Trích đăng

Chương 1&2 “Bông Hồng Cài Áo” – Thích Nhất Hạnh

“Bông hồng cài áo” là tên một đoản văn viết về Mẹ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Nhà sư viết “Thương mẹ là một cái gì rất tự nhiên… Thương mẹ không phải là một vấn đề luân lý đạo đức. Anh mà nghĩ rằng tôi viết bài này để khuyên anh về luân lý đạo đức là anh lầm. Thương mẹ là một vấn đề hưởng thụ… Một món quà như mẹ mà còn không vừa ý thì họa chăng có làm Ngọc hoàng Thượng đế mới vừa ý, mới bằng lòng, mới sung sướng. Nhưng tôi biết Ngọc hoàng không sung sướng đâu, bởi Ngọc hoàng là đấng tự sinh, không bao giờ có diễm phúc có được một bà mẹ.”

Published

on

Chi tiết tác phẩm

Trích từ: Bông hồng cài áo

Tác giả: Thích Nhất Hạnh

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Tái bản: tháng 7.2019

Mẹ và Cha được danh tặng

“Bà La Môn,” “thầy cô sớm nhất”

và xứng đáng được tôn quý

vì hết lòng thương yêu

đám nhỏ trong gia đình.

Vì thế, người khôn ngoan

ca ngợi và vinh danh cha mẹ,

tặng đồ ăn thức uống

với quần áo chăn mùng

xức dầu và tắm gội

và rửa chân mẹ cha.

Khi người khôn ngoan

phục vụ cha mẹ như thế

thì chàng được ca ngợi

bây giờ và ở đây

và được lên cõi tịnh

sau giờ phút lâm chung.

Kinh Buddha, Itivuttaka 106

Bạn còn nhớ gì về những ngày nằm trong bụng mẹ không?

Chúng ta ai cũng từng nằm ở đó khoảng chín tháng. Một khoảng thời gian khá lâu. Tôi tin chắc ai trong chúng ta cũng có cơ hội mỉm cười trong khoảng thời gian ấy. Nhưng ta mỉm cười với ai?

Khi ta vui, tự nhiên ta sẽ có xu hướng mỉm cười. Tôi đã thấy nhiều người, nhất là trẻ con, mỉm cười trong giấc ngủ.

Sau khi chào đời ta có những lúc không vừa ý, nên đa số chúng ta đều cảm thấy rằng thời gian trong bụng mẹ là một thời gian tuyệt vời. Ta khỏi phải lo lắng về thức ăn thức uống. Ta được che chở khỏi nóng và lạnh. Ta khỏi làm bài tập ở nhà và công việc bếp núc. Khi được bảo vệ trong bụng mẹ ta cảm thấy an toàn. Ta khỏi phải lo lắng gì cả. Và điều đó thật là tuyệt vời.

Tôi chắc rằng nhiều người trong chúng ta vẫn còn nhớ về khoảng thời gian đó.

Nhiều người có cảm tưởng rằng ngày trước họ từng ở trong một thiên đàng an toàn tuyệt hảo nhưng nay đã bị lạc mất thiên đàng ấy. Ta nghĩ rằng đâu đó ngoài kia có một nơi chốn xinh tươi không có gì phải lo lắng và sợ hãi, nhưng không phải, và thế là ta ao ước được trở về nơi chốn trong bụng mẹ. Trong tiếng Việt chữ “tử cung” có nghĩa là cung điện của hài nhi. Thiên đàng nằm trong lòng mẹ.

Khi nằm trong bụng mẹ, bạn được mẹ chăm sóc. Mẹ ăn và uống cho bạn. Mẹ thở vào, thở ra cho bạn. Và tôi chắc mẹ cũng nằm mơ cho bạn nữa. Bạn mơ cùng một giấc mơ với mẹ. Khi mẹ mỉm cười, bạn cũng mỉm cười. Và nếu mẹ khóc khi mơ thấy chuyện buồn khổ thì tôi chắc bạn sẽ cùng khóc với mẹ. Bạn chia sẻ với mẹ những giấc mơ đẹp và cả những cơn ác mộng, bởi vì bạn và mẹ không phải là hai người riêng biệt. Cơ thể bạn được nối liền với mẹ bằng cuống rốn. Và mẹ truyền cho bạn qua cuống rốn ấy nào thức ăn thức uống, nào dưỡng khí, đủ hết, kể cả tình thương của mẹ. Bạn nằm đấy, bạn chưa chào đời nhưng đã là đối tượng của tình thương.

Hãy nên nhớ rằng bạn đã được mẹ nuôi dưỡng ngay từ khi bạn chưa chào đời. Nếu nhìn sâu, bạn sẽ thấy rằng đồng thời bạn cũng nuôi dưỡng mẹ. Vì có con trong lòng mà cơ thể mẹ thay đổi và lớn lên. Có thể mẹ mệt mỏi hơn, kém sức hơn, nhưng đồng thời mẹ hay mỉm cười hơn và cả yêu đời nhiều hơn nữa.

Có lẽ trong khoảng thời gian ấy mẹ đã từng trò chuyện với bạn. Tôi chắc rằng bạn đã nghe mẹ nói chuyện, và bạn đã hồi âm. Có lẽ thỉnh thoảng mẹ quên rằng đang có con nằm trong bụng mẹ. Vì vậy bạn đã đá một cái để nhắc mẹ. Cái đá của bạn là một tiếng chuông chánh niệm. Nếu mẹ có thực tập tỉnh thức thì mẹ đã nói, “Con yêu quý, mẹ biết con có đó mà, và mẹ rất hạnh phúc.” Đó là câu thần chú thứ nhất. Nếu mẹ không nói như thế thì cơ thể mẹ cũng đáp lại rằng mẹ sẽ làm bất cứ điều gì cần thiết để nuôi dưỡng con.

