Phía sau trang sách

Đẹp là một nỗi đau: Khi “vùng trũng” đắp bồi

“Đám đàn bà tội nghiệp. Chống lại những nỗi đau không thể tránh khỏi là điều tồi tệ hơn bất cứ cái gì khác.”

Published

on

“Một buổi chiều cuối tuần tháng Ba, Dewi Ayu bước ra khỏi ngôi mộ của bà sau khi đã chết hai mươi mốt năm.

Trên là câu văn mở đầu của Đẹp là một nỗi đau: Ngờ ngợ một điều thân quen, lần ngược mở lại Juan Rulfo và câu mở đầu của nó cũng thế này: “Tôi tới làng Comala vì người ta bảo rằng cha tôi, một Pedro Páramo nào đó, đã từng sống ở đó.” Hai thế giới quan gặp nhau, hai cá tính gặp nhau; kẻ đi ra người đi vào nhưng cả hai đều bắt đầu bằng cái chết; và cũng như nhau, tử khí bắt đầu tỏa ra không gian của hai tiểu thuyết một màu hiện thực kỳ ảo.

*

Văn chương châu Á từ trước đến nay dường như vẫn là đứa con ngoài giá thú của dòng chảy văn chương đương đại. Lật lại những bài điểm cuối năm 2019 về 10 hay 100 cuốn sách hay nhất thập niên vừa qua, thì văn chương từ lục địa này vẫn luôn chiếm thiểu số (kể cả khi đã bao hàm các tác gia gốc Á). Tổng thể là thế, khi nhắc đến văn chương Đông Nam Á, bức màn chỉ càng trở nên mờ nhạt hơn khi luôn gắn với hai từ “vùng trũng”. Thế nhưng với Han Kang hay Eka Kurniawan, việc góp mặt hay chiến thẳng giải Man Booker International vừa qua đã cho thấy dấu hiệu của những khởi sắc tích cực. Và với Đẹp là một nỗi đau, Eka Kurniawan đã phần nào phơi bày được lịch sử Indonesia trải dài hơn 100 năm, mà trong đó chính những ngang trái tình yêu, phụ nữ, đàn bà, nhan sắc… làm nên thời loạn trong một phông nền mới lạ của hiện thực kỳ ảo.

Nhân vật chính của Đẹp là một nỗi đau là Dewi Ayu – cô gái hậu duệ cuối cùng của dòng họ Stampler – thực dân người Hà Lan. Khi Nhật tràn vào trước ngưỡng Đệ nhị thế chiến, cô bị bắt trở thành tù nhân và sau đó thành trò tiêu khiển cho bọn lính Nhật. Lịch sử qua đi và cô chứng kiến từ khi chiến tranh cho đến giải phóng. Dewi Ayu lớn lên trong lòng lịch sử; và đến lượt mình, lịch sử cũng đồng thời cựa dậy trong cô ở nơi âm đạo thiêng liêng. Cũng từ nơi đó, bốn người con gái ra đời, mỗi người đại diện cho một thời đoạn khác nhau khi được tạo tác từ những người cha khác nhau, đại diện cho những giai đoạn thống trị liên tiếp. Đến lượt mình, những cô gái ấy lần lượt kế thừa những khoái lạc ngổn ngang riêng mình và từ trong đó, lịch sử Indonesia hiện lên qua tầng tầng lớp lớp những rẽ nhánh chánh trị âm ỉ, sục sôi, bùng phát và rồi nổ tung.

Điều đầu tiên Eka Kurniawan đã làm rất tốt trong cuốn sách này có thể kể đến là đã tái hiện một cách hoàn hảo lịch sử theo hướng văn chương. Cốt truyện của Đẹp là một nỗi đau dường như không mới. Ta từng bắt gặp Mạc Ngôn trong Phong nhũ phì đồn cũng dùng câu chuyện về người phụ nữ sinh ra đến bảy người con, đến lượt mỗi một người họ tự hiến thân cho người đàn ông cũng là thủ lĩnh một phe chính trị, từ đó dựng lên bối cảnh của vùng Cao Mật chịu xâu xé từ Đức đến Nhật, từ Quốc dân Đảng đến Đảng Cộng Sản.

