn rất nhiều những gì ta tưởng.

Nói thế không có nghĩa Đẹp là một nỗi đau không có điểm yếu. Thứ nhất về việc xây dựng hình tượng. Dewi Ayu dường như vô cùng phổ quát theo một motif các nhân vật chính của văn châu Á – đẹp, mạnh mẽ, tận hưởng khoái lạc, đấu tranh một cách không ngừng… Cô có tất cả những gì Chúa có: hoàn hảo, siêu thực, văn chương đến vô nghĩa lý. Thứ hai, Eka Kurniawan dường như nhồi nhét quá nhiều trong một cốt truyện dày đặc nhân vật trong suốt khoảng dài của nền lịch sử. Dẫu cho câu chuyện của anh với những dường dây vô cùng logic, thế nhưng với một mật độ quá dày không hề cân xứng, Đẹp là một nỗi đau dường như phơi ra một sự cố sức trong việc cân chỉnh nội dung – ngôn từ. Thế nhưng nhìn chung, vượt lên trên hết những điều quen thuộc, Đẹp là một nỗi đau xứng đáng là một tiểu thuyết rất đáng thử qua, và nhất là khi đã được bảo chứng bởi nhãn giải thưởng vô cùng uy tín.

Khép lại Đẹp là một nỗi đau, những phông nền lịch sử được viết ra trong ảnh hưởng của một Márquez vẫn còn ngồn ngộn âm vang trong này. Không ngoa khi nói một ngày nào đó khi bừng tỉnh dậy từ dưới nắm mồ như Dewi Ayu, đại văn hào người Colombia chắc sẽ ngạc nhiên khi biết ngôi làng Macondo của mình cuối cùng cũng đã sinh con đẻ cái, và một trong những hậu duệ lại ở Halimunda – nơi đất nước vạn đảo mà nền văn học từ lâu được xem như là vùng trũng – giống nhau, na ná, nhan nhản và đôi khi là quá mỏi mệt.

Hết.

Ngô Thuận Phát

Xem tất cả những bài viết của Ngô Thuật Phát tại đây.


Bài viết có liên quan

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Cafe sáng