Khi bạn vừa chào đời, sẽ có người cắt cuống rốn của bạn. Và bạn ré lên khóc lần đầu tiên trong đời. Bây giờ thì bạn phải tự mình hít thở. Bạn phải làm quen với ánh sáng xung quanh. Bây giờ lần đầu tiên bạn biết đói bụng. Bạn đã ở ngoài cơ thể của mẹ, nhưng bạn vẫn còn nằm trong mẹ, vẫn còn tùy thuộc vào mẹ. Chẳng hạn như bạn phải bú vú mẹ. Và mặc dù cuống rốn giữa mẹ con đã bị cắt đứt, bạn vẫn còn liên hệ mật thiết với mẹ một cách cụ thể.

Là một em bé, bạn biết mình có liên hệ với mẹ; và khi là một người mẹ, bạn sẽ cảm thấy sự gắn kết với con mình. Nếu là mẹ, bạn có thể hình dung bạn với con là một. Nhưng nếu bạn giữ chặt con và bắt nó phải giống hệt như mình thì điều đó không nên. Thấy mình với con là một thì tốt, nhưng bé còn phải sống với nhiều ảnh hưởng khác nữa, và khi lớn lên, có thể bé sẽ có nhiều hiểu biết mới. Mỗi bà mẹ đều phải tập để thấy rằng con mình là mình, nhưng đồng thời cũng không phải là mình. Đứa con có cuộc đời riêng của nó. Bạn không thể cầm giữ đứa con và bắt nó phải đi về hướng của bạn, bạn không thể buộc nó phải làm những gì bạn thích vì bạn muốn uốn nắn nó theo khuôn đúc của bạn. Bởi vì nó không những là sự nối tiếp của bạn, mà còn là sự nối tiếp của nhiều thế hệ tổ tiên trước bạn nữa, và có thể cuộc đời bạn đã không có cơ hội được tưới tẩm những hạt giống tốt mà bạn thừa hưởng từ thế hệ tổ tiên. Do đó, bạn không được may mắn bằng con bạn. Cho nên khi con đã có nhiều hiểu biết mới, bạn phải học hỏi từ con.

Nếu mẹ không chịu để cho bạn độc lập trưởng thành, hay nếu bạn có khó khăn với mẹ, có lẽ bạn sẽ ráng tự thuyết phục rằng bạn và mẹ là hai người riêng biệt. Nhưng sự thực không hẳn thế. Bạn là sự tiếp nối của cả cha và mẹ. Khi tôi ngồi thiền, tôi có thể thấy được sợi dây rốn nối liền tôi và mẹ. Khi tôi nhìn sâu, tôi cũng thấy những dây rốn nối liền tôi với vạn vật. Bởi vì mặt trời mọc mỗi sáng mai, và nhờ có mặt trời, ta có nhiệt lượng và ánh sáng. Không có nhiệt lượng và ánh sáng thì ta không tồn tại được.

Thế thì sẽ có một dây rốn nối liền bạn với mặt trời. Và sẽ có một dây rốn khác nối liền bạn với những đám mây trên bầu trời. Bởi vì nếu không có mây thì sẽ không có mưa và không có nước để uống, nếu không có mây bạn cũng không có sữa, không có trà, không có cà phê, không có kem lạnh, không có gì hết. Và lại có một dây rốn nối liền bạn với dòng sông, một dây rốn khác nối liền bạn với rừng cây. Nếu bạn cứ tiếp tục thiền định, bạn sẽ thấy rằng bạn nối liền với mọi vật và mọi người trong vũ trụ. Cuộc đời bạn tùy thuộc vào mọi thứ khác đang có mặt như những sinh vật, cây cỏ, đất đá, không khí, nước và mọi thứ khác trên trái đất.

Giả sử bạn trồng một hạt bắp. Sau bảy ngày, hạt bắp nẩy mầm và trở thành một cây bắp. Khi cây bắp lên cao, có thể bạn sẽ không còn nhìn thấy hạt bắp mà bạn đã trồng. Nhưng bạn không thể bảo rằng hạt bắp đã chết. Với đôi mắt của Bụt, bạn vẫn có thể nhìn thấy hạt bắp giống trong cây bắp. Cây bắp là sự tiếp nối của hạt bắp giống về hướng tương lai, và hạt bắp giống là sự tiếp nối của cây bắp về hướng quá khứ. Cây bắp và hạt bắp giống không phải là một, nhưng chúng cũng không phải hoàn toàn khác biệt. Bạn và mẹ không hẳn là một người, nhưng cũng không phải là hai người riêng biệt. Đó là sự thật về sự phụ thuộc lẫn nhau. Sự thật là không ai có thể sống tách biệt một mình. Muốn sống thì bắt buộc ta phải tương tức với nhau.

Khi chúng ta còn nằm trong bụng mẹ, cơ thể ta không chịu sự căng thẳng.

Cơ thể ta lúc đó mềm mại và co dãn. Nhưng một khi ta đã chào đời, thì sự căng thẳng sẽ len vào, có khi ngay từ lần đầu tiên ta thở. Trước khi ta buông xả được sự căng thẳng trong thân thì ta phải buông xả sự căng thẳng trong hơi thở đã. Nếu thân ta không an thì hơi thở cũng không an. Khi ta chế tác được năng lượng chánh niệm và ôm lấy hơi thở thì phẩm chất của hơi thở vào và hơi thở ra sẽ được cải thiện. Khi ta thở trong chánh niệm, hơi thở của ta sẽ lắng dịu xuống và dài sâu hơn. Sự căng thẳng trong lúc thở sẽ biến mất. Và khi hơi thở đã được lắng dịu, ta có thể ôm lấy cơ thể và ta buông thư – Bụt gọi là “an tịnh”.

Có một bản kinh Pali gọi là kinh Kayagatasati,  Quán Thân Trong Thân.

Trong đó Bụt đề nghị thực tập để buông xả sự căng thẳng trong mỗi bộ phận của thân, và trong cả toàn thân. Để bắt đầu, bạn nằm dài trong một tư thế thoải mái và rọi chiếu chánh niệm lên toàn thân. Xong rồi bạn tập trung vào từng bộ phận của thân. Bắt đầu là cái đầu hay là tóc, và kết thúc với các ngón chân. Bạn có thể nói: “Khi thở vào tôi nhận biết não bộ của tôi. Khi thở ra, tôi mỉm cười với não bộ của tôi.” Và bạn tiếp tục với những phần còn lại của thân. Giống như người nông dân với một mớ hạt giống được đổ ra sàn nhà, người ấy có thể nhận ra và phân biệt rõ từng loại hạt giống. Cũng vậy, khi bạn rọi chiếu lên từng bộ phận của thân – không phải bằng tia quang tuyến X mà bằng ánh sáng chánh niệm.

Mười lăm phút cũng đủ để rọi chiếu lên thân và làm xoa dịu sự căng thẳng của thân bằng năng lượng chánh niệm.

Khi tâm hoàn toàn tỉnh thức, nhận ra được một phần của thân và ôm lấy phần ấy với năng lượng của chánh niệm, thì phần cơ thể ấy được thư giãn và buông xả mọi căng thẳng. Vì vậy ta hiểu tại sao mỉm cười là một phương cách tốt để giúp cơ thể buông thư. Những nụ cười đầu tiên trong bụng mẹ là những nụ cười hoàn toàn buông thư. Có hàng trăm bắp thịt trên mặt bạn, và khi bạn nổi giận hay sợ hãi thì chúng rất căng thẳng. Nhưng nếu bạn thở vào và nhận biết chúng, thở ra và mỉm cười với chúng, bạn có thể giúp các bắp thịt ấy thư giãn. Với một hơi thở vào và một hơi thở ra là vẻ mặt của bạn đã được chuyển hóa. Một nụ cười có thể đem đến sự mầu nhiệm.

Trong kinh Quán Thân Trong Thân, Bụt khuyên ta nên nhận biết bốn yếu tố thiên nhiên trong cơ thể là nước, lửa, không khí và đất. Ở trong tử cung, bốn yếu tố này hoàn toàn cân bằng. Người mẹ giữ cân bằng trong tử cung cho con bằng cách gửi vào dưỡng khí và chất bổ dưỡng trong khi con nằm nghỉ ngơi. Một khi ta được sinh ra, nếu bốn yếu tố ấy của ta cân bằng thì ta được mạnh khỏe. Nhưng nhiều lúc bốn yếu tố ấy thiếu thăng bằng, cơ thể ta không ấm lên được hay ta không thở nổi một hơi dài. Thông thường thì một hơi thở có ý thức có thể đem bốn yếu tố ấy trở về trạng thái cân bằng một cách tự nhiên.

Bụt cũng khuyên ta nên nhận biết những tư thế và cử động của thân. Lúc ngồi thiền, điều đầu tiên ta phải nhận thức là ta đang ở trong tư thế ngồi. Rồi sau đó bạn có thể tìm cách ngồi nào đem lại cho bạn sự an ổn, sự vững chãi và thoải mái. Mỗi phút giây ta đều nhận thức tư thế của thân ta, ta đang ngồi, đang đi, đang đứng hay đang nằm. Ta có thể nhận thức những cử động của ta, ta đang đứng dậy, cúi xuống hay đang khoác áo. Sự nhận thức đem ta trở về với chính ta. Và khi ta hoàn toàn nhận thức được thân ta đang sống ngay đây và ngay bây giờ, thì ta đang ở trong mái nhà đích thực của ta.

Có những người cảm thấy không thoải mái khi ở nhà cha mẹ. Lại có những người không thoải mái khi ở xa gia đình. Nhưng mỗi người đều có một mái nhà đích thực, cũng đích thực và tinh khiết như cung điện của hài nhi. Ngay cả nếu bạn có cảm giác mình không thuộc về một vùng đất nào, một quốc gia nào, một địa điểm nào, một nền văn hóa nào, hay một dân tộc nào thì bạn vẫn có một mái nhà đích thực. Bạn cảm thấy thoải mái tự nhiên như khi còn nằm trong bụng mẹ. Và có lẽ bạn ao ước được trở về một nơi chốn cũng thanh bình và an toàn như thế. Nhưng bây giờ, ngay bên trong cơ thể bạn, bạn cũng có thể trở về nhà.

Mái nhà đích thực của bạn là ở đây và bây giờ. Nó không bị giới hạn bởi thời gian, không gian, quốc tịch hay chủng tộc. Mái nhà đích thực của bạn không phải là một ý tưởng trừu tượng, nó là một cái gì bạn có thể tiếp xúc và sống trong từng giây phút. Với chánh niệm và định lực – là những năng lượng của Bụt, bạn có thể tìm thấy mái nhà đích thực của bạn ngay trong sự buông thư hoàn toàn của tâm và thân trong giây phút này. Không ai có thể lấy nó ra khỏi bạn. Người ta có thể xâm chiếm đất nước của bạn, thậm chí có thể nhốt bạn vào tù, nhưng họ không thể cướp được mái nhà đích thực và sự tự do của bạn.