Nếu Thượng Quan Lỗ Thị sinh bảy người con thông qua những cuộc vụng trộm, thì Dewi Ayu sinh bốn người con từ nơi nhà thổ của má Kulong. Cả hai người họ trở thành mấu chốt của hai cốt truyện. Nếu Lỗ Thị chịu ách phong kiến phải sinh con trai, của chồng vũ phu của mẹ bạc nhược; thì Dewi Ayu là cảnh trở thành tội phạm chiến tranh, tự mình chống cự và rồi buông xuôi thành thứ tiêu khiển cho bọn lính Nhật. Hai người phụ nữ tuy sống cách nhau hai đầu Nam Bắc, thế nhưng ở hai người họ là mối tương quan không thể chối từ của một hạt giống châu Á – nơi phụ nữ rất ít giá trị và phải gồng mình để được tồn tại.

Tiếp tục là khi các cô con gái trở mình lớn lên, và mỗi người họ lại chọn cho mình một con đường riêng. Nếu Thượng Quan Lỗ Thị đã nhìn thấy trước tương lai các con, đã cố thử thách những tên thổ phỉ muốn lấy con mình bằng cách bắt hết số thỏ tưởng như không thể; thì cũng tương tự ở Dewi Ayu, là khi bà biết chính bởi sắc đẹp của chúng rồi sẽ trở thành hiểm nguy. Và khi Lỗ Thị đánh chết mẹ chồng dở dở ương ương để đèo các con vòng tránh chiến tranh; thì cùng lúc đó Dewi Ayu đã quyết định số phận của các con mình. Dễ thấy bà chọn lùi lại không ở gần họ vì không muốn họ lại lầm bước, trở thành nữ nhân tửu quán nơi má Kulong hằng tối bà đến – nơi một trăm bảy mươi hai người đàn ông đã đi vào bà, người già nhất chín mươi, đứa nhỏ nhất mười hai, một tuần sau lễ cắt bao quy đầu của nó.

Thế nhưng cuộc đời không như là mơ. Gia đình tứ tán mặc cho Lỗ Thị ra tay ngăn trở, Dewi Ayu cũng không gì hơn trước sự hoang dại của các con mình. Đến nỗi một câu bà tự ngẫm nghĩ: Đàn ông săn lùng cái ấy của mình, còn mình đẻ ra những đứa con gái săn lùng cái ấy của đàn ông. Cũng chính trong những ngã rẽ cuộc đời ấy, lịch sử của một Trung Quốc hay Indonesia đã được dựng lên vô cùng đậm màu. Nhưng cũng từ đây, hai người tỏa ra hai hướng khác nhau. Nếu Mạc Ngôn tiếp cận lịch sử chỉ theo cái nghĩa trực quan, thì Eka Kurniawan gắn kết lịch sử theo câu chuyện tình một cách văn chương đậm đặc huê tình.

Dễ thấy Phong nhũ phì đồn nhìn chung là một câu chuyện phản ánh lịch sử thông qua số phận của người đàn bà; thế nhưng với Đẹp là một nỗi đau, Eka Kurniawan đã khai thác được nhiều hơn thế. Có lẽ là điều dễ hiểu bởi những đặc trưng nơi quê nhà họ: Mạc Ngôn vốn bản thân là thành viên của Hội nhà văn Trung Quốc; ngay cả Phong nhũ phì đồn đắp chăn lên bờ xuống ruộng rất lâu mới được xuất bản thì việc không chứa một tính cá nhân nào âu cũng dễ đoán. Trong khi với Eka Kurniawan và thời đại của anh, tự do là cốt tử. Ở đây ta thấy, Phong nhũ phì đồn ẩn chứa trong mình sức mạnh của một dòng nước, nhưng bởi kiểm duyệt cũng như ngưỡng cửa hẹp của yếu tố chính trị, nó như đang bị bóp chẹt ở ngay đầu ra.

