Trích đăng

Chương 1&2 “Bông Hồng Cài Áo” – Thích Nhất Hạnh

“Bông hồng cài áo” là tên một đoản văn viết về Mẹ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Nhà sư viết “Thương mẹ là một cái gì rất tự nhiên… Thương mẹ không phải là một vấn đề luân lý đạo đức. Anh mà nghĩ rằng tôi viết bài này để khuyên anh về luân lý đạo đức là anh lầm. Thương mẹ là một vấn đề hưởng thụ… Một món quà như mẹ mà còn không vừa ý thì họa chăng có làm Ngọc hoàng Thượng đế mới vừa ý, mới bằng lòng, mới sung sướng. Nhưng tôi biết Ngọc hoàng không sung sướng đâu, bởi Ngọc hoàng là đấng tự sinh, không bao giờ có diễm phúc có được một bà mẹ.”

Published

on

Chi tiết tác phẩm

Trích từ: Bông hồng cài áo

Tác giả: Thích Nhất Hạnh

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Tái bản: tháng 7.2019

Mẹ và Cha được danh tặng

“Bà La Môn,” “thầy cô sớm nhất”

và xứng đáng được tôn quý

vì hết lòng thương yêu

đám nhỏ trong gia đình.

Vì thế, người khôn ngoan

ca ngợi và vinh danh cha mẹ,

tặng đồ ăn thức uống

với quần áo chăn mùng

xức dầu và tắm gội

và rửa chân mẹ cha.

Khi người khôn ngoan

phục vụ cha mẹ như thế

thì chàng được ca ngợi

bây giờ và ở đây

và được lên cõi tịnh

sau giờ phút lâm chung.

Kinh Buddha, Itivuttaka 106

Bạn còn nhớ gì về những ngày nằm trong bụng mẹ không?

Chúng ta ai cũng từng nằm ở đó khoảng chín tháng. Một khoảng thời gian khá lâu. Tôi tin chắc ai trong chúng ta cũng có cơ hội mỉm cười trong khoảng thời gian ấy. Nhưng ta mỉm cười với ai?

Khi ta vui, tự nhiên ta sẽ có xu hướng mỉm cười. Tôi đã thấy nhiều người, nhất là trẻ con, mỉm cười trong giấc ngủ.

Sau khi chào đời ta có những lúc không vừa ý, nên đa số chúng ta đều cảm thấy rằng thời gian trong bụng mẹ là một thời gian tuyệt vời. Ta khỏi phải lo lắng về thức ăn thức uống. Ta được che chở khỏi nóng và lạnh. Ta khỏi làm bài tập ở nhà và công việc bếp núc. Khi được bảo vệ trong bụng mẹ ta cảm thấy an toàn. Ta khỏi phải lo lắng gì cả. Và điều đó thật là tuyệt vời.

Tôi chắc rằng nhiều người trong chúng ta vẫn còn nhớ về khoảng thời gian đó.

Nhiều người có cảm tưởng rằng ngày trước họ từng ở trong một thiên đàng an toàn tuyệt hảo nhưng nay đã bị lạc mất thiên đàng ấy. Ta nghĩ rằng đâu đó ngoài kia có một nơi chốn xinh tươi không có gì phải lo lắng và sợ hãi, nhưng không phải, và thế là ta ao ước được trở về nơi chốn trong bụng mẹ. Trong tiếng Việt chữ “tử cung” có nghĩa là cung điện của hài nhi. Thiên đàng nằm trong lòng mẹ.

Khi nằm trong bụng mẹ, bạn được mẹ chăm sóc. Mẹ ăn và uống cho bạn. Mẹ thở vào, thở ra cho bạn. Và tôi chắc mẹ cũng nằm mơ cho bạn nữa. Bạn mơ cùng một giấc mơ với mẹ. Khi mẹ mỉm cười, bạn cũng mỉm cười. Và nếu mẹ khóc khi mơ thấy chuyện buồn khổ thì tôi chắc bạn sẽ cùng khóc với mẹ. Bạn chia sẻ với mẹ những giấc mơ đẹp và cả những cơn ác mộng, bởi vì bạn và mẹ không phải là hai người riêng biệt. Cơ thể bạn được nối liền với mẹ bằng cuống rốn. Và mẹ truyền cho bạn qua cuống rốn ấy nào thức ăn thức uống, nào dưỡng khí, đủ hết, kể cả tình thương của mẹ. Bạn nằm đấy, bạn chưa chào đời nhưng đã là đối tượng của tình thương.

Hãy nên nhớ rằng bạn đã được mẹ nuôi dưỡng ngay từ khi bạn chưa chào đời. Nếu nhìn sâu, bạn sẽ thấy rằng đồng thời bạn cũng nuôi dưỡng mẹ. Vì có con trong lòng mà cơ thể mẹ thay đổi và lớn lên. Có thể mẹ mệt mỏi hơn, kém sức hơn, nhưng đồng thời mẹ hay mỉm cười hơn và cả yêu đời nhiều hơn nữa.

Có lẽ trong khoảng thời gian ấy mẹ đã từng trò chuyện với bạn. Tôi chắc rằng bạn đã nghe mẹ nói chuyện, và bạn đã hồi âm. Có lẽ thỉnh thoảng mẹ quên rằng đang có con nằm trong bụng mẹ. Vì vậy bạn đã đá một cái để nhắc mẹ. Cái đá của bạn là một tiếng chuông chánh niệm. Nếu mẹ có thực tập tỉnh thức thì mẹ đã nói, “Con yêu quý, mẹ biết con có đó mà, và mẹ rất hạnh phúc.” Đó là câu thần chú thứ nhất. Nếu mẹ không nói như thế thì cơ thể mẹ cũng đáp lại rằng mẹ sẽ làm bất cứ điều gì cần thiết để nuôi dưỡng con.

Khi bạn vừa chào đời, sẽ có người cắt cuống rốn của bạn. Và bạn ré lên khóc lần đầu tiên trong đời. Bây giờ thì bạn phải tự mình hít thở. Bạn phải làm quen với ánh sáng xung quanh. Bây giờ lần đầu tiên bạn biết đói bụng. Bạn đã ở ngoài cơ thể của mẹ, nhưng bạn vẫn còn nằm trong mẹ, vẫn còn tùy thuộc vào mẹ. Chẳng hạn như bạn phải bú vú mẹ. Và mặc dù cuống rốn giữa mẹ con đã bị cắt đứt, bạn vẫn còn liên hệ mật thiết với mẹ một cách cụ thể.

Là một em bé, bạn biết mình có liên hệ với mẹ; và khi là một người mẹ, bạn sẽ cảm thấy sự gắn kết với con mình. Nếu là mẹ, bạn có thể hình dung bạn với con là một. Nhưng nếu bạn giữ chặt con và bắt nó phải giống hệt như mình thì điều đó không nên. Thấy mình với con là một thì tốt, nhưng bé còn phải sống với nhiều ảnh hưởng khác nữa, và khi lớn lên, có thể bé sẽ có nhiều hiểu biết mới. Mỗi bà mẹ đều phải tập để thấy rằng con mình là mình, nhưng đồng thời cũng không phải là mình. Đứa con có cuộc đời riêng của nó. Bạn không thể cầm giữ đứa con và bắt nó phải đi về hướng của bạn, bạn không thể buộc nó phải làm những gì bạn thích vì bạn muốn uốn nắn nó theo khuôn đúc của bạn. Bởi vì nó không những là sự nối tiếp của bạn, mà còn là sự nối tiếp của nhiều thế hệ tổ tiên trước bạn nữa, và có thể cuộc đời bạn đã không có cơ hội được tưới tẩm những hạt giống tốt mà bạn thừa hưởng từ thế hệ tổ tiên. Do đó, bạn không được may mắn bằng con bạn. Cho nên khi con đã có nhiều hiểu biết mới, bạn phải học hỏi từ con.

Nếu mẹ không chịu để cho bạn độc lập trưởng thành, hay nếu bạn có khó khăn với mẹ, có lẽ bạn sẽ ráng tự thuyết phục rằng bạn và mẹ là hai người riêng biệt. Nhưng sự thực không hẳn thế. Bạn là sự tiếp nối của cả cha và mẹ. Khi tôi ngồi thiền, tôi có thể thấy được sợi dây rốn nối liền tôi và mẹ. Khi tôi nhìn sâu, tôi cũng thấy những dây rốn nối liền tôi với vạn vật. Bởi vì mặt trời mọc mỗi sáng mai, và nhờ có mặt trời, ta có nhiệt lượng và ánh sáng. Không có nhiệt lượng và ánh sáng thì ta không tồn tại được.

Thế thì sẽ có một dây rốn nối liền bạn với mặt trời. Và sẽ có một dây rốn khác nối liền bạn với những đám mây trên bầu trời. Bởi vì nếu không có mây thì sẽ không có mưa và không có nước để uống, nếu không có mây bạn cũng không có sữa, không có trà, không có cà phê, không có kem lạnh, không có gì hết. Và lại có một dây rốn nối liền bạn với dòng sông, một dây rốn khác nối liền bạn với rừng cây. Nếu bạn cứ tiếp tục thiền định, bạn sẽ thấy rằng bạn nối liền với mọi vật và mọi người trong vũ trụ. Cuộc đời bạn tùy thuộc vào mọi thứ khác đang có mặt như những sinh vật, cây cỏ, đất đá, không khí, nước và mọi thứ khác trên trái đất.

Giả sử bạn trồng một hạt bắp. Sau bảy ngày, hạt bắp nẩy mầm và trở thành một cây bắp. Khi cây bắp lên cao, có thể bạn sẽ không còn nhìn thấy hạt bắp mà bạn đã trồng. Nhưng bạn không thể bảo rằng hạt bắp đã chết. Với đôi mắt của Bụt, bạn vẫn có thể nhìn thấy hạt bắp giống trong cây bắp. Cây bắp là sự tiếp nối của hạt bắp giống về hướng tương lai, và hạt bắp giống là sự tiếp nối của cây bắp về hướng quá khứ. Cây bắp và hạt bắp giống không phải là một, nhưng chúng cũng không phải hoàn toàn khác biệt. Bạn và mẹ không hẳn là một người, nhưng cũng không phải là hai người riêng biệt. Đó là sự thật về sự phụ thuộc lẫn nhau. Sự thật là không ai có thể sống tách biệt một mình. Muốn sống thì bắt buộc ta phải tương tức với nhau.

Khi chúng ta còn nằm trong bụng mẹ, cơ thể ta không chịu sự căng thẳng.

Cơ thể ta lúc đó mềm mại và co dãn. Nhưng một khi ta đã chào đời, thì sự căng thẳng sẽ len vào, có khi ngay từ lần đầu tiên ta thở. Trước khi ta buông xả được sự căng thẳng trong thân thì ta phải buông xả sự căng thẳng trong hơi thở đã. Nếu thân ta không an thì hơi thở cũng không an. Khi ta chế tác được năng lượng chánh niệm và ôm lấy hơi thở thì phẩm chất của hơi thở vào và hơi thở ra sẽ được cải thiện. Khi ta thở trong chánh niệm, hơi thở của ta sẽ lắng dịu xuống và dài sâu hơn. Sự căng thẳng trong lúc thở sẽ biến mất. Và khi hơi thở đã được lắng dịu, ta có thể ôm lấy cơ thể và ta buông thư – Bụt gọi là “an tịnh”.

Có một bản kinh Pali gọi là kinh Kayagatasati,  Quán Thân Trong Thân.

Trong đó Bụt đề nghị thực tập để buông xả sự căng thẳng trong mỗi bộ phận của thân, và trong cả toàn thân. Để bắt đầu, bạn nằm dài trong một tư thế thoải mái và rọi chiếu chánh niệm lên toàn thân. Xong rồi bạn tập trung vào từng bộ phận của thân. Bắt đầu là cái đầu hay là tóc, và kết thúc với các ngón chân. Bạn có thể nói: “Khi thở vào tôi nhận biết não bộ của tôi. Khi thở ra, tôi mỉm cười với não bộ của tôi.” Và bạn tiếp tục với những phần còn lại của thân. Giống như người nông dân với một mớ hạt giống được đổ ra sàn nhà, người ấy có thể nhận ra và phân biệt rõ từng loại hạt giống. Cũng vậy, khi bạn rọi chiếu lên từng bộ phận của thân – không phải bằng tia quang tuyến X mà bằng ánh sáng chánh niệm.

Mười lăm phút cũng đủ để rọi chiếu lên thân và làm xoa dịu sự căng thẳng của thân bằng năng lượng chánh niệm.

Khi tâm hoàn toàn tỉnh thức, nhận ra được một phần của thân và ôm lấy phần ấy với năng lượng của chánh niệm, thì phần cơ thể ấy được thư giãn và buông xả mọi căng thẳng. Vì vậy ta hiểu tại sao mỉm cười là một phương cách tốt để giúp cơ thể buông thư. Những nụ cười đầu tiên trong bụng mẹ là những nụ cười hoàn toàn buông thư. Có hàng trăm bắp thịt trên mặt bạn, và khi bạn nổi giận hay sợ hãi thì chúng rất căng thẳng. Nhưng nếu bạn thở vào và nhận biết chúng, thở ra và mỉm cười với chúng, bạn có thể giúp các bắp thịt ấy thư giãn. Với một hơi thở vào và một hơi thở ra là vẻ mặt của bạn đã được chuyển hóa. Một nụ cười có thể đem đến sự mầu nhiệm.

Trong kinh Quán Thân Trong Thân, Bụt khuyên ta nên nhận biết bốn yếu tố thiên nhiên trong cơ thể là nước, lửa, không khí và đất. Ở trong tử cung, bốn yếu tố này hoàn toàn cân bằng. Người mẹ giữ cân bằng trong tử cung cho con bằng cách gửi vào dưỡng khí và chất bổ dưỡng trong khi con nằm nghỉ ngơi. Một khi ta được sinh ra, nếu bốn yếu tố ấy của ta cân bằng thì ta được mạnh khỏe. Nhưng nhiều lúc bốn yếu tố ấy thiếu thăng bằng, cơ thể ta không ấm lên được hay ta không thở nổi một hơi dài. Thông thường thì một hơi thở có ý thức có thể đem bốn yếu tố ấy trở về trạng thái cân bằng một cách tự nhiên.

Bụt cũng khuyên ta nên nhận biết những tư thế và cử động của thân. Lúc ngồi thiền, điều đầu tiên ta phải nhận thức là ta đang ở trong tư thế ngồi. Rồi sau đó bạn có thể tìm cách ngồi nào đem lại cho bạn sự an ổn, sự vững chãi và thoải mái. Mỗi phút giây ta đều nhận thức tư thế của thân ta, ta đang ngồi, đang đi, đang đứng hay đang nằm. Ta có thể nhận thức những cử động của ta, ta đang đứng dậy, cúi xuống hay đang khoác áo. Sự nhận thức đem ta trở về với chính ta. Và khi ta hoàn toàn nhận thức được thân ta đang sống ngay đây và ngay bây giờ, thì ta đang ở trong mái nhà đích thực của ta.

Có những người cảm thấy không thoải mái khi ở nhà cha mẹ. Lại có những người không thoải mái khi ở xa gia đình. Nhưng mỗi người đều có một mái nhà đích thực, cũng đích thực và tinh khiết như cung điện của hài nhi. Ngay cả nếu bạn có cảm giác mình không thuộc về một vùng đất nào, một quốc gia nào, một địa điểm nào, một nền văn hóa nào, hay một dân tộc nào thì bạn vẫn có một mái nhà đích thực. Bạn cảm thấy thoải mái tự nhiên như khi còn nằm trong bụng mẹ. Và có lẽ bạn ao ước được trở về một nơi chốn cũng thanh bình và an toàn như thế. Nhưng bây giờ, ngay bên trong cơ thể bạn, bạn cũng có thể trở về nhà.

Mái nhà đích thực của bạn là ở đây và bây giờ. Nó không bị giới hạn bởi thời gian, không gian, quốc tịch hay chủng tộc. Mái nhà đích thực của bạn không phải là một ý tưởng trừu tượng, nó là một cái gì bạn có thể tiếp xúc và sống trong từng giây phút. Với chánh niệm và định lực – là những năng lượng của Bụt, bạn có thể tìm thấy mái nhà đích thực của bạn ngay trong sự buông thư hoàn toàn của tâm và thân trong giây phút này. Không ai có thể lấy nó ra khỏi bạn. Người ta có thể xâm chiếm đất nước của bạn, thậm chí có thể nhốt bạn vào tù, nhưng họ không thể cướp được mái nhà đích thực và sự tự do của bạn.

Khi ta ngưng nói năng suy nghĩ và ta thưởng thức hơi thở vào ra, là lúc ta vui thích được ở dưới mái nhà đích thực của mình, là lúc ta có thể tiếp xúc sâu sắc với những điều kỳ diệu của cuộc sống. Đó là con đường đã được Đức Thế Tôn chỉ dạy. Khi bạn thở vào, bạn đem thân và tâm bạn đến với nhau, trở thành một mối. Và khi được trang bị năng lượng của niệm và định, bạn bước tới một bước. Bạn có tuệ giác rằng đây chính là mái nhà đích thực của bạn – bạn đang sống, bạn đang có mặt thật sự, bạn đang tiếp xúc với sự sống như là một thực tại. Mái nhà đích thực của bạn là một thực tại vững chắc mà chân bạn, tay bạn và tâm của bạn có thể tiếp xúc được.

Điều quan trọng là bạn tiếp xúc được với mái nhà đích thực của mình, và nhận thức được rằng mái nhà đích thực đó có ngay ở đây và bây giờ. Tất cả chúng ta đều có hạt giống của niệm và định. Khi thở một hơi trong chánh niệm, hay đi một bước trong chánh niệm, bạn có thể đem tâm trở về với thân. Trong đời sống hàng ngày, thân và tâm của bạn thường đi về hai hướng khác nhau. Thế là bạn bị lãng trí, tâm một đàng, thân một nẻo. Thân thì đang khoác áo lạnh nhưng tâm thì đang lơ đãng, vướng bận với những điều trong quá khứ hay tương lai. Nhưng giữa tâm và thân vẫn có một cái gì đó: đó là hơi thở của bạn. Và ngay khi bạn trở về với hơi thở, bạn thở trong tỉnh thức, thân và tâm bạn lại trở về với nhau rất nhanh chóng. Trong khi thở vào, bạn không nghĩ gì cả; bạn chỉ tập trung sự chú ý vào hơi thở vào đó. Bạn tập trung, bạn đầu tư một trăm phần trăm con người bạn vào hơi thở vào.

Bạn trở thành hơi thở vào của bạn. Sự tập trung vào hơi thở vào sẽ làm thân tâm bạn trở về một mối trong khoảnh khắc. Và ngay lúc đó bạn thấy bạn thực sự có mặt, bạn đầy sức sống. Bạn không còn ao ước trở về cung điện của hài nhi nữa, trở về nơi thiên đàng hoàn hảo nữa. Bạn đã ở đấy rồi. Bạn đã về đến ngôi nhà của mình rồi.

-Còn tiếp-

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Vài chuyện linh tinh mà cây cối dạy cho mình về tình yêu – Trích “Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành”

Published

on

Trích từ: Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành
Tác giả: Anh Khang
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2024
Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Có một dạo, cứ mỗi lần nhớ người thương cũ, mình lại đi mua một cái cây, về trồng ngoài ban công.

Thói quen ấy đều đặn thành nếp sống. Đến một ngày, trước cửa sổ phòng, đã là cả một khu vườn nho nhỏ xinh xanh.

Những buổi sáng, tỉnh dậy, nắng len qua ô kính, dụi mắt đánh thức mình. Điều đầu tiên mình nhìn thấy, là cả một khoảng trời xanh mướt của từng phiến lá khẽ đung đưa, như vẫy tay chào, và bảo: “Ê, ngày mới tới rồi. Đừng nằm lì ở ngày hôm qua nữa. Dậy đi tưới cây, ngắm nắng, tỉa lá, chăm hoa,... Vườn nhà biết bao việc. Nằm đó nhớ nhung gì!”.

Đó là khi mình nhận ra, sau rất nhiều năm tháng chia tay, điều đầu tiên mình nghĩ đến khi thức dậy, không còn là người ấy nữa.

Mình bắt đầu nghĩ về bổn phận của một người làm vườn có trách nhiệm với mầm xanh trước cửa, của một người “nông dân cày xới trên mảnh đất tinh thần”. Và nhất là, không còn nghĩ về danh phận mà mình đã truy cầu suốt thời tuổi trẻ, khiến xói mòn tiêu hao rất nhiều “hạt giống niềm tin” vào quả ngọt mang tên “tình yêu” chưa bao giờ kết trái.

Hồi xưa, mình từng cho rằng bản thân chẳng có tay trồng cây, mọi hạt giống gieo xuống đều chẳng nảy lên xanh. Cũng giống như bản tính thích yêu và được-yêu, nhưng lại chẳng có duyên với mấy chuyện yêu đương. Nhưng, nhờ những ngày tháng hiện tại, bầu bạn cùng cỏ cây, quanh quẩn bên hoa lá, chăm chút từng mầm xanh,... mình học thêm được vài bài học mới, vài cách nghĩ khác đi, từ “người thầy” xanh màu diệp lục tố.

Như là, tại sao cứ mặc định bản thân là “vô năng bất khả”, tại sao cứ hạn định mọi nỗ lực và cố gắng của chính mình?

Dù là chuyện trồng cây.

Hay là chuyện yêu đương cũng thế.

#1

Càng bớt cố chấp, càng đỡ mệt thân

Mình có một chấp niệm, với cây hương thảo.

Loài thảo mộc bản địa của vùng Địa Trung Hải, vốn đã theo chân mình suốt dặm đường rong ruổi hồi trẻ qua biết bao thành phố ở vùng cựu lục địa. Thế nên, một trong những chậu cây đầu tiên mà mình mang về khu vườn nhỏ của mình, hiển nhiên, phải là hương thảo.

Dù đã được nhiều người chủ vựa cây kiểng dặn dò về thuộc tính đỏng đảnh “ưa nước nhưng ghét ẩm”, “thích nắng nhưng sợ hạn” của loài cây thơm lừng từ ngọn tới lá này, mình vẫn một mực tìm mua đủ mọi giống hương thảo. Từ loại giâm cành chiết ngọn ở miền Bắc đến miền Tây, rồi cả giống cây thuần khí hậu miền Nam, hay được dưỡng thân hóa gỗ thành dáng bonsai vững vàng...

Nhưng bất kể bao cố gắng kiên trì của mình, thì không một chậu cây hương thảo nào chịu sống đời dai dẳng, ở lại bên mình dài lâu được cả.

Mình càng cố, thì kết quả, vẫn chỉ là cành khô ngọn rủ, từng bụi hương thảo cứ thế héo hắt rời đi. Vì nhiều lý do, từ giá thể thổ nhưỡng đến vị trí trồng trọt, và còn hằng hà sa số điều kiện thiên thời địa lợi đã không thể chiều lòng chấp niệm “trồng hương thảo” của mình.

Không phải mình cứ cố gắng là sẽ đạt được ý nguyện ban đầu. Có những thứ mà ngay từ đầu, có lẽ, đã là chấp niệm viển vông của riêng bản thân. Chứ chẳng thể thành toàn viên mãn.

#2 

Nếu đã là duyên phận thuộc về bạn,

cơ bản bạn chẳng cần làm gì cũng viên mãn

Vẫn tiếp tục câu chuyện về hương thảo.

Trong rất nhiều bụi hương thảo đã bỏ mình đi, thì duy nhất, trong vườn còn lại một bụi thơm lừng, bền bỉ tỏa hương, nhẫn nại vươn cành.

Ban đầu, đây vốn chỉ là một bầu cây nhỏ xíu mình mua hú họa, chẳng dụng công trồng hay đặt nhiều hy vọng. Tiện tay, ướm vào chậu treo, thấy vừa khít, nên tùy ý móc lên mái tôn trước bệ cửa sổ. Ai ngờ, cây hương thảo bé nhỏ chẳng được chăm chút mấy, lại trở thành loài thảo mộc ở lại bên mình kiên tâm lâu dài nhất.

Ngẫm lại, cả khu vườn trải qua bao mùa cây cối tụ tán, hoa lá nở tàn, thì chỉ có duy nhất cây hương thảo treo đó, vẫn cam tâm tình nguyện cùng mình kết một đoạn duyên phận, lặng lẽ nhưng thâm tình, bình đạm nhưng thành tâm.

Để bây giờ, mỗi lần mở cửa sổ, hương thơm the mát vương mùi thảo mộc, thoảng đầy ý vị bình an, cứ thế len lỏi khắp phòng.

#3

Yêu thương khi không thấu hiểu,

chỉ gây thêm gánh nặng cho người mình yêu

Có một lần, quá nôn nóng vì cây hạnh ngọt chưa chịu ra hoa và hoa rụng trước kỳ đậu quả, mình bèn mua đủ loại phân bón.

Khỏi nói cũng biết kết quả. Mình, chẳng chịu tìm hiểu kỹ lưỡng nguyên tắc dưỡng trồng, cứ vung tay quá trớn, sơ sẩy thiển cận. Thành ra, cây hạnh ngọt đang li ti hoa trắng, ngấp nghé vài quả non, chỉ sau một đêm, lập tức khô khốc trụi cành, hoàn toàn héo rũ.

Sau đó, mới nhận ra bản thân đã sai ngay từ đầu, trong những khâu cơ bản như tìm hiểu, chọn lựa thành phần, chế độ, liều lượng,... của các loại chế phẩm chăm cây. Hóa ra, chính sự yêu thương thiếu kiến thức của mình đã đẩy đối tượng mình yêu thương (là cái cây) đi đến chỗ đang xanh-màu thành xanh-cỏ.

Tình yêu, suy cho cùng, nếu thiếu đi sự thấu hiểu, sẽ chẳng thể đồng hành lâu dài, giúp nhau tăng tiến. Mù quáng trao đi yêu thương mà không nhận thức rõ ràng đâu là đủ-thiếu, đâu là đúng-sai, thì chỉ chuốc thêm đau lòng cho chính mình và phiền lòng cho người mình yêu.

#4

Có những kết thúc chính là để bắt đầu

Có mấy chậu cây, mình chăm dữ lắm, nhưng cứ được vài tháng là bắt đầu vàng lá mục cành.

Mình, bắt đầu chấp nhận sự đến-đi của vô thường, ngay cả cây cối cũng đâu thể tránh khỏi thành-trụ-hoại-không. Định bụng, chào cái cây lần cuối, xong sẽ bỏ đất, thay chậu, chôn cây, cho xong một vòng tuần hoàn của đời thảo mộc. Ai dè, ngay kế cành cây sắp mục ruỗng ngã đổ, một mầm xanh bé xíu đang gắng sức vươn lên. Chiếc lá non xanh biếc, giống hệt dáng hình của chiếc lá đang ngả vàng của nhánh cây héo rũ kế bên. Một sự tiếp nối, lặng lẽ diễn ra. Những mầm xanh bé nhỏ, còn bền bỉ tách đất vươn lên. Huống hồ tuổi trẻ, vốn chẳng có một giới hạn nào, sao chúng ta lại cứ ngại, sợ? Có kết thúc nào là mãi mãi dừng lại ở đó đâu, khi đằng sau nó luôn là cả một khởi đầu miên viễn. Bạt ngàn. Vô tận.

Đời sống luôn là một bản trường ca mà khi một nốt trầm lặng xuống thì chính là báo hiệu một đoạn tấu khúc réo rắt sắp bắt đầu khởi xướng.

#5

Rừng xanh nào cũng bắt đầu từ hoang sơ

Có những hôm trời bất chợt đổ mưa. Ngó ra khoảng không xanh mướt mắt đang ướt đẫm trong màn nước trong vắt bên ngoài. Mình bỗng mềm lòng, nhớ lại. Chỉ mới vài tháng trước, khoảnh sân này chỉ là một mái tôn trơ trọi xám lạnh. Giờ đã thành vườn xanh. Mấy bông hoa chanh đã đậu quả thành trái non lúc lỉu trên cành. Mấy trái tắc mới vài tuần trước còn li ti như những hạt sương lấm tấm xanh xanh giờ đã tượng hình thành trái múp míp. Và cả bụi hoa hồng đã rụng hết đợt hoa bừng sắc tháng trước, đến nay cũng đã ươm mầm mới nở thành nụ phơn phớt dịu dàng.

Và cái đứa từng nghĩ rằng bản thân không có tay trồng cây, không có thể ươm xanh nụ mầm... sau tất cả, cũng đã tự tay có được khu vườn của riêng mình.

Chỉ cần mình chịu bắt đầu. Từ một việc đơn giản nhất. Là gieo mầm. Thay vì cứ đứng đó trơ mắt nhìn vào trống trải tiêu sơ.

Trộm nghĩ, một khu rừng rậm rạp cách mấy, cũng đều phải khởi sự từ những nhánh cây mầm cỏ bé nhỏ ban đầu. Nếu không có hoang tàn trơ trọi lúc đó, thì làm sao có hùng vĩ trong lành hôm nay? Điều quan trọng là chúng ta đừng chỉ nhìn chăm chăm vào mớ hỗn độn ngổn ngang rồi chùng lòng chán nản, thoái thác tháo lui, mà phải chấp nhận dấn thân, lao tâm khổ tứ. Dù là trồng rừng, trồng cây, hay là trồng lại hy vọng, niềm tin của chính mình. Vào tình yêu. Vào con người.

#6

Ai rồi cũng sẽ có khoảng trời thuộc về mình

Ngồi viết những dòng này, khi bên ngoài, hoàng hôn vừa xuống. Cảm giác bình yên choáng ngợp trong lòng. Có điều, sự choáng ngợp này, không khiến bản thân kinh hãi, mà chỉ càng làm thấm thía trân trọng thêm khoảnh khắc hiện tại.

Đi khắp Đông-Tây-Nam-Bắc. Trải qua yêu-ghét-thương-hờn. Nếm đủ tụ-tan-ly-hợp. Đến giờ, đã có thể bình thản, một mình, ngồi ngắm hoàng hôn mà trong lòng không còn bất kỳ một lời đồng vọng. Dù là nhớ nhung chuyện cũ. Hay là trách cứ tình xưa.

Hoàng hôn để ôn chuyện cũ. Đã từng nghĩ như vậy suốt thời tuổi trẻ. Thế nên, từng có một giai đoạn bị ám ảnh hoảng loạn với hoàng hôn. Cứ thấy trời chiều, là lo lắng. Cứ thấy nắng tắt, là hoang mang. Bởi lẽ, buổi chiều, đã-từng là khi chúng ta hẹn hò, là khi chúng ta đợi chờ đến lúc gặp nhau, là khi anh cùng em rong ruổi phố phường, đuổi bắt hoàng hôn. Buổi chiều, cũng là khi chim về tổ, người về nhà, là khi ai cũng mong cầu tìm cho mình một chốn về nương náu yên thân.

Thế nhưng, bản thân ở hiện tại, đối diện buổi chiều, lại chỉ thấy bình yên. Một mình hay mấy mình, giờ đã không còn mấy quan trọng. Chỉ biết là trong khoảnh khắc mặt trời le lói, vẫn thấy lòng ngập tràn ánh sáng. Thứ ánh sáng của an vui hỉ lạc, của tự tại tùy duyên.

Hóa ra, huyền cơ của việc thuận theo ý trời, tuân lời thiên mệnh, chỉ nằm trong một khoảnh khắc như thế này.

Đó là nhìn trời chiều, không buồn không tiếc, không nấn ná dây dưa cũng không hối hả sợ sệt. Chỉ thấy biết ơn năm tháng dù hối hả trôi qua, ghi ân thời gian dù vội vã giục giã, nhưng vẫn luôn độ lượng khoan dung dành cho chúng ta một chốn về yên ả.

Anh và em. Tôi và người. Bạn và chúng ta. Tất cả rồi cũng đều sẽ có một khoảng trời riêng. Nơi mưa nắng bão dông đều trở nên dịu dàng. Nơi bình minh hay hoàng hôn đều đầy đặn ánh sáng. Nơi mình hiểu ra nhân duyên đẹp đẽ nhất mà ông trời ban tặng, không phải là gặp đúng ý trung nhân trọn kiếp chung tình, mà là được gặp gỡ và trở thành phiên bản trọn vẹn nhất, tốt đẹp nhất, bình an nhất, của chính mình.

Cũng giống như một cái cây, đâu phải vì muốn kết duyên đôi lứa với một cành cây cọng cỏ nào khác, nên mới sum suê xanh tốt. Cây cối, tự mình vươn cành, vì mình xanh mướt.

Việc của cây là xanh. Không bận tâm vì ai mà tươi tốt. Cũng không vì ai lìa bỏ mà héo tàn.

Vậy nên, việc của chúng ta,

là cứ bình an,

là cứ hạnh phúc.

Đọc bài viết

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura – Chuyến Tây du khảo cứu nhằm canh tân dưới thời Duy Tân Minh Trị

Published

on

Trích từ: Sứ đoàn Iwakura
Tác giả: Ian Nish
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2023

Nhắc đến Duy Tân Minh Trị, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Chuyến công du Iwakura với khẩu hiệu nước giàu quân mạnh và độc lập dân tộc

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh), và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây.

Iwakura Tomoki (người mặc trang phục truyền thống Nhật Bản) bên cạnh 4 phó sứ, từ trái sang phải, Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Hình ảnh được Ishiguro Keisho sưu tầm).

Họ bắt đầu bằng Sứ mệnh Iwakura do công tước Iwakura Tomomi (1835-1883) dẫn đầu với khoảng 50 thành viên gồm nhiều nhân vật chính phủ cao cấp, trong đó có Ito Hirobumi, lúc đó mới 30 tuổi và là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, chưa tính khoảng 60 du học sinh phục vụ việc thông dịch, thông tin. Họ đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu, như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Nga. Chuyến đi được thực hiện chỉ ba năm sau cuộc cách mạng Minh Trị, giữa lúc một cuộc khủng hoảng chính trị nổ ra tại quê nhà về bán đảo Triều Tiên.

Để động viên các sứ thần, Nhật hoàng Minh Trị đã đọc một bài diễn văn:

“Sau khi nghiên cứu và quan sát kỹ, “trẫm” có ấn tượng sâu sắc và tin rằng các quốc gia hùng mạnh và khai sáng nhất của thế giới là những quốc gia đã có những nỗ lực cần cù để vun xới trí tuệ, và tìm cách phát triển đất nước họ một cách đầy đủ và hoàn hảo... Nếu muốn ứng dụng khoa học, các kỹ xảo và những điều kiện của xã hội đang thịnh hành tại các quốc gia khai sáng, chúng ta hoặc phải tự học hỏi, hoặc gửi một đoàn nghiên cứu gồm những quan sát viên có óc thực tế đến các nước khác, tiếp thu những gì nhân dân đang thiếu để làm lợi cho quốc gia.”

Rõ ràng đây là trọng tâm của chuyến công du. Họ sẽ đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phố (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái. 

Họ muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhật Bản cởi mở chấp nhận những giá trị phương Tây

Sau chuyến công du kết thúc các nhà lãnh đạo Nhật Bản nhận định rằng, nguy cơ trực tiếp cho nền độc lập Nhật Bản không cấp bách như họ nghĩ. Sự ưu việt của phương Tây chưa lâu, và Nhật Bản có thể đuổi kịp. Kume chỉ ra trong nhật ký hành trình: “Của cải và sự phồn vinh ở mức độ đáng kể mà người ta nhìn thấy tại châu Âu xuất hiện sau 1800... Năm 1830, tàu thủy hơi nước và xe lửa mới xuất hiện. Đó là sự thay đổi đột ngột trong nền thương mại châu Âu, và người Anh là người đầu tiên dồn hết năng lượng đầu tư vào sự đổi mới.”

Nhật Bản do đó chưa phải là tuyệt vọng. Tuy nhiên, phải nhanh chóng thay đổi toàn diện. Sự đối đầu quân sự chưa phải lúc, mà phải chấn hưng đất nước trước (như Phan Châu Trinh sau này). Đoàn có mang theo một số người bảo thủ, để cho họ thấy, phải cải cách đất nước trước, và một số người quá khích để họ thấy đối đầu quân sự là vô vọng. Những năm 1863-1864, dưới thời Hoàng đế Komei, bố của Minh Trị, người rất thù ghét phương Tây, Nhật Bản đã gây chiến với hải quân các nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Hà Lan, nhưng đại bại, và phải bồi thường $3.000.000, một bài học đắt giá. Khác với những chuyến công du khác trong lịch sử có đích đến là Trung Hoa, chuyến đi này hướng về phương Tây.

Đoàn cũng nhận ra sâu sắc rằng, không có sự tham gia của nhân dân vào các định chế đại nghị thì không thể có sự đồng thuận cho các hành động của chính quyền. Kido dẫn kinh nghiệm của Ba Lan để chứng minh rằng, thiếu vắng sự tham gia của dân chúng sẽ là tai họa cho nền độc lập quốc gia. Ông cho rằng Năm điều thề ước năm 1868 chính là nền tảng của Hiến pháp cho phép mọi người tham gia; rằng (điều 2) “tất cả các giai cấp, cao cũng như thấp, sẽ hợp lại thực hiện mạnh mẽ chương trình của chính quyền; (điều 3) “tất cả các giai cấp được quyền thực hiện những hoài bão của họ mà không gặp phải khó khăn nào”.

Họ hiểu và tỏ ra kính trọng hơn giá trị của tôn giáo trong đời sống công dân cũng như chính trị. Khi trở về họ đã bỏ lệnh cấm hành đạo Kitô giáo.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Năm nữ sinh được gửi đi du học theo Sứ tiết Iwakura, từ trái sang phải: Nagai Shigeko, Ueda Teiko, Yoshimasu Ryoko, Tsuda Umeko và Yamakawa Sutematsu.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực, ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ Giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các đại học và các tổ chức học thuật khác. Năm 1873, Bộ Giáo dục phải trả một số tiền bằng khoảng 14% ngân quỹ cho giáo viên nước ngoài. Năm 1877 một phần ba ngân quỹ của Đại học Tokyo là dành cho người nước ngoài. Nhật Bản lần lượt thực hiện hai cuộc cách mạng công nghiệp trọng tâm, thứ nhất là công nghiệp nhẹ, thứ hai là công nghiệp nặng. 

Sứ đoàn Iwakura thực hiện đúng điều thứ 5 trong Năm điều thề ước của Hoàng đế Minh Trị và các nhà lãnh đạo trẻ xung quanh ông, rằng: “Tri thức phải được tìm kiếm khắp nơi trên thế giới, để mở rộng và tăng cường quyền lực của đế chế”. 

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Chưa có dân tộc nào có năng lực quan sát trung thực và đưa ra những ý tưởng dự phóng, cũng như đủ quyết tâm theo đuổi đến khi thành công như họ.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura và bí mật từ chuyến Tây du lịch sử khiến nước Nhật phát triển thần kỳ

Published

on

Sứ đoàn Iwakura

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem văn minh khai sáng “về trồng” trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh) và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây. 

Chuyến hải hành khám phá Hoa Kỳ và các nước châu Âu của sứ đoàn Iwakura kéo dài 1 năm 10 tháng (1871 - 1873), với một phái đoàn hùng hậu, gồm khoảng 100 người. Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. 

Quyển sách Sứ đoàn Iwakura, tác giả Ian Nish biên soạn.

Ban đầu, họ lên kế hoạch đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phổ (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái.

Sứ đoàn Iwakura muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhà sử học Kume Kunitake nhìn thấy ở các viện bảo tàng Hoa Kỳ bản ghi chép về quá trình khai sáng, ông ý thức được rằng: “Nếu ý chí của con người không mạnh, họ không thể mở rộng quyền lực vươn ra khoảng cách lớn. Sự hưng vong của các quốc gia liên quan đến ý chí con người (dân tộc). Kỹ năng và sự giàu có, những điều này chỉ là thứ hai”.

Iwakura Tomomi (người mặc trang phục truyền thống) cùng 4 phó sứ (từ trái sang) Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Ảnh: Ishiguro Keisho sưu tầm

Đối với phó sứ Kido không gì tạo ấn tượng cho ông bằng giáo dục ở Hoa Kỳ. Ông viết: “Không có gì khẩn trương đối với chúng ta hơn là các trường học, trừ khi chúng ta tạo được một nền tảng quốc gia vững vàng không lay chuyển được, chúng ta không thể nào nâng cao thanh thế đất nước trong nghìn năm tới... Dân tộc chúng ta không khác với các dân tộc Mỹ và châu Âu ngày nay; đó là vấn đề của giáo dục, hay sự thiếu hụt giáo dục”.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các trường đại học và các tổ chức học thuật khác. 

Hình ảnh đoàn cấp cao do nhà quý tộc Iwakura Tomomi dẫn đầu đến thăm Hoa Kỳ và các nước phương Tây vào năm 1871 với sứ mệnh Iwakura. Nguồn ảnh Kameda Kinuko.

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Cuộc canh tân Nhật Bản theo mô hình phương Tây, như thực tế là con đường nhanh nhất. Năm 1895, Nhật Bản đã đánh thắng quân đội nhà Thanh của Trung Hoa. Cùng lúc, các quốc gia phương Tây chính thức chấp nhận các hiệp ước thương mại bình đẳng như giữa họ với nhau, có hiệu lực năm 1899, thay cho hiệp ước cũ bất bình đẳng. Điều đó mặc nhiên công nhận Nhật Bản bước vào “câu lạc bộ” các quốc gia phát triển. Chỉ vỏn vẹn sau 30 năm! Nhật Bản đã sao chép thành công mô hình xã hội phương Tây và cuộc công nghiệp hóa chỉ trong vòng ba thập niên mà không có mô hình phát triển nào trước đó làm tiền đề, quả thật là điều thần kỳ. 

Một trong những nhật báo, Kokunim Shimbun, hãnh diện đăng đàn rằng: “Như hệ quả của cuộc chiến (Trung - Nhật), vị thế của Nhật Bản trên thế giới đã thay đổi với sự lộ diện của ba đặc tính cơ bản của người Nhật. Trước hết, Nhật Bản vượt trội thế giới ở lòng ái quốc. Thứ hai, ở năng lực có một không hai là hấp thụ, sử dụng và ứng dụng nền văn minh hiện đại. Thứ ba, là bản chất hay tính khí mạnh mẽ và vững chắc”.

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Năm 1878, biên bản hành trình của Kume Kunitake được xuất bản thành một bộ sách năm tập có tên Beio Kairan Jikki, gọi tắt là Kairan Jikki, được in lại nhiều lần từ năm 1977, có giá trị như bộ sử của chính phương Tây công nghiệp hóa thế kỷ XIX dưới cái nhìn sắc sảo của các lãnh đạo Nhật Bản. Đây là một bộ sách kinh điển rất đáng được tham khảo, nhất là cho những quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Những bài học năm xưa đọc lại vẫn thấy còn nóng hổi.

Trích đoạn

Không có sự phồn vinh, văn hóa của nhân dân không thể phát triển. Để cho lòng ái quốc tăng trưởng, nó phải phục vụ việc tạo ra của cải. Người ta nói, chúng ta phải bảo vệ đất nước, nhưng ích lợi gì nếu đất nước chỉ là mảnh đất cằn cỗi?

Chính sách quốc gia của Nhật Bản "mở cửa đất nước" không chỉ là một hành động mang tính ngoại giao. Nhiều quốc gia trên thế giới mở rộng cửa nhưng vẫn tiếp tục thực hành các tập quán man di, và bất lực trong cải cách, cũng như tu chỉnh các tập quán đó để có thể tiến lên trình độ văn minh", Ito Hirobumi - Thủ tướng đầu tiên của Nhật Bản.

***

"Chuyến đi có hai mục tiêu, thứ nhất là muốn giới thiệu với phương Tây về những gương mặt lãnh đạo mới của Nhật Bản và thương thảo lại các hiệp ước bất bình đẳng. Thứ hai là quan sát và đánh giá sự phát triển của phương Tây trong mọi lĩnh vực, từ chính trị, quân sự, văn hóa đến khoa học, công nghệ, sản xuất, thương mai, giáo dục và cách tổ chức quốc gia. Qua đó, tìm một mô hình khả thi phù hợp cho Nhật Bản nhằm chuyển đổi xã hội phong kiến lâu đời sang một quốc gia hiện đại, điều chưa có tiền lệ ngoài khu vực phương Tây. Nói đến Minh Trị Duy Tân, người ta không thể không nhắc đến chuyến đi lịch sử có tầm quan trọng chiến lược này", trích đoạn từ sách Sứ đoàn Iwakura, Ian Nish.

Về tác giả

Ian Nish (1926 – 2022) là học giả người Anh, nhà nghiên cứu Nhật Bản học, Giáo sư danh dự về Lịch sử Quốc tế tại Học viện Kinh tế và Chính trị London.

Đọc bài viết

Cafe sáng