Khi ta ngưng nói năng suy nghĩ và ta thưởng thức hơi thở vào ra, là lúc ta vui thích được ở dưới mái nhà đích thực của mình, là lúc ta có thể tiếp xúc sâu sắc với những điều kỳ diệu của cuộc sống. Đó là con đường đã được Đức Thế Tôn chỉ dạy. Khi bạn thở vào, bạn đem thân và tâm bạn đến với nhau, trở thành một mối. Và khi được trang bị năng lượng của niệm và định, bạn bước tới một bước. Bạn có tuệ giác rằng đây chính là mái nhà đích thực của bạn – bạn đang sống, bạn đang có mặt thật sự, bạn đang tiếp xúc với sự sống như là một thực tại. Mái nhà đích thực của bạn là một thực tại vững chắc mà chân bạn, tay bạn và tâm của bạn có thể tiếp xúc được.

Điều quan trọng là bạn tiếp xúc được với mái nhà đích thực của mình, và nhận thức được rằng mái nhà đích thực đó có ngay ở đây và bây giờ. Tất cả chúng ta đều có hạt giống của niệm và định. Khi thở một hơi trong chánh niệm, hay đi một bước trong chánh niệm, bạn có thể đem tâm trở về với thân. Trong đời sống hàng ngày, thân và tâm của bạn thường đi về hai hướng khác nhau. Thế là bạn bị lãng trí, tâm một đàng, thân một nẻo. Thân thì đang khoác áo lạnh nhưng tâm thì đang lơ đãng, vướng bận với những điều trong quá khứ hay tương lai. Nhưng giữa tâm và thân vẫn có một cái gì đó: đó là hơi thở của bạn. Và ngay khi bạn trở về với hơi thở, bạn thở trong tỉnh thức, thân và tâm bạn lại trở về với nhau rất nhanh chóng. Trong khi thở vào, bạn không nghĩ gì cả; bạn chỉ tập trung sự chú ý vào hơi thở vào đó. Bạn tập trung, bạn đầu tư một trăm phần trăm con người bạn vào hơi thở vào.

Bạn trở thành hơi thở vào của bạn. Sự tập trung vào hơi thở vào sẽ làm thân tâm bạn trở về một mối trong khoảnh khắc. Và ngay lúc đó bạn thấy bạn thực sự có mặt, bạn đầy sức sống. Bạn không còn ao ước trở về cung điện của hài nhi nữa, trở về nơi thiên đàng hoàn hảo nữa. Bạn đã ở đấy rồi. Bạn đã về đến ngôi nhà của mình rồi.

-Còn tiếp-

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Dòng dõi đại quý tộc – Trích “Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York”

Published

on

Trích từ: Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York - Cuộc Chiến Vương Quyền Anh Quốc

Tác giả: Alison Weir

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 12.2024

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

DÒNG DÕI ĐẠI QUÝ TỘC

Kể từ năm 1154, nước Anh nằm dưới quyền cai trị của nhà Plantagenet và việc kế vị ngai vàng đã diễn ra khá êm ả từ cha sang trưởng nam hoặc từ anh sang em trai. Các vị vua nhà Plantagenet, những người theo truyền thuyết được cho là hậu duệ của Quỷ vương, hầu hết là những người năng động và là những nhà lãnh đạo lỗi lạc, mạnh mẽ, hiếu chiến, dũng cảm, công bằng và khôn ngoan. Họ có chung những đặc điểm nổi bật là mũi khoằm, tóc hung và tính khí dữ tợn.

Edward III (1327-1377) là vị vua điển hình của nhà Plantagenet – cao lớn, kiêu hãnh, oai nghiêm và khôi ngô với nét mặt như tạc, mái tóc dài và bộ râu dài. Sinh năm 1312, ông mới chỉ mười bốn tuổi khi vua cha, Edward II, bị phế truất và sát hại, và đến năm mười tám tuổi, ông đã đích thân nắm quyền kiểm soát nước Anh.

Năm 1328, Edward kết hôn với Philippa xứ Hainault, người đã sinh cho ông mười ba người con. Những vụ ngoại tình không thường xuyên của nhà vua không mấy ảnh hưởng đến cuộc hôn nhân hạnh phúc kéo dài bốn mươi năm này. Edward thừa hưởng tính khí nóng nảy khét tiếng của nhà Plantagenet, nhưng hoàng hậu đã cố gắng kiềm chế ông; trong một biến cố nổi tiếng vào năm 1347, bà đã ngăn cơn thịnh nộ của Edward để cứu mạng những tên trộm bị kết án ở Calais mà nhà vua bắt được sau một cuộc bao vây kéo dài.

Edward sống xa hoa trong các dinh thự hoàng gia mà ông đã mở rộng thêm, và triều đình của ông nổi tiếng với tinh thần hiệp sĩ. Edward đặc biệt sùng kính Thánh George, vị thánh bảo trợ của nước Anh, và đã thực hiện nhiều điều để thúc đẩy sự mộ đạo này. Năm 1348, ông lập ra tước vị cao nhất dành cho hiệp sĩ là Order of the Garter, để tôn vinh Thánh George.

Quan trọng hơn cả, Edward mong muốn giành được vinh quang bằng những chiến công lớn. Năm 1338, lo ngại Pháp xâm lược lãnh địa Aquitaine, trung tâm nghề buôn rượu phát đạt của nước Anh, ông tuyên bố nắm quyền nước Pháp, khẳng định mình là người thừa kế đích thực nhờ dòng dõi của người mẹ vốn là em gái vị vua cuối cùng của nhà Capet [vương triều cai trị nước Pháp từ 987 đến 1328]. Tuy nhiên, cổ luật Salic Franks vốn cấm phụ nữ kế vị hoặc truyền ngôi, và người Pháp đã trao vương miện cho em họ của Edward là Philip xứ Valois, người thừa kế nam của nhà Capet.

Việc Edward ghép biểu tượng hoa huệ của Pháp với con báo của Anh trên gia huy của mình đã dẫn đến cuộc xung đột mà sau này được gọi là Chiến tranh Trăm năm vì nó kéo dài liên tục trong hơn một thế kỷ. Dưới sự lãnh đạo của Edward, người Anh lúc đầu đã giành được một số thắng lợi: Sluys năm 1340, Crécy năm 1346 và Poitiers năm 1356. Đây là những trận chiến quan trọng đầu tiên mà các cung thủ người Anh thể hiện uy thế trước kỵ binh Pháp nặng nề giáp sắt. Tuy nhiên, những thành công ban đầu của người Anh không bền lâu, và vào năm 1360, Edward buộc phải trả lại một số vùng đất đã chiếm được theo các điều khoản của Hiệp ước Brétigny, kết thúc giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh này. Khi Edward qua đời, ngoài lãnh địa Aquitaine, lãnh thổ trên đất Pháp của ông chỉ có năm thành trấn và vùng đất xung quanh Calais mang tên Pale.

Triều đại của Edward III chứng kiến nhiều thay đổi. Nghị viện được chia thành viện Quý tộc và viện Thứ dân, bắt đầu tổ chức những cuộc họp thường xuyên và khẳng định quyền lực của mình thông qua các biện pháp kiểm soát tài chính. Chức năng chính của Nghị viện vào thời kỳ này là biểu quyết việc đánh thuế, và về mặt này, không phải lúc nào Nghị viện cũng thuận theo ý muốn của nhà vua. Năm 1345, các pháp viện được thiết lập cố định tại London chứ không còn lưu động theo nhà vua khắp vương quốc nữa. Năm 1352, lần đầu tiên tội phản nghịch được đưa vào luật. Năm 1361, cơ quan Tư pháp Trị an (Justice of the Peace) được thành lập – trong đó những người có địa vị và uy tín tốt ở địa phương được bổ nhiệm làm thẩm phán (magistrate) – và một năm sau, tiếng Anh thay thế tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ chính thức tại các pháp viện. Triều đại Edward cũng chứng kiến sự thịnh vượng của các tầng lớp thương nhân và sự khởi đầu của việc truyền bá giáo dục trong thường dân.

Vua Edward là nhà bảo trợ hàng đầu cho giới họa sĩ, văn sĩ và kiến trúc sư. Nguồn gốc của lối kiến trúc trực giao kiểu Anh (Perpendicular) có thể bắt nguồn từ triều đại này. Đây cũng là thời kỳ xuất hiện những tên tuổi tiên phong của nền văn học Anh như nhà thơ Richard Rolle, Geoffrey Chaucer, John Gower và William Langland. Trường ca Piers Plowman của Langland là bản cáo trạng về sự áp bức mà người nghèo phải gánh chịu sau đại dịch Cái Chết Đen, và về Alice Perrers, người tình tham lam khét tiếng đã thao túng Edward trong những năm tháng cuối đời.

Edward qua đời năm 1377. Khuôn mặt tượng gỗ, được rước trong tang lễ nhà vua hiện vẫn được lưu giữ ở tu viện Westminster, chính là chiếc mặt nạ đắp theo gương mặt Edward lúc băng hà, và qua khóe miệng xệ xuống ta có thể thấy được tác động của cơn đột quỵ khiến nhà vua qua đời.

Edward III có mười ba người con, trong đó có năm người con trai trưởng thành. Ông đã lo liệu cho họ bằng cách liên hôn với những nữ thừa kế người Anh và sau đó phong các con trai làm những công tước đầu tiên của nước Anh. Nhờ đó, ông đã tạo ra dòng dõi những đại quý tộc quyền lực có huyết thống hoàng gia, với những hậu duệ về sau sẽ tham gia vào cuộc chiến tranh đoạt ngai vàng.

Edward thường bị chỉ trích vì đã ban cho các con trai mình quá nhiều quyền lực, nhưng vào thời đó, nhà vua đương nhiên sẽ phải dùng hết khả năng của mình lo liệu và chu cấp đầy đủ để các con ông có thể duy trì những cơ ngơi và đội ngũ tùy tùng xứng đáng với địa vị hoàng gia của họ. Trong cuộc đời Edward, việc ông để các con của mình liên kết hôn với giới quý tộc cấp cao và nhờ vậy bảo đảm cho họ có được khối tài sản thừa kế đáng kể, đồng thời mở rộng thế lực hoàng gia, được coi là một công cuộc rất thành công. Năm 1377, viên Đổng lý đã nói ở phiên họp Nghị viện cuối cùng của Edward về lòng yêu thương và tin cậy trong hoàng tộc rằng “không vị vua Thiên Chúa giáo nào có được những người con trai như đức vua đã có. Nhờ ngài và các con trai của ngài, vương quốc này đã được cách tân, rạng danh và giàu có hơn bao giờ hết”.

Con trai cả, Edward xứ Woodstock, từ thế kỷ 16 đã nổi tiếng với biệt danh Vương tử Đen. Mới mười sáu tuổi, ông hoàng này đã được phong tước hiệp sĩ tại Crécy, và nhờ những chiến tích lừng lẫy trong mười năm tiếp theo, ông nổi tiếng là hiệp sĩ tài giỏi nhất trong các nước Thiên Chúa giáo. Biệt danh của ông có thể xuất phát từ bộ giáp phục màu đen hoặc, có lẽ đúng hơn, là do tính khí hung tợn của ông. Những năm về sau, do đau yếu triền miên, ông đã làm hoen ố danh tiếng của mình khi ra lệnh tiến hành vụ thảm sát tai tiếng những công dân vô tội ở Limoges. Ông qua đời trước vua cha vào năm 1376, để lại một người thừa kế, cậu bé Richard chín tuổi ở Bordeaux, người sẽ kế vị ông nội vào năm 1377 với vương hiệu Richard II. Một trong những điều trớ trêu của lịch sử là người kế vị vua Edward III lắm con nhiều cháu lại không có hậu duệ nào, một tình huống đã gián tiếp dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng nửa thế kỷ sau.

Đọc bài viết

Trích đăng

Lancaster và York: Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng

Published

on

Trích từ: Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York - Cuộc Chiến Vương Quyền Anh Quốc

Tác giả: Alison Weir

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 12.2024

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

GIỚI THIỆU

Trong quá trình hoàn tất tác phẩm trước, cuốn The Princes in the Tower, tôi nhận ra rằng ở phương diện nào đó, tôi chỉ mới kể một nửa câu chuyện. Lúc ấy tôi đang viết về giai đoạn cuối của cuộc chiến mang cái tên hoa mỹ là Chiến tranh Hoa hồng, một cuộc xung đột kéo dài hơn ba mươi năm, từ 1455 đến 1487. Trên thực tế, có đến hai cuộc Chiến tranh Hoa hồng; lần đầu kéo dài từ 1455 đến 1471, giữa hai gia tộc Lancaster và York, và lần sau từ 1483 đến 1487, giữa nhà York và nhà Tudor. Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng vốn chỉ được đề cập sơ lược trong The Princes in the Tower, cuốn sách mô tả khá chi tiết giai đoạn thứ hai của cuộc chiến này, thế nên tôi cảm thấy phần tiền truyện ấy vốn dĩ rất thú vị để viết tiếp. Vì vậy, cuốn sách này chính là câu chuyện xoay quanh hai gia tộc Lancaster và York thuộc giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng.

Trong suốt quá trình nghiên cứu, tôi đã xem xét nhiều nguồn tài liệu, cả cổ xưa lẫn hiện đại, và tất cả những nguồn hiện đại hầu như đều chỉ tập trung vào các khía cạnh quân sự và thực tiễn về chủ đề tôi viết. Cuốn sách này đương nhiên sẽ đề cập đến những vấn đề đó, với khá nhiều đoạn đi sâu vào chi tiết, nhưng mục đích chính của tôi là khắc họa vai trò của con người trong lịch sử – những nhân vật có liên quan, những vai chính của một trong những mối hận thù kéo dài nhất và có sức hấp dẫn nhất lịch sử nước Anh.

Trung tâm của cuộc chiến phe phái đẫm máu này là hình ảnh đáng thương của nhà vua tâm thần bất ổn Henry VI, sự cai trị kém cỏi và trí lực thiểu năng của ông đã khiến chính trị rối ren, dân chúng ta thán, các đại quý tộc bất hòa với nhau, dẫn đến chiến loạn liên miên và một trận ác chiến tranh giành ngôi vua. Đối thủ chính của Henry là Richard Plantagenet, Công tước xứ York, người lẽ ra phải là vua, theo luật trưởng nam thừa kế thời đó. Sau cái chết của Công tước York, quyền thừa kế ngai vàng của ông được trao cho con trai, người về sau trở thành vua Edward IV, một bạo chúa háo sắc dẫn đến sự sụp đổ của nhà Lancaster.

Cuốn sách này cũng là câu chuyện về cuộc tranh đấu ác liệt và ngoan cường của một người phụ nữ vì quyền lợi của con trai mình. Bị kẻ thù buộc tội đã đem một đứa con hoang đặt vào chiếc nôi hoàng gia, vợ vua Henry – hoàng hậu Margaret xứ Anjou – đã đứng lên chiến đấu vì vương triều Lancaster trong suốt nhiều năm, chống lại những khó khăn dường như không thể vượt qua nổi để bảo vệ ngôi vua của chồng và con trai mình. Bản thân điều này rất đáng chú ý, vì bà là một người phụ nữ trong thế giới hung bạo của đàn ông, nơi hầu hết nữ giới đều bị coi là những món hàng hóa có thể trao tay, và không có tư cách tham chính.

Còn rất nhiều khuôn mặt người trong tấn tuồng phản trắc và xung đột sẽ diễn ra dưới đây. Con trai của Margaret, Edward xứ Lancaster, vốn tính hung bạo từ nhỏ, đã khiến những người cùng thời không khỏi bàng hoàng trước sự nhẫn tâm sớm bộc lộ của y. Richard Neville, Bá tước xứ Warwick – “Warwick Kẻ Buôn Vua” – là nguyên mẫu của dạng quyền thần hùng mạnh quá mức cuối thời Trung cổ, người đã dựng lên và phế truất các vị vua, thế nhưng lòng trung thành của ông ta, suy cho cùng, chỉ dành cho chính bản thân mình. Chiến tranh Hoa hồng không chỉ dẫn đến sự sụp đổ của một vương triều mà còn cả những đại quý tộc như Warwick.

Tôi đã cố gắng mô tả sâu sát các thành viên của hai gia tộc Lancaster và York như những con người thực sự, có thể nhận diện qua cá tính và điểm yếu của từng người, chứ không chỉ qua những cái tên trên cây gia phả rối rắm. Nhà Beaufort, những đứa con hoang của John xứ Gaunt, hống hách hệt như những ông hoàng trước triều đình và, theo một số người, trên chiếc giường của hoàng hậu. Nhà Tudor cũng là dòng dõi hoàng tộc đáng ngờ, và – giống như nhà Beaufort – trung thành hết mực với nhà Lancaster, gia tộc mà sau này họ nhận quyền thừa kế từ đó. Cuốn sách nhắc đến những vị vua – như Richard II loạn thần và ngông cuồng, kẻ soán ngôi Henry IV, triều đại của ông ta bị hủy hoại bởi các cuộc nổi loạn và bản thân ông thì bị bệnh tật hành hạ; hay chiến binh lạnh lùng Henry V, người hùng của dân chúng, người đã phán đoán sai chính sách đối ngoại dẫn đến đại họa cho con trai mình, Henry VI. Và những vị hoàng hậu: Katherine xứ Valois kiêu sa và vô luân, người tìm kiếm tình yêu với một cận vệ xứ Wales sau cái chết của chồng là vua Henry V; hay Elizabeth Wydville, với nhan sắc lạnh lùng che giấu lòng tham và sự tàn bạo. Bên cạnh những nhân vật này, câu chuyện của chúng ta còn tràn ngập những con người sinh động, bí ẩn hoặc bi thảm, từ Jack Cade khét tiếng, kẻ cầm đầu một cuộc dấy loạn, đến John Tiptoft tàn ác, Bá tước xứ Worcester; và từ rất nhiều lãnh chúa hùng mạnh cho đến hai cô con gái yếu đuối và xấu số của Warwick, Isabel và Anne Neville. Tất cả đều liên quan, bằng cách này hay cách khác, đến cuộc xung đột dữ dội này. Đây quả thực là trường đoạn lịch sử của các phe phái, nhưng chính những người tạo nên các phe phái đó đã khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn đến vậy.

Lịch sử Chiến tranh Hoa hồng đã được thuật lại vô số lần bởi nhiều sử gia, nhưng ngày nay, hẳn sẽ không còn hợp thời nếu nhìn theo quan điểm của nhà Tudor mà cho rằng nguồn gốc của Chiến tranh Hoa hồng nằm ở việc phế truất Richard II, sự kiện xảy ra từ hơn năm mươi năm trước khi cuộc chiến này bùng nổ. Tuy nhiên, thực sự thì nguồn gốc của cuộc xung đột có thể truy ngược đến tận thời điểm đó; để hiểu được các nguyên nhân dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng và di sản triều đại của các nhân vật chính, ta cần ngược lại xa hơn nữa, đến thời kỳ dòng dõi đại quý tộc mang dòng máu hoàng gia được sáng lập bởi vị vua nhiều con cái nhất của vương triều Plantagenet, Edward III. Do đó, cuốn sách này không chỉ thuật lại câu chuyện về Chiến tranh Hoa hồng mà còn bàn về hai nhà Lancaster và York cho đến năm 1471.

Những nguồn sử liệu về thời kỳ này rất ít ỏi và thường không mấy rõ ràng, tuy nhiên, chừng đó nghiên cứu đã được thực hiện trong hàng trăm năm qua cũng đủ để soi sáng đôi chút cho chúng ta về giai đoạn thường được gọi là thời chạng vạng của thế kỷ 15. Nhiều ngộ nhận đã bị loại bỏ, nhưng dù vậy cuộc xung đột vương triều phức tạp này vẫn khiến nhiều người nhầm lẫn. Mục đích xuyên suốt của tôi là loại bỏ sự nhầm lẫn đó và cố gắng trình bày câu chuyện theo trình tự thời gian, nhằm làm rõ các vấn đề về việc kế vị ngai vàng vào thời đại mà không có quy tắc thừa kế nhất định nào được áp dụng triệt để. Tôi cũng cố gắng khiến cho giai đoạn thế kỷ 15 này trở nên sống động bằng cách đưa vào càng nhiều càng tốt những chi tiết về đời sống đương thời trong chừng mực khuôn khổ số trang cho phép, nhằm khiến cho chủ đề này phù hợp với mọi độc giả, dù có chuyên môn học thuật hay không. Nhưng chủ yếu là tôi cố gắng thuật lại một câu chuyện phi thường và tàn khốc về những cuộc tranh giành quyền lực ngôi cao có can dự đến một số nhân vật lôi cuốn nhất trong lịch sử nước Anh.

Câu chuyện này bắt đầu vào năm 1400 với vụ sát hại một vị vua và kết thúc vào năm 1471 với vụ sát hại một vị vua khác. Vụ giết người được cho là kết quả trực tiếp từ vụ kia. Câu chuyện về những gì đã xảy ra từ năm 1400 đến năm 1471, vốn được thuật lại trong cuốn sách này, sẽ là lời hồi đáp cho câu hỏi: Như thế nào?

Alison Weir

Surrey

tháng Hai 1995

Đọc bài viết

Trích đăng

Vào bếp nấu chè trôi nước ngũ sắc đưa ông Táo về trời – Trích “Thơm thảo xôi chè”

Published

on

Vào ngày 23 tháng Chạp hằng năm, ông Công ông Táo sẽ cưỡi cá chép lên Trời để báo cáo với Ngọc Hoàng Thượng đế tất cả những điều tai nghe mắt thấy ở trần gian cả việc tốt lẫn việc xấu và những gì chưa làm được. Từ đó, Thiên đình sẽ đưa ra thưởng phạt rõ ràng cho từng gia đình. Xuất phát từ tín ngưỡng đó, lễ đưa ông Công ông Táo về trời (hoặc gọi ngắn gọn là đưa ông Táo về trời) luôn được tiến hành trọng thể.

Trong ngày này, các gia đình thường làm lễ tiễn ông Táo về trời bằng cách thả cá chép. Ngoài ra, mọi người cũng làm mâm cỗ cúng để bày tỏ lòng thành kính với Táo Quân. Trong Thơm Thảo Xôi Chè, nghệ nhân bánh dân gian Trần Thị Hiền Minh đã khéo léo chia sẻ công thức nấu chè trôi nước ngũ sắc, một món ăn vừa đẹp mắt, vừa ngon miệng và rất thích hợp để bày mâm cỗ cúng ông Táo. Cùng Phương Nam Book tìm hiểu cách làm món này nhé!

CHUẨN BỊ NGUYÊN LIỆU
500g bột nếp
100g khoai lang tím
150g bí đỏ
300g khoai lang trắng
Nước cốt lá dứa, nước lá cẩm
400g đậu xanh bóc vỏ
150g đường cát
10g muối
100ml nước cốt dừa
Phần nước cốt dừa:
300ml nước cốt dừa
700ml nước dão dừa
20g bột gạo
20g bột bắp
5g hành lá
800g đường cát (nấu chè)
150g đường cát (nấu nước cốt dừa)
100g mè trắng
3g muối
100g gừng sẻ

THỰC HIỆN

Sơ chế:
• Mè rửa sạch, rang hoặc nướng trong lò nướng nhiệt 150 độ C đến khi vàng thơm.
• Gừng gọt vỏ, rửa sạch, xắt khoanh mỏng.
• Khoai lang, bí đỏ luộc chín, giã nhuyễn, để riêng từng phần. Chia bột thành 5 phần bằng nhau. Mỗi phần nhồi khoai lang và màu tương ứng cho hòa quyện.
• Dùng nước ấm nhồi với bột nếp đã trộn kỹ theo từng màu, nhồi nhanh tay để bột dẻo. Khi bột gần mịn đều, thêm nước từ từ tránh làm nhão bột, rồi để bột nghỉ 30 phút.
• Đậu xanh vo sạch, ngâm nở 2 giờ, vo lại cho hết nước chua rồi nấu chín, giã nhuyễn. Xào đậu xanh với 100ml nước cốt dừa và 100g đường trên lửa vừa, thêm 10g muối vào cho đậu béo bùi, đậm vị hơn. Khi đậu xanh không dính tay thì tắt bếp, cho hành lá cắt nhuyễn vào trộn đều. Vo viên đậu bằng cỡ trái chanh nhỏ.

Gói viên chè:
• Chia đều bột nếp, mỗi viên khoảng 30g, gói nhân đã chuẩn bị sẵn.
• Bắc nồi nước sôi luộc các viên chè. Khi chín viên chè sẽ nổi lên mặt nước, nấu thêm 2 phút cho viên chè chín kỹ rồi vớt ra ngâm vào nước lạnh.

Nấu chè:
• Cho 2 lít nước vào nồi cùng với 600g đường và vài lát gừng, bắc lên bếp nấu sôi.
• Cho các viên chè vào nồi nấu sôi chừng 5 phút để viên chè thấm đường và vị gừng, nhắc xuống.

Nấu nước cốt dừa:
• Cho nước dão dừa, đường cát, bột gạo, bột bắp, muối và vài cọng lá dứa vào nồi khuấy đều rồi mở bếp ở mức lửa nhỏ, nấu đến khi sôi, khuấy đều tay.
• Tiếp theo chế thêm nước cốt dừa, để hỗn hợp sôi lại, tắt bếp liền.

YÊU CẦU THÀNH PHẨM
• Nước đường trong, ngọt thanh, thơm dịu mùi lá dứa.
• Các viên chè dẻo mềm, không bị nứt hay nhão bề mặt.

Khi ăn, múc chè ra chén, chan nước cốt dừa vào, rắc thêm ít mè rang.

Chè trôi nước ngũ sắc không chỉ đẹp mắt mà còn mang ý nghĩa tượng trưng cho sự đầy đủ, may mắn và sự hòa hợp của năm mới. Khi thưởng thức, bạn sẽ cảm nhận được vị ngọt thanh của đường, vị béo của nước cốt dừa và độ dẻo dai của vỏ bánh trôi kết hợp hài hòa với nhân đậu xanh thơm ngon.

Thơm Thảo Xôi Chè là món quà dễ thương dành tặng những ai đam mê nấu nướng bởi nó không chỉ đẹp về hình thức mà còn hấp dẫn về nội dung. Ngoài việc hướng dẫn tỉ mỉ các công thức nấu, tác giả còn khéo léo thuật lại cuộc phiêu lưu ẩm thực qua hành trình tìm kiếm các sản vật quý địa phương. Cuốn sách dù đơn sơ, mộc mạc nhưng đã phần nào truyền tải thành công tình yêu nghề của người đầu bếp và trên tất cả là sự tinh tế của nền ẩm thực nước nhà.

Mời bạn tìm mua sách tại đây. Nếu có làm theo các công thức trong sách thì bạn nhớ chia sẻ cho Bookish biết với nha!

Chúc bạn một mùa Tết bình an và sung túc bên gia đình.

Đọc bài viết

Cafe sáng