Tình yêu, phụ nữ, nhan sắc, tính dục… những yếu tố đậm chất huê tình làm nên Đẹp là một nỗi đau vừa huy hoàng lịch sử như thế, nhưng cũng riêng tư một bờ một cõi. Kết quả của bốn mối tình không hơn gì khác hai chữ “sầu muộn” để rồi trở thành mấu chốt cho nền lịch sử. Alamanda vì những khờ dại phải cưới Sodancho – người cô không yêu, kẻ đã cưỡng hiếp vợ mình đến mức cô chỉ mang thai một khối khí rỗng: Mất một đứa con còn kinh khủng hơn gặp một con quỷ, nhưng dành tình yêu của tôi cho ông còn kinh khủng hơn mất hai mươi đứa con. Trong khi đó, Adinda – cô gái đến với Kliwon không có gì hơn một sự thương hại. Còn với Maya Dewi, cô con gái út được Dewi Ayu quyết định gả đi khi chỉ 12 để ngừa tai họa, với lí lẽ rằng Chó lấy nhau lúc hai tuổi còn gà lấy nhau lúc tám tháng.

Eka Kurniawan bằng những yếu tố vô cùng châu Á – quan hệ huyết thống, bối cảnh lịch sử, yếu tố dân gian – đã xây nên Đẹp là một nỗi đau như một tinh cầu ẩn chứa tình yêu. Ở đó có đủ mọi thứ, từ nhan sắc cho đến xấu xí, từ tự hiến dâng đến căm hờn, từ yêu mãnh liệt đến những bội phản… cả một vũ trụ sắc thái tình yêu được anh dệt nên trong cuốn sách này, để rồi qua đó, tình yêu – khoái lạc không hơn gì khác con dao hai lưỡi: nó đưa người ta đến những đê mê nhưng cũng đồng thời dìm những người họ xuống vũng đau khổ. Và đẹp, như ba đứa con đầu, sẽ luôn đi cùng là những nỗi đau. Nhưng còn xấu xí? – Cũng không khác mấy. Đến cuối rồi thì chẳng phải sắc đẹp, mà chính tình yêu làm nên nỗi đau, một niềm dai dẳng.

*

Tình yêu trong nền lịch sử là hai mắt xích vô cùng phổ biến trong văn châu Á, và với Eka Kurniawan anh không đơn thuần chỉ dừng ở đấy. Nếu điểm đặc biệt thứ nhất là bối cảnh lịch sử diễn ra nơi âm hộ của tình yêu, thì điểm thứ hai – sáng nhất (nếu được gọi thế) – nằm trong một phong cách viết vô cùng mới lạ. Hiện thực kỳ ảo rõ ràng không phải là mới trong văn chương thế giới, nhưng với Đẹp là một nỗi đau, anh đã căn chỉnh hài hòa giữa cái kỳ ảo và chuyện tâm linh phảng phất Á Đông, làm nên những nét cân đối cho cuốn sách này.

Từ việc Dewi Ayu trở về từ mộ của bà sau ngần ấy năm đến việc Alamanda mang thai một khối không khí, từ chuyện công chúa mang thai với chó đến chuyện gọi hồn những jailangkung; Eka Kurniawan đã cho ta thấy những nét sáng tạo trong từng tình tiết. Một chút Márquez, một chút Latin; dường như anh đã chuyển dời ngôi làng Macondo nơi ấy trở thành vương quốc bất khả xâm nhập Halimunda, nơi câu chuyện nghiệt ngã kéo dài đến bảy đời người. Nếu Mạc Ngôn từng dùng hình tượng mông – vú khái quát lên đỉnh tâm tưởng trong đầu Kim Đồng; thì bằng tình yêu, bội phản, cái chết và những niềm đau; Eka Kurniawan đã xây nên một câu chuyện vô cùng bảng lảng và kỳ lạ. Ở đó tình yêu, khoái lạc, niềm đau, cái chết cách nhau rất gần, gần hơn rất nhiều những gì ta tưởng.

Nói thế không có nghĩa Đẹp là một nỗi đau không có điểm yếu. Thứ nhất về việc xây dựng hình tượng. Dewi Ayu dường như vô cùng phổ quát theo một motif các nhân vật chính của văn châu Á – đẹp, mạnh mẽ, tận hưởng khoái lạc, đấu tranh một cách không ngừng… Cô có tất cả những gì Chúa có: hoàn hảo, siêu thực, văn chương đến vô nghĩa lý. Thứ hai, Eka Kurniawan dường như nhồi nhét quá nhiều trong một cốt truyện dày đặc nhân vật trong suốt khoảng dài của nền lịch sử. Dẫu cho câu chuyện của anh với những dường dây vô cùng logic, thế nhưng với một mật độ quá dày không hề cân xứng, Đẹp là một nỗi đau dường như phơi ra một sự cố sức trong việc cân chỉnh nội dung – ngôn từ. Thế nhưng nhìn chung, vượt lên trên hết những điều quen thuộc, Đẹp là một nỗi đau xứng đáng là một tiểu thuyết rất đáng thử qua, và nhất là khi đã được bảo chứng bởi nhãn giải thưởng vô cùng uy tín.

Khép lại Đẹp là một nỗi đau, những phông nền lịch sử được viết ra trong ảnh hưởng của một Márquez vẫn còn ngồn ngộn âm vang trong này. Không ngoa khi nói một ngày nào đó khi bừng tỉnh dậy từ dưới nắm mồ như Dewi Ayu, đại văn hào người Colombia chắc sẽ ngạc nhiên khi biết ngôi làng Macondo của mình cuối cùng cũng đã sinh con đẻ cái, và một trong những hậu duệ lại ở Halimunda – nơi đất nước vạn đảo mà nền văn học từ lâu được xem như là vùng trũng – giống nhau, na ná, nhan nhản và đôi khi là quá mỏi mệt.

Hết.

Ngô Thuận Phát

Xem tất cả những bài viết của Ngô Thuật Phát tại đây.


Bài viết có liên quan

Phía sau trang sách

Giải mã hạnh phúc: Khám phá nguồn gốc của niềm vui và sự hài lòng

Liệu có bí mật nào cho hạnh phúc? Đây là câu hỏi đã xuất hiện từ hàng thập kỷ trước, và nhiều triết gia, lãnh tụ tôn giáo cũng như nhà khoa học đã đưa ra câu trả lời của riêng họ. Nhưng liệu có thể dùng khoa học để giải mã sự mưu cầu hạnh phúc được không?

Published

on

Hãy cùng đến với “Giải mã hạnh phúc”. Đây là một giả thuyết được đưa ra bởi chuyên gia tâm lý Jonathan Haidt, cho rằng hạnh phúc đến từ những khao khát nội tâm và đồng thời cũng đến từ các yếu tố bên ngoài. Nói cách khác thì hạnh phúc vừa là “bẩm sinh”, vừa là “nuôi dưỡng”.

Cụ thể thì như vậy nghĩa là gì? Hãy cùng phân tích các thành phần tạo nên “Giải mã hạnh phúc”, cũng như cách ứng dụng chúng vào cuộc sống để tìm kiếm niềm vui và sự hài lòng.

Bẩm sinh

Yếu tố di truyền đóng một vai trò nhất định trong cảm nhận chung về hạnh phúc của chúng ta. Một số người sinh ra đã có cái nhìn lạc quan, trong khi những người khác có thể phải vật lộn với lo âu và trầm cảm. Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhớ là mặc dù di truyền có thể ảnh hưởng đến mức độ hạnh phúc cơ bản, nhưng chúng không phải là yếu tố quyết định duy nhất.

Nuôi dưỡng

Môi trường và trải nghiệm cũng định hình hạnh phúc, điều này  bao gồm các mối quan hệ, công việc và thậm chí cả cộng đồng nơi chúng ta sống. Bằng cách tạo ra một môi trường hỗ trợ và trọn vẹn, chúng ta có thể nuôi dưỡng hạnh phúc lớn hơn trong cuộc sống.

Cân bằng giữa mong muốn và hoàn cảnh: “Giải mã hạnh phúc” cho rằng chúng ta có thể tìm thấy hạnh phúc bằng cách cân bằng giữa mong muốn bên trong và hoàn cảnh bên ngoài. Ví dụ, nếu bạn có mong muốn mạnh mẽ về an ninh tài chính, có thể bạn cần tìm một công việc mang đến nguồn thu nhập ổn định. Mặt khác, nếu bạn có niềm đam mê sâu sắc với sự sáng tạo, việc theo đuổi một sự nghiệp cho phép niềm đam mê đó phát triển có thể quan trọng hơn.

Vậy, làm cách nào để áp dụng “Giải mã hạnh phúc” vào thực tiễn? Dưới đây là một vài mẹo giúp bạn tìm thấy niềm vui và sự hài lòng trong cuộc sống:

1. Xác định các giá trị của bản thân: Hiểu được điều gì thực sự quan trọng với bạn có thể giúp định hướng các quyết định và tạo ra một cuộc sống viên mãn hơn.

2. Nuôi dưỡng các mối quan hệ: Mối quan hệ bền chặt với gia đình và bạn bè có thể mang lại tình yêu thương, sự hỗ trợ và cảm giác được thuộc về.

3. Theo đuổi đam mê: Tham gia vào các hoạt động và sở thích mang lại niềm vui có thể làm tăng cảm giác hạnh phúc và hài lòng.

4. Thực hành lòng biết ơn: Dành thời gian để trân trọng những điều tốt đẹp trong cuộc sống, dù nhỏ bé, có thể làm tăng cảm giác hạnh phúc tổng thể của bạn.

5. Cho đi: Giúp đỡ người khác có thể mang lại ý nghĩa và sự trọn vẹn cho cuộc sống của chúng ta.

Jonathan Haidt là một nhà tâm lý học và nhà tâm lý học xã hội, nổi tiếng với các công trình nghiên cứu về tâm lý học đạo đức và tâm lý học tư tưởng chính trị. Ông là giáo sư ngành Lãnh đạo Đạo đức tại Trường Kinh doanh Stern thuộc Đại học New York, và đã xuất bản một số cuốn sách và nhiều bài báo nghiên cứu trong lĩnh vực tâm lý học.

Các công trình của Haidt thường tập trung vào ý tưởng rằng niềm tin và giá trị đạo đức của chúng ta được hình thành bởi nhiều yếu tố, bao gồm văn hóa, sự nuôi dạy và kinh nghiệm cá nhân. Ông lập luận rằng đạo đức không chỉ là vấn đề lý trí mà còn bị ảnh hưởng bởi cảm xúc và trực giác của chúng ta.

Một trong những đóng góp đáng chú ý nhất của Haidt cho lĩnh vực tâm lý học là mô hình “trực giác xã hội” về phán đoán đạo đức. Mô hình này cho rằng các phán đoán đạo đức thường dựa trên những đánh giá tự động, vô thức về các tình huống, thay vì lý luận có ý thức và có chủ ý. Công trình này thách thức quan điểm truyền thống cho rằng việc ra quyết định đạo đức là một quá trình hoàn toàn lý trí, và nhấn mạnh tầm quan trọng của cảm xúc và trực giác trong việc hình thành niềm tin đạo đức của chúng ta.

Nghiên cứu của Haidt cũng đã khám phá vai trò của đạo đức trong hệ tư tưởng chính trị, và ông đã chỉ ra rằng những người theo chủ nghĩa bảo thủ và tự do thường có nền tảng đạo đức khác nhau. Ví dụ, những người theo chủ nghĩa bảo thủ có xu hướng coi trọng các giá trị như lòng trung thành, quyền lực và sự thiêng liêng, trong khi những người theo chủ nghĩa tự do có xu hướng coi trọng sự công bằng và chăm sóc. Haidt lập luận rằng những khác biệt về đạo đức này đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình thái độ và hành vi chính trị.

Các công trình của Haidt đã được trích dẫn rộng rãi và nhận được nhiều giải thưởng, bao gồm Giải thưởng William James Fellow từ Hiệp hội Khoa học Tâm lý. Các cuốn sách của ông được ca ngợi vì dễ tiếp cận và chứa đựng những hiểu biết sâu sắc về tâm lý con người.

Nhìn chung, những đóng góp của Jonathan Haidt cho lĩnh vực tâm lý học đã làm sáng tỏ vai trò của đạo đức và cảm xúc trong việc định hình niềm tin và hành vi, đồng thời giúp mở rộng hiểu biết về sự phức tạp của tâm trí con người.

Tóm lại, “Giải mã hạnh phúc” nhắc nhở chúng ta rằng hạnh phúc là sự kết hợp của cả bẩm sinh và nuôi dưỡng. Bằng cách cân bằng những mong muốn bên trong với hoàn cảnh bên ngoài, chúng ta có thể tạo ra một cuộc sống viên mãn và vui vẻ hơn. Vậy nên, hãy thử kiểm chứng “Giải mã hạnh phúc” và xem liệu nó có khiến bạn hạnh phúc hơn không nhé!

Lam dịch từ MindfulMac

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Cafe sáng