Trà chiều

Brain on Fire – Căn bệnh hiếm gặp suýt hủy hoại đời một cô gái trẻ

Vào năm Susannah 24 tuổi, dù mọi thứ xung quanh (công việc, tình yêu, gia đình) đều đang rất tuyệt vời, nhưng tinh thần cô đột nhiên trở nên tồi tệ, suy sút và có những triệu chứng rất giống bệnh nhân tâm thần (mental illness).

Published

on

Brain on Fire không phải là một phim xuất sắc nếu xét về mặt ngôn ngữ điện ảnh, cách kể chuyện… Nhìn vào điểm số từ Rotten Tomatoes (13%) và Imdb (7.6), ta có thể phần nào hình dung sơ lược đánh giá về phim từ phía giới phê bình và khán giả phổ thông. Với sự chênh lệch điểm số như thế này, có thể tạm rút ra nhận định rằng phim không được lòng giới phê bình và đồng thời lại khá được lòng khán giả. Dù vậy, Brain on Fire là phim độc lập và được trình chiếu lần đầu tiên trong khuôn khổ LHP Toronto International Film Festival (TIFF). Tại buổi họp báo của phim trong TIFF, một nhà báo đã nhận xét rằng Brain on Fire quả là có đề tài nhắm đến liên hoan phim, là kiểu phim dễ được chấp nhận tại các nơi như liên hoan phim hơn. Thế nhưng, Brain on Fire đã thất bại trong chính mặt trận mà lẽ ra bộ phim chiếm được nhiều ưu thế.

Brain on Fire dựