Giới thiệu sách

Để hiểu vì sao Charles Dickens là một tên tuổi vĩ đại, chắc chắn hãy đọc “Hai Kinh Thành”

Người ta nói cứ mười người Anh Quốc biết đọc thì có một người đọc Charles Dickens và kể lại cho chín người khác cùng nghe.

Published

on

Chi tiết tác phẩm

Có lẽ không quá khi nhận xét rằng “nhà văn quốc dân” Charles Dickens chính là tiểu thuyết gia Anh nổi tiếng nhất mọi thời đại. Một bộ óc thiên tài, nỗ lực sáng tác miệt mài, nhiệt tâm với công chúng, lòng nhân ái bao la, tất cả đã hợp lực để đưa ông trở thành một hiện tượng văn chương sánh cùng thời đại. Trong số những tác phẩm để lại ảnh hưởng sâu rộng như Oliver Twist (1837), A Chrismas Carol (1843), Great Expectations (1861)… thì Hai Kinh Thành (A Tale of Two Cities1859) chính là tiểu thuyết mà nhà văn tự nhận hay nhất mình từng chắp bút. Đặt trong bối cảnh cuộc Cách mạng Pháp và Thời kỳ Khủng bố (Reign of Terror) cuối thế kỷ 18 loạn lạc, Hai Kinh Thành đã hé lộ những góc khuất nhập nhằng giữa lý tưởng ái quốc và lòng hận thù mù quáng, khám phá những mưu mô hận thù cộng sinh cùng tình yêu lý tưởng.

Charles Dickens sinh ra tại miền quê Portsmouth năm 1812 trong một gia đình tám anh chị em tương đối khá giả. Tuy nhiên lên mười hai tuổi, ông bị gửi vào công xưởng đóng giày sau khi cha ông bị giam giữ vì nợ nần chồng chất. Điều kiện lao động khổ nhọc, cộng thêm thái độ hờ hững từ phía cha mẹ đã khắc sâu những năm tháng đen tối trong tâm trí cậu bé non nớt: “Không gì có thể diễn tả nỗi khổ tâm thầm kín của tôi… cảm giác bị bỏ mặc và tuyệt vọng hoàn toàn; nỗi nhục nhã tôi cảm thấy khi ở vị trí ấy… Toàn bộ bản tính của tôi bị sầu đau và bẽ bàng xuyên thủng.” Tuy vậy chính khoảng thời gian đó đã mài giũa trong ông một lòng bền gan trì chí, với “ý thức rằng mọi sự đều khả thi bằng quyết tâm bền bỉ”; đồng thời làm nảy sinh những quan điểm sắc sảo về công bình và cải cách xã hội, xương sống cho văn nghiệp của ông sau này.

Khởi nghiệp với nghề viết báo, Charles Dickens đã có cơ hội xuất bản các tiểu thuyết đầu tay của mình dưới dạng nhiều kỳ trên tạp chí khi ông hơn hai mươi tuổi. Hoạt động phát hành này đã giúp ông tiếp cận một lượng độc giả lớn chưa từng thấy – đưa lại khả năng tác động và truyền cảm hứng mạnh mẽ không ai sánh bằng. Về phương diện này, ông không đơn thuần là một nhà văn mà còn trở thành một nhân vật công chúng. Các tiểu thuyết của Dickens khéo léo đáp ứng thị hiếu đa dạng của độc giả, liên tục được tái dựng cốt truyện và nhân vật theo tâm tư phản hồi của người đọc. Không mưu cầu ngược dòng, phá cách, ông là người “chiều chuộng đám đông”; ấy thế mà trong tất cả những tác gia Anh Charles Dickens vẫn được mệnh danh là “the inimitable – người không thể bắt chước.”

Không phải ngoại lệ, Hai Kinh Thành cũng được in thành từng hồi trên tuần san All The Year Round do Dickens chủ biên trong vòng nhiều tháng. Xoay quanh số phận của hai cha con bác sĩ Manette gắn liền với hai người đàn ông Sydney Carton và Charles Darnay trải dài khắp London và Paris cuối thế kỷ 18, Hai Kinh Thành là một thiên truyện tuy đồ sộ nhưng có tốc độ dồn dập, kịch tính, cấu thành bởi liên tiếp các biến cố. Bằng việc phát hành dàn trải, nhà văn có cơ hội lắng nghe và tiếp thu cảm nhận của thời cuộc, cho phép độc giả có tiếng nói đối với diễn tiến câu chuyện. Như tác giả John Forster của cuốn tiểu sử The Life of Charles Dickens đã nhận xét: “Dickens cho các nhân vật của ông sự sống, không phải bằng cách miêu tả họ mà cho phép họ miêu tả chính mình.”

Để tăng độ đáng tin cậy cho cuốn tiểu thuyết lịch sử thứ hai từng sáng tác, Charles Dickens chủ yếu tham chiếu trên tác phẩm The French Revolution: A history của nhà sử học Thomas Carlyle, người có tầm quan trọng rất lớn đối với các diễn biến lịch sử thực tế và tạo hình nhân vật trong Hai Kinh Thành; cũng như tham khảo “hai thùng các tông sách từ Thư viện London.” Cùng với bàn tay tạo tác thiên tài, cuộc Cách mạng Pháp hiện lên dưới ngòi bút Charles Dickens thật sống động như ghim thẳng vào tâm trí người đọc. Ai có thể quên cảnh lầm than của khu phố Saint Antoine: “Ở mọi góc đường, ra vào mọi ngưỡng cửa, đứng trong mọi cửa sổ, quấn mình bằng mọi thứ áo xống rách rưới phần phật trong gió, là những con người đã bị xay nghiền, tán nhừ trong cỗ máy bần cùng. Cái cỗ máy đã nhào nặn họ là cỗ máy biến người trẻ thành già; lũ nhi đồng có bộ mặt lão niên và giọng nói nghiêm trọng; và trên mọi gương mặt trẻ con lẫn người lớn, hằn sâu trên những nếp nhăn tuổi tác, đều lồ lộ một dấu hiệu: Đói.”

Trái ngược với nỗi bần cùng này là sự xa hoa ngạo ngược của giới quý tộc. Chúa công Monseigneur không thể uống sô-cô-la cho trôi họng nếu không có sự trợ giúp của bốn người hầu. Đám bác sĩ làm giàu nhờ kê đủ thứ thuốc đắt giá cho những căn bệnh tưởng tượng không hề có thật.  Đám quân sư mách nước không phát minh được giải pháp làm việc nghiêm túc để tiệt trừ một căn nguyên nào trong những chuyện nan giải của quốc gia.  Đám triết gia vô đạo muốn cải tổ thế giới bằng mồm và dùng lá bài xây tháp chống trời tán chuyện… Đỉnh điểm là việc xe ngựa của ngài Hầu tước Marquis sau khi vô tình cán chết đứa bé một người nông dân, ngài chỉ hờ hững thảy một đồng tiền vàng và nói: “Ta rất lấy làm lạ, lũ dân chúng các ngươi không biết lo thân và lo cho con cái. Lũ bay không đứa này thì đứa khác cứ mãi cản đường ta. Không biết lũ bay có gây thương tích gì cho mấy con ngựa của ta không.”(!)

Những kẻ như Marquis đã gieo gió gặt bão, lòng hận thù sục sôi của công dân Pháp quốc đã đạt đến điểm tới hạn và kết cục là sự kiện tấn công ngục Bastille, mở màn cho cuộc trả thù cuồng loạn sôi máu hận khắp thành Paris. Nhưng chính tại thời điểm này, lòng cảm thông với giới cơ hàn của Charles Dickens đã xói mòn rất nhanh và thay vào đó là một tâm trạng bàng hoàng ghê rợn. Cái máy chém, biểu tượng của nền Cộng hòa, không một ngày nào khô máu, nó tự động hóa việc lấy mạng, rẻ rúng hóa sinh mệnh con người, nó là hiện thân chuẩn xác của cụm từ “hay là Chết” mà Dickens đã thêm vào khẩu hiệu của Nền Cộng Hòa Hợp Nhất Bất Khả Phân Ly: Tự do, Bình đẳng, Bác ái, hay là Chết. Bên cạnh đó, không thể không nhắc đến hình tượng ám ảnh “bánh xe đá mài” dùng để mài khí giới: Bánh xe đá mài đang được quay điên cuồng bởi hai người đàn ông; vòng quay dữ dội hất ngược mái tóc dài của họ ra sau phơi bày hai bộ mặt tàn bạo và khủng khiếp hơn cả phường man di mọi rợ. Trong lúc đó mấy người đàn bà nâng cốc rượu kề môi hai tên này cho chúng uống; rượu giọt đỏ như vang, rượu giọt đỏ như huyết, thêm dòng tia lửa bắn ra từ phiến đá mài, khiến cả không gian hung ác này như tràn trề máu lửa.”

Tuổi thơ nghèo khó đã hình thành trong Charles Dickens những mầm mống đầu tiên về công bình xã hội, nhưng với ông bình đẳng không phải là luôn ủng hộ tầng lớp cơ hàn. Dickens lên án giới quý tộc tàn ngược nhưng đồng thời cũng phê phán những nhà cách mạng khát máu. Ông cảm thông với người nghèo khi bị người giàu chà đạp và ông cảm thông với người giàu vô tội khi bị người nghèo đẩy lên đoạn đầu đài: Cứ đập bẹp nhân tính một lần nữa thì lập tức nó sẽ oằn oại sinh sôi ngay dưới nhát búa trong cùng hình thù đã bị biến dạng méo mó đó. Cứ gieo xuống cũng một thứ hạt giống đặc quyền tham tàn và bạo ngược thì nhất định nó sẽ mọc ra thứ trái quả tương tự. Charles Dickens chống lại mọi hình thức áp bức ở bất kỳ đâu, bất kỳ lúc nào và ông cũng nhìn thấy trước kết cục chung quyết cho những kẻ áp bức: “tất cả rồi sẽ đều bỏ mạng dưới cỗ máy trừng phạt này trước khi nó bị loại bỏ không còn dùng tới”. Nhưng Dickens chưa bao giờ là một người yếm thế bi quan. Trong một câu chuyện bị bao trùm bởi vô vàn mảng tối, mảng tối của đêm đen, của ngục tù, của mưu hèn kế bẩn, người ta lại thấy rực rỡ hơn hết ánh sáng đến từ tấm lòng của Lucie Manette, hành động hi sinh của Sydney Carton, hay thậm chí những lời nguyện cầu nhỏ bé của bà vợ Jerry Cruncher. Tất cả những điều đó đều quý báu hơn địa vị cao sang hay lý tưởng mù quáng, vì cuộc cách mạng của tình yêu thương mới là cuộc cách mạng vĩ đại và hào hùng hơn tất thảy.

Quan trọng hơn, Charles Dickens không chỉ đơn thuần dạy chúng ta phê phán những kẻ ác tâm mà còn phải nhìn thấu những động cơ rất người ẩn sâu trong họ. Trong tuyến phản diện của Hai Kinh Thành nổi lên một nhân vật phức tạp  đa diện đầy ấn tượng mà thông qua đó Dickens đã chuyển tải thông điệp này. Là Công dân tận tụy của nền Cộng hòa, mụ vợ Defarge áp dụng kĩ thuật đan len điêu luyện để mã hóa tên của những kẻ quý tộc mà mụ muốn đưa lên máy chém. Ta dễ dàng cảm thông với người cha ám sát gã Chúa công đã cán chết con mình, thương hại bác sĩ Manette bị tống vào ngục Bastille vì dũng cảm đứng lên tố cáo hai anh em Hầu tước. Nhưng ta cũng có thể hoàn toàn thấu hiểu tham vọng cháy bỏng của mụ Defarge là xóa sổ dòng họ đã giáng họa lên gia đình mụ.Cả đời chúng ta chỉ toàn thấy chị em phụ nữ khổ sở thôi, con cái họ cũng khổ sở, toàn nghèo đói, rách rưới, đói khát, đau ốm, cơ cực, áp bức và bị bỏ mặc đủ kiểu thôi mà?” Defarge là sản phẩm và cũng là nạn nhân của bàn tay thế cuộc: thời loạn nhồi nhét vào đầu mụ đầy ý thức về sự bất công và lòng hận thù giai cấp đậm sâu, nhào nặn mụ thành loài hổ dữ sắt đá; nhưng đồng thời cũng triệt tiêu trong mụ lòng xót thương, dù là xót thương cho chính mình. Cũng vì những lý do ấy mà nhân vật này từng được bầu chọn là một trong năm tạo tác xuất sắc nhất của Charles Dickens, đồng thời cũng nằm trong số nhân vật phản diện bất hủ trong lịch sử văn học.

Tinh túy trong câu chữ, sắc bén trong hình ảnh, chan chứa trong ý nghĩa, Hai Kinh Thành là thiên truyện đau thương nhưng đầy tình người, vén màn cho bao thế hệ độc giả không chỉ những sự kiện chính trị xã hội đẫm máu mà còn cả những biến cố trọng đại của bao kiếp người phía sau. Để hiểu thêm những góc khuất của một giai đoạn lịch sử loạn lạc, hãy đọc Hai Kinh Thành; để đồng cảm cùng những kiếp người khổ nạn, hãy đọc Hai Kinh Thành; để hiểu vì sao Charles Dickens là một tên tuổi vĩ đại, chắc chắn hãy đọc Hai Kinh Thành.

Vĩnh Ngân

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Giới thiệu sách

Mono no aware và tinh thần Phật giáo: Cái đẹp của sự tàn phai trong văn học Nhật Bản

Published

on

Trong không gian văn hóa Nhật Bản, hiếm có khái niệm nào lại thấm đẫm linh hồn dân tộc như mono no aware – cảm xúc mẫn cảm trước vẻ đẹp mong manh của vạn vật, và sự buồn bã dịu dàng trước sự tàn phai không tránh khỏi. Nhưng điều đáng chú ý là ẩn sau cảm xúc mang tính thẩm mỹ ấy lại là một cái nhìn rất gần với tinh thần Phật giáo – nơi mọi vật đều là vô thường, là khổ, là vô ngã. Tinh thần này không chỉ xuất hiện trong thơ cổ hay nghệ thuật truyền thống, mà còn hiện diện sâu sắc trong những tác phẩm văn học hiện đại – đặc biệt là nơi những nhà văn sống vào thời đại rối loạn như Dazai Osamu, Mori Ōgai hay Higuchi Ichiyō.

Trong bài viết này, Bookish sẽ đi sâu phân tích năm tác phẩm: Thất lạc cõi người, Tà dương, Nữ sinh (Dazai Osamu), Nhạn (Mori Ōgai), và Một mùa thơ dại (Higuchi Ichiyō) – để thấy rõ cách mà mono no aware hòa quyện với tinh thần Phật giáo, trở thành một kiểu thức mỹ học mang chiều sâu triết lý, không phải của sự tuyệt vọng, mà là của cái nhìn tỉnh thức trước lẽ vô thường của đời người.

Mono no aware – từ mỹ học đến minh triết

Trước hết, cần hiểu mono no aware không chỉ là một cảm thức thẩm mỹ, mà còn là một lối nhìn thế giới. Nó xuất phát từ việc ý thức được rằng mọi vật đều sẽ tàn phai, và từ đó khơi lên một cảm xúc buồn dịu, mềm mại, nhưng không hề bi lụy. Đây cũng chính là một biểu hiện văn hóa của tư tưởng vô thường (anicca) trong Phật giáo – rằng mọi hiện tượng đều sinh diệt, không gì trường cửu. Nhưng khác với thái độ tiêu cực hoặc trốn chạy, mono no aware khuyến khích con người chấp nhận, yêu thương, và sống sâu sắc trong khoảnh khắc hiện tại.

Chính vì thế, khi phân tích những nhân vật văn học chìm đắm trong u hoài, cô đơn, hoặc cảm giác tách biệt với thế giới, ta không nên vội gán cho họ một màu sắc bi quan tuyệt đối. Trái lại, trong sự đổ vỡ và tha hóa ấy, vẫn có những khoảnh khắc tỉnh thức, nơi cái đẹp của sự sống lặng lẽ hiện ra, dù chỉ trong một khoảnh khắc phù du.

Dazai Osamu – Trong cái chết là sự thấu hiểu cuộc sống

1. Thất lạc cõi người – Khi “vô thường” trở thành định mệnh

Nhân vật Yozo trong Thất lạc cõi người là hiện thân của một linh hồn lạc lối, sống giữa lo sợ bị phơi bày và khát vọng được yêu thương. Cuộc đời của Yozo như một chuỗi tan rã kéo dài – từ sự giả vờ vui tươi, đến những lần tự tử thất bại, đến cảnh cuối cùng bị tống vào nhà thương điên. Nhưng chính trong sự tan rã ấy, cái nhìn mono no aware hiện ra một cách rõ rệt: sự chấp nhận rằng Yozo không thể “hòa nhập” không phải là một lời phán xét, mà là một cách Dazai cho nhân vật được tồn tại đúng như bản thể mong manh của mình.

Câu văn nổi tiếng: “Bây giờ tôi đã trở thành một con người mất quyền làm người” không chỉ là lời tuyệt vọng, mà còn là một sự tỉnh thức. Yozo – kẻ đã chạm đáy cuộc đời – cuối cùng lại là người thấu hiểu rõ nhất bản chất vô thường, vô ngã của nhân dạng. Anh là kẻ nhìn thấu sự rỗng không trong cấu trúc xã hội, đạo đức, nhân cách. Dazai không tô điểm, không rao giảng, chỉ để nhân vật tồn tại trong đổ vỡ, và chính ở đó mà ý niệm Phật giáo được vang lên như một dư âm lặng lẽ: cái tôi không thực có, và khổ đau là lẽ tự nhiên.

2. Tà dương – Cái đẹp cuối cùng trong tàn phai

Mono no aware trong Tà dương không nằm ở cốt truyện, mà ở giọng văn – một thứ u buồn chảy như ánh chiều tà. Gia đình quý tộc đang tàn lụi dần, mẹ mất, em trai trượt dốc vì chủ nghĩa hư vô, còn Kazuko - người con gái – cố vùng vẫy để tự mình sống. Nhưng trong tất cả, Dazai vẫn dành những khoảnh khắc đầy thi vị: ánh nắng cuối chiều, một bông hoa quỳnh nở lúc đêm khuya, một mảnh thư gửi tình nhân trong hy vọng mong manh.

Những chi tiết ấy – như một đóa hoa nở rộ ngay trước khi tàn – chính là hình ảnh tiêu biểu cho tinh thần mono no aware. Chúng không phủ nhận đau khổ, nhưng cũng không để nó che khuất hoàn toàn cái đẹp của kiếp người. Dazai, trong Tà dương, chạm gần hơn với từ bi và vô thường của Phật giáo: con người yếu đuối, nhưng cũng vì thế mà họ trở nên đáng yêu, đáng thương, và đáng được cứu chuộc.

3. Nữ sinh – Ý thức nữ tính và khoảnh khắc hiện tại

Khác với hai tiểu thuyết trên, Nữ sinh là một dạng nhật ký văn học, ghi lại những cảm xúc vụn vặt, rất nữ tính, của một cô gái tuổi mới lớn. Nhưng chính trong cái vụn vặt ấy lại hiện ra tinh thần mono no aware một cách rõ ràng: mỗi buổi sáng đi học, mỗi lần mưa rơi, mỗi cơn gió nhẹ thổi qua, đều được cô gái ghi lại như một điều thiêng liêng.

Cô gái trong Nữ sinh không hiểu được cuộc đời, không lý giải được bản thân, nhưng cô cảm nhận được cái đẹp trong hiện tại. Những điều cô viết ra không để phân tích, mà để giữ lại khoảnh khắc – một kiểu hành động rất gần với thiền quán (mindfulness). Ở đây, ta thấy tinh thần Phật giáo không còn là lý thuyết, mà là cảm nhận trực tiếp từ chính thân - tâm con người – điều mà Dazai đã diễn đạt một cách tự nhiên, không cần gượng ép.

Mori Ōgai – Cái nhìn tĩnh lặng trước chia lìa

Nhạn – Một cánh chim lặng lẽ giữa kiếp người

Nhạn là truyện ngắn kể về Otama – một phụ nữ trẻ, làm lẽ cho một người đàn ông giàu có, sống trong cô đơn. Nàng đem lòng yêu Okada, một sinh viên nghèo trọ gần nhà, nhưng tình cảm đó lặng lẽ, tuyệt vọng, và rồi lụi tàn khi Okada rời đi. Không có bi kịch ầm ĩ, không có xung đột gay gắt – chỉ là một cái nhìn lặng lẽ về một mối tình không thành.

Tựa đề “Nhạn” – loài chim di cư – là một ẩn dụ hoàn hảo cho tinh thần mono no aware: con chim đến rồi đi, tình cảm đến rồi tàn, tất cả chỉ như cơn gió thoảng. Nhưng điều khiến Nhạn gần với Phật giáo là thái độ của Otama: nàng không oán trách, không níu kéo, mà chấp nhận trong tĩnh lặng. Nàng không được “giải thoát” theo nghĩa tôn giáo, nhưng lại thể hiện một phẩm chất từ bi – biết yêu mà không chiếm hữu, biết đau mà không gây khổ cho ai.

Giọng văn của Mori Ōgai tiết chế đến mức cực độ, gần như thiền định – không để cảm xúc tràn lấp câu chữ. Chính sự tiết chế ấy làm tăng hiệu ứng aware: cảm giác xót xa vì những gì không thể nói ra, không thể giữ lại, chỉ còn ngân vọng như tiếng nhạn bay qua bầu trời vắng.

Higuchi Ichiyō – Cái đẹp của tuổi thơ và sự trượt dốc

Một mùa thơ dại – Trẻ thơ cũng biết buồn

Tác phẩm của Higuchi Ichiyō thường xoay quanh những thiếu nữ nghèo, sống ở rìa xã hội, giữa thời kỳ Minh Trị chuyển giao. Trong Một mùa thơ dại, nhân vật Nobu – một cô bé mới lớn – bắt đầu cảm nhận những rung động đầu đời, những đau khổ mơ hồ, và sự chia lìa mà chính cô cũng chưa hiểu rõ.

Ichiyō không miêu tả những bi kịch lớn, mà dừng lại ở những cảm xúc thoảng qua: một lần bị mẹ trách oan, một lần nhìn bạn thân xa cách, một lần đứng dưới mưa không biết vì sao mình khóc. Những tình tiết ấy nhỏ bé, nhưng lại mang đậm tinh thần mono no aware, vì chúng nắm bắt được sự trượt nhẹ của tâm hồn – từ vô tư đến hoài nghi, từ thơ dại đến tổn thương.

Phật giáo hiện diện nơi đây như một bóng mờ: không phải là giáo lý, mà là sự thức tỉnh về bản chất khổ đau của đời người, bắt đầu từ rất sớm. Nhưng Ichiyō không viết để than vãn – bà viết để giữ lại những khoảnh khắc đó, như thể nếu ta chăm chú nhìn đủ lâu, ta sẽ thấy được cái đẹp dịu dàng trong cả những giây phút buồn nhất.

Khi văn học là thiền quán

Từ những tác phẩm kể trên, ta có thể nhận thấy rằng mono no aware không chỉ là một thái độ thẩm mỹ, mà còn là một lối sống, một cách nhìn thế giới – rất gần với tinh thần Phật giáo. Nó không biện hộ cho sự yếu đuối hay khổ đau, mà chỉ đơn giản nói rằng: đời là vậy – và nếu ta đủ tinh tế, ta có thể thấy được vẻ đẹp ngay cả trong sự mất mát.

Cả Dazai, Mori Ōgai, lẫn Ichiyō đều không giảng đạo, không kêu gọi vượt thoát, mà để nhân vật của họ ở lại trong cõi khổ, và chính trong sự ở lại ấy mà hiện ra vẻ đẹp nhân văn sâu xa. Họ không cho ta con đường giải thoát, nhưng cho ta cái nhìn biết thương – biết xót xa, biết im lặng, biết yêu những gì đang tàn phai.

Và đó chính là lý do vì sao văn học Nhật Bản – dù viết về những điều nhỏ bé, vụn vặt, thậm chí là tuyệt vọng – vẫn khiến người đọc thấy được một niềm an ủi mơ hồ: vì cái khổ đã được thấu hiểu, và cái đẹp vẫn còn trong từng hơi thở cuối cùng.

Hải Đăng

Đọc bài viết

Giới thiệu sách

Ngõ hồn hoang và dấu địa đàng trong tác phẩm “Chiếc Cặp” của Hiromi Kawakami

Published

on

Gửi Sài Gòn những tháng năm tuổi trẻ…

Hiromi Kawakami hẳn là một cái tên chưa mấy quen thuộc với độc giả Việt Nam. Ngoài một truyện ngắn “Chuột chũi” được dịch và giới thiệu trong tuyển tập truyện ngắn Nhật Bản hiện đại “Trăng cười”(*) thì hầu như không còn gì nữa. Nhắc đến văn học Nhật Bản, người ta chỉ nhớ đến Akutagawa Ryunosuke, Kawabata Yasunari, Dazai Osamu, Mishima Yukio và các tác giả hiện đại khác như Murakami Haruki, Murakami Ryu và Yoshimoto Banana… mà thôi. Điều đó thật là đáng tiếc vì Nhật Bản còn rất nhiều các nhà văn xuất sắc, đặc biệt là các nhà văn nữ mà một trong số đó là Hiromi Kawakami.

(*) Tuyển tập truyện ngắn Nhật Bản hiện đại, Nhiều tác giả, Hoàng Long tuyển chọn và dịch, Nxb Văn học và Công ty sách Phương Nam, 2016

Chân dung nhà văn Hiromi Kawakami

Trong các nhà văn nữ Nhật Bản hiện đại, chúng ta thấy cả Banana và Kawakami đều tinh tế dịu dàng và sắc sảo. Và chủ đề chính của hai tác gia này cũng là về tình yêu và nỗi cô đơn. Tuy đôi khi Kawakami lại viết về thân phận con người dưới góc nhìn khác khiến ta liên tưởng đến Kafka.

Như truyện “Chuột chũi” của nàng khiến ta nhớ đến “Hang ổ” của Kafka vậy. Lấy góc nhìn từ một con chuột đi thu lượm những con người vô dụng mất hết sức sống về hang ổ của mình, truyện tràn ngập yếu tố huyễn tưởng để mỉa mai về cuộc sống và bản chất con người. Nếu nói rằng nghệ thuật “dĩ huyễn độ chân” thì truyện ngắn này đã thực hiện được điều này gần như hoàn hảo. Qua góc nhìn của loài chuột chũi, loài người mới kỳ lạ, nhỏ bé, đáng thương, thường mất đi khí lực sống và sẵn sàng tự sát bất cứ lúc nào. Nhà văn nữ Rieko Matsuura đã nhận xét về tác phẩm của Kawakami:“Với Hiromi Kawakami, thế giới thường nhật diễn ra trơn trụi và buồn tẻ, nhưng nó sẵn sàng chuyển hóa tức khắc thành một thế giới khác, nơi mà con người trở thành những con vật, bị ám ảnh bởi sự gia tăng số lượng những kẻ đến sau, chúng ta có thể ví von đó như là một dạng âm bản của ”Alice ở xứ sở diệu kỳ”. Sự huyễn tưởng được đẩy lên tối đa bằng tất cả những yếu tố của cuốn truyện, từ kết cấu cho tới phong cách, từ những phép ẩn dụ cho tới kỹ thuật sử dụng các ký tự. Tất cả đều được lựa chọn một cách tỷ mỷ và tinh tế”. (*)

(*) Rieko Matsuura, Các nhà văn nữ Nhật Bản, một cuộc đảo chiều tinh tế, Dương Thắng dịch.

Tuy ít được độc giả Việt Nam biết đến nhưng Kawakami rất nổi tiếng, không chỉ riêng ở Nhật Bản. Nàng nhận được cả giải thưởng văn học Akutagawa và Tanizaki. Tác phẩm của nàng được dựng thành phim và được dịch ra mười lăm ngôn ngữ trên thế giới.

Chiếc cặp” là quyển tiểu thuyết đầu tiên của Hiromi được dịch ra Việt ngữ (*). Không như các tác phẩm huyễn tưởng khác của Kawakami, “Chiếc cặp” viết về đời sống thường nhật. Tác phẩm này đạt giải Tanizaki năm 2001.

(*) Hiromi Kawakami, Chiếc cặp, Bảo Khanh dịch, Nxb Phụ nữ, 2019.

Một câu chuyện tình của hai người không còn trẻ

Chiếc cặp” là chuyện tình giữa hai người trung niên, giữa thầy và trò. Một “Vòng tay học trò” phiên bản nữ. Các chương sách đặt như thơ gợi nhớ đến kiệt tác “Tiếng rền của núi”, “Ngàn cánh hạc” của Kawabata. Những tựa đề của các chương sách như “Thưởng hoa”, “Hái nấm”, “Chớp xuân”, “Trên đảo”, “Bãi bùn và giấc mơ kỳ lạ”…thơ mộng như những bài haiku và còn rất nhiều những bài haiku xen lẫn khiến ta tưởng mình lạc vào một không gian xa xưa nhưng vẫn giữ được tâm tình hiện đại. Sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại luôn là điểm mạnh của người Nhật Bản. “Mặt trăng và những viên pin”. Đó là chương mở đầu tác phẩm. Tsukiko, ba mươi bảy tuổi tình cờ gặp lại người thầy dạy mình môn ngữ văn thời trung học tại một quán rượu quen. Khi được thầy mời về nhà, Tsukiko phát hiện thầy có một sở thích kỳ lạ, sưu tầm những viên pin cũ. Hay đúng hơn là không nỡ vứt đi. Những viên pin còn chút ít năng lượng cuối cùng, lóe lên khi dùng máy thử. “Dấu hiệu bé nhỏ nhất của sự sống”, dù cuối cùng “chúng cũng tê liệt cả thôi”. Cũng như khởi đầu mối tình với Tsukiko là năng lượng sống cuối cùng của Sensei (先生), tức là “tiên sinh”, tên gọi kính trọng dành cho người lớn tuổi hay giáo viên của mình. Như chiếc que diêm một lần thắp sáng trong đêm, nuôi dài thêm chút tin yêu rồi cuối cùng tịch liêu chìm khuất nhưng cũng đủ mang theo chút hành trang kỷ niệm của đoạn đường cuối cùng.

Cả truyện là những cơn say. Ta đều biết là say tình. Nhưng Kawakami không nhắc đến điều đó. Cả Tsukiko là Sensei cũng không bao giờ thừa nhận về tình yêu dành cho nhau đến tận phút cuối cùng. “Tiếng yêu chưa lần nói mà đường yêu chân đã bước vào rồi” (Trúc Phương). Kawakami chỉ viết về những cơn say rượu. Không gian hẹn hò kéo dài từ quán bar này đến quán rượu kia. Dường như hai nhân vật chính lúc nào cũng phảng phất men say. Vì ai cũng biết đây chỉ là những khoảnh khắc ngắn ngủi và có thể luôn là lần cuối cùng. Đối với Sensei mà nói, tâm tình của ông thật giống một câu nhạc của Trúc Phương “Ta bước chậm vào đường yêu, nên hay ưu tư thật nhiều, đôi khi hỏi lòng chuyện lâu dài yêu có vui không, mình cho nhau thời gian trắng đó, buồn hay vui đời xui bất chợt đâu ngờ”. Thời gian xin dành cho em trong cơn say, xin gục ngã dưới lớp rêu ngà huyền hoặc của ái tình. Và qua đó những tinh tế trong văn hóa ẩm thực của người Nhật được khắc họa lên rõ nét. Chúng ta biết rằng nấm Nhật ngon nhất không phải chỉ có matsutake mà còn có nấm iguchi vị khá mặn hay nấm shimeji murasaki có thể nướng ngay tại chỗ và thưởng thức. Tất nhiên rồi, cùng với rượu sake.

Tiểu thuyết, hay nói đơn giản là văn chương, thú vị hơn sách lịch sử. Vì không chỉ miêu tả văn hóa, diễn biến thời cuộc, ta còn hiểu được cả tâm tư của con người thời đại đó. Dù cách xa không và thời gian nhưng những tâm tình có thể đồng điệu một cách đáng kinh ngạc khi chúng ta cùng chung thân phận loay hoay tìm kiếm ảo ảnh trên đường mưa gió hồng trần.

Không phải ngẫu nhiên mà truyện Genji được xem là cẩm nang để hiểu về cuộc sống cung đình thời Heian và Genji, dù là hình mẫu giả tưởng vẫn được tác giả Sakaiya Taichi chọn làm một trong 12 người sáng lập ra nước Nhật(*) như là một chính khách thanh nhã mẫu mực và đầy chất quý tộc thời Heian.

(*) Sakaiya Taichi, Mười hai người lập ra nước Nhật, Đặng Lương Mô dịch, Nxb Chính trị quốc gia, tái bản 2017.

Ái tình hay ảo ảnh hư không?

Trong tác phẩm “Chiếc cặp”, sự biến chuyển tinh tế trong tình yêu của hai con người từng trải qua mưa gió với những cung bậc thăng trầm được gợi tả giữa một không gian đầy hương vị sake, thơ haiku, đi ngắm pháo hoa, hái nấm, thưởng trăng…Nếu chỉ đọc những quyển sách nghiên cứu lịch sử Nhật Bản hiện đại, chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết được những sự tủi thân, giận hờn của những phận người nhỏ nhé. Như cơn ghen tuông biến thành hồn ma bóp cổ tình địch của phu nhân Rokujo trong truyện Genji hay cơn ghen đằm thắm dịu dàng của Tsukiko khiến nàng như thể một cô gái mới lớn đầy bướng bỉnh trong “Chiếc cặp”. Những chi tiết đó khiến ta cảm thấy thú vị và đồng cảm. Trong nhân vật nhiều khi phản chiếu chính bản thân chúng ta.

Như những kẻ say lang thang trong một không gian nồng nàn hương vị sake, tình yêu cũng chỉ là một cơn say dài. Tình yêu thì cổ xưa nhưng vẫn luôn mới mẻ và hiện đại. Vì cho dù xã hội phát triển đến đâu, tâm lý và bản chất con người ngàn năm vẫn thế. Do đó, Genji và Tsukiko cũng là những mẫu người tình muôn thuở.

Và hạnh phúc cũng như thể là pháo hoa. Đó là tên gọi của những phút giây ngắn ngủi gần như là một ảo ảnh.

Chiếc cặp của Sensei là vật bất ly thân lúc nào ông cũng mang theo bên mình. Gánh nặng của quá khứ vô hình. Có lần Tsukiko đã hỏi Sensei “cứ như cả thế giới của Sensei được nhét đầy trong đó?”. Sensei đã gật đầu.

Và chiếc cặp đó chứa đựng những gì. Chỉ có sự trống không.

Sự trống không kia như một công án của Thiền Tông. Công án “Vô” hay một kiểu “Vô môn quan” tình ái. Cửa nào cho nàng và cửa nào cho ta? Biết đâu bước vào, chỗ nào đi ra? Có chút gì đáng giá hay cuối cùng nói như nhà văn Uehara trong tác phẩm “Tà dương”: “Con đường tình ái cất công đi lại biến thành một vở hài kịch”?

Khi chúng ta hàng ngày đi qua những nỗi niềm buốt giá, chút ấm áp trong tim mình có lẽ là thứ sưởi ấm duy nhất. Chiếc cặp là hành trang ước mơ, là gánh nặng của tuổi tác và ký ức đồng thời là nhắc nhở của chính mình ngày xưa. Gánh nặng ghê gớm nhất của cuộc đời lại rất vô hình và dường như trống rỗng.

Cái hay của chi tiết công án “chiếc cặp trống không” này là ở chỗ tùy theo trải nghiệm của độc giả với những căn cơ và độ tuổi khác nhau lại cảm nhận sức nặng của sự trống không này một khác. Có thể nhẹ như lông hồng mà cũng có thể nặng như núi Thái Sơn. Buông được thì nhẹ mà chấp quá thì nặng ngàn cân. Tình yêu cũng vốn dĩ là thứ không thể nào cân đo đong đếm được. Nó vừa là quà tặng vừa là  đòn trừng phạt cho những lữ khách mải miết trên nỗi đau đường trần.

Sau khi Sensei qua đời, và chiếc cặp được con trai ông chuyển giao lại cho Tsukiko. Khi đó, nàng mới cảm nhận được sức nặng của sự trống rỗng đó.

Trong suốt cuộc tình, nếu như ta có thể gọi như vậy, hai người chỉ lặng lẽ đi uống cùng nhau, trò chuyện và đi du lịch. Chỉ duy nhất một lần ôm nhau ngủ. Khoảng ba năm sau Sensei qua đời. Tsukiko còn lại một mình. Những tâm hồn hoang vu đó đã trở lại hoang vu.

Như bài thơ của Seihaku Irako mà Sensei có lần dạy cho Tsukiko “Trong nỗi cô đơn tôi trôi dạt lẻ loi trên đường dài, áo choàng tả tơi không ngăn gió lạnh, và đêm nay bầu trời sáng tỏ, càng khiến nỗi lòng đau bội phần hơn”.

Đã từng cô đơn và khi cảm thấy quen thuộc với nỗi cô đơn ấy, tình yêu đến bất ngờ  vuốt ve cho lòng ấm. Khi chưa kịp quen mùi, tình vỗ cánh bay xa. Cô đơn trở lại đau hơn vạn thuở.

Nhưng tình yêu ban cho con người niềm an ủi. Tuy chỉ một thời gian ngắn ngủi, và dấu tình yêu có vẻ như còn xa cách địa đàng nhưng sương khói tình đã hơn một lần dâng kín ngõ hồn hoang.

Những đêm dài, tôi mở chiếc cặp của Sensei và nhìn vào bên trong, trống rỗng và hụt hẫng. Không có gì vương lại ngoài khoảng không tĩnh lặng muộn phiền”.

Một chiếc cặp di vật. Trống không. Nàng lấp đầy tâm tư và kỷ niệm của mình với Sensei vào đó. Chiếc cặp của tình yêu và hành trang kỷ niệm. Không gì có thể đong đếm và định giá được những nỗi niềm. Do đó, không có gì nhẹ hơn và nặng hơn hư không. Hư không cũng chính là ảo ảnh. Chúng ta đi tìm kiếm những ảo mộng tên gọi ước mơ, tình yêu. Nhưng cô đơn mới là thứ còn lại. Gánh nặng của ký ức đã được chuyển sang cho Tsukiko. Nhưng sống, xét đến cùng tận là việc tự an ủi mình, tự làm mình vui, còn lại ngoại vật tất thảy cứ vẫn sẽ mãi là ảo ảnh hư không.

Khi chúng ta còn lang thang trường mộng… có tên gọi cuộc đời.

Hoàng Long

Đọc bài viết

Giới thiệu sách

Giữa mùi nồng rượu nếp, một mâm cỗ chay thanh tịnh – Tết Đoan Ngọ trong góc nhìn hiện đại

Published

on

Mỗi độ đầu hè, khi mận đỏ rộ chợ và rượu nếp thoảng mùi men, chiếc bánh tro giản dị lại xuất hiện trong căn bếp gia đình. Tết Đoan Ngọ trở về - không ồn ào, không phô trương - như một thói quen đẹp lặng thầm gắn bó với người Việt từ bao đời.

Trong guồng quay hiện đại, khi lối sống xanh và những giá trị nuôi dưỡng đời sống tinh thần dần trở thành lựa chọn phổ biến, nhiều người bắt đầu tự hỏi: liệu mâm cỗ ngày 5 tháng 5 âm lịch có thể “chuyển mình” theo cách nhẹ nhàng hơn - từ rượu nếp nồng đượm sang một mâm chay thanh đạm - mà vẫn giữ trọn tinh thần văn hóa của ngày Tết truyền thống?

Các cuốn sách ẩm thực Việt như Thanh Tịnh Mâm Cỗ Việt - 30 Món Chay Lành Xưa Và Nay (Hồ Đắc Thiếu Anh, Nguyễn Hồ Tiếu Anh) hay Ăn Xanh Sống Lành - 33 Món Chay Thực Dưỡng Thuần Việt (Trần Lê Thanh Thiện), Thơm Thảo Xôi Chè - 30 Thức Quà Ngọt Ngào Hương Đồng Gió Nội (Trần Thị Hiền Minh) và thêm nhiều cuốn sách cùng chủ đề khác ra đời như một lời gợi ý: truyền thống có thể được gìn giữ, nhưng dưới một hơi thở mới - chậm rãi hơn, lành mạnh hơn, và chan chứa hơn tình thương với cơ thể, con người và tự nhiên.

Từ rượu nếp đến bánh tro - Khi ẩm thực là phương thuốc dân gian

Truyền thống Tết Đoan Ngọ thực chất bắt nguồn từ tư duy nông nghiệp và y học dân gian: thời điểm giao mùa, sâu bọ sinh sôi trong cơ thể con người cũng như ngoài đồng ruộng. Do đó, người Việt từ xưa tin rằng ăn rượu nếp lên men, trái cây đầu mùa chua, chát và bánh tro,... chính là cách “giết sâu bọ”, thanh lọc cơ thể.

Ở góc nhìn hiện đại, chúng ta nhận ra đây chính là một “liệu pháp thanh lọc tự nhiên”, thông qua các thực phẩm lên men, dễ tiêu và giàu enzyme. Câu chuyện của rượu nếp hay bánh tro cũng nhờ thế mà không còn đơn giản chỉ là một món ăn, mà còn là biểu tượng của mối quan hệ hài hòa giữa con người - tự nhiên - thân thể.

Mâm cỗ mới - Thanh tịnh từ tâm, lành mạnh từ món

Khi ngày càng nhiều người Việt lựa chọn lối sống thuần chay, đề cao sức khỏe và sự tỉnh thức trong ăn uống, mâm cơm ngày Đoan Ngọ cũng đang dần được “chuyển mình”. Không chỉ là chuyện thay thịt cá bằng rau củ, một mâm cỗ chay dịp này còn gói ghém tinh thần biết ơn, gắn bó với mẹ thiên nhiên, và quan tâm đến sức khỏe thể chất lẫn tinh thần.

Lật giở từng trang sách của Ăn Xanh Sống Lành - 33 Món Chay Thực Dưỡng Thuần Việt, người đọc như được tham gia vào một cuộc chu du xuyên Việt khám phá ẩm thực kéo dài từ Bắc chí Nam. Dẫn dắt người đọc qua hành trình ẩm thực từ tàu hủ ky sốt mận Hà Giang đậm đà, cao lầu chay Hội An thanh nhẹ, đến chè thốt nốt An Giang ngọt ngào làm say lòng người, tác giả Trần Lê Thanh Thiện không chỉ giới thiệu hơn 30 món chay bổ dưỡng, mà còn gửi gắm cả sự tinh tế và tình cảm qua từng công thức, từng nguyên liệu mang đậm dấu ấn vùng miền. Cuốn sách là một bản giao hòa giữa tri thức ẩm thực phương Đông và tinh thần bản địa Việt. Tác giả khởi nguồn đi từ lòng biết ơn thiên nhiên với những sản vật quen thuộc như tiêu xanh Phú Quốc, khoai mỡ Long An, cơm dừa non Bến Tre, muối Bạc Liêu, tỏi đen Lý Sơn,... để tạo nên những món ăn dung dị mà đầy tính chữa lành.

Trong khi đó, Ahimsa – Ăn Chay Cho Tâm Thân An Lạc mang lại một cái nhìn nhẹ nhàng về ẩm thực chay như một lựa chọn chăm sóc đời sống tinh thần. Sách được biên soạn bởi các đầu bếp giàu kinh nghiệm, với nhiều gợi ý món ăn thanh đạm nhưng vẫn hài hòa sắc - hương - vị. Điều đặc biệt ở đây không phải kỹ thuật nấu ăn cầu kỳ, mà là thái độ sống chậm, sống an.

Thơm Thảo Xôi Chè lại đem đến một hướng tiếp cận đậm chất truyền thống mà vẫn không thiếu nét sáng tạo. Xôi và chè - hai món thường hiện diện trong cúng lễ Đoan Ngọ - được tác giả giới thiệu như những biểu tượng của sự đoàn viên và lòng thành. Với phong cách viết nhẹ nhàng, đầy chất thơ, cuốn sách như một nhịp cầu đưa người đọc trở về với căn bếp Việt trong những ngày lễ xưa, nơi từng hạt nếp, hạt đậu đều gửi gắm tình thân và văn hóa.

Cuối cùng, Thanh Tịnh Mâm Cỗ Việt – 30 Món Chay Lành Xưa Và Nay không chỉ đơn thuần là tuyển tập các công thức món chay mà còn là lời mời gọi trở về với nếp nhà truyền thống qua từng mâm cỗ cúng. Xuất phát từ tinh thần tri ân cội nguồn, cuốn sách đan cài kỷ niệm, bài học gia đình và những nguyên tắc bài trí mâm cỗ theo đúng lối xưa, từ đó gợi mở cách gìn giữ vẻ trang nghiêm, thanh tịnh nhưng vẫn ấm áp, gần gũi trong đời sống Việt hiện đại.

Truyền thống không cũ - Chỉ cần được thở theo nhịp mới

Việc chuyển từ mâm mặn sang mâm chay trong ngày Tết Đoan Ngọ không có nghĩa là bỏ đi truyền thống. Trái lại, đó là cách tiếp nối tinh thần nguyên bản: ăn những gì hợp mùa, có lợi cho cơ thể và dành không gian cho sự tĩnh lặng nội tâm. Một mâm cỗ Đoan Ngọ chay có thể không nhiều món, không đậm đà thịt cá, nhưng lại là lời nhắc nhở dịu dàng về cách sống chậm, lành và yên.

Tết Đoan Ngọ hôm nay - Nhẹ nhàng nhưng vẫn đậm hương sắc

Trong nhịp sống hiện đại dễ cuốn ta đi quá nhanh, Tết Đoan Ngọ nay không chỉ còn là dịp “diệt sâu bọ” mà còn trở thành một khoảng lặng để ta trở về - với ký ức, với tự nhiên, và với chính mình. Mỗi món ăn chay trên mâm cỗ hôm ấy là một sự lựa chọn tỉnh thức: nuôi tâm, dưỡng thân, giữ gìn môi trường, và tiếp nối một truyền thống sống hòa với tự nhiên.

Giữa mùa mận chín, bên chén cơm nếp lành, chiếc bánh tro thơm mộc mạc có thể chính là sợi chỉ kết nối ta với quá khứ - không phải bằng nghi thức rườm rà, mà bằng những gì gần gũi và chân thật nhất. Truyền thống không mất đi, chỉ cần được lắng nghe và thở theo nhịp sống hôm nay.

Ngữ Yên

Đọc bài viết

Cafe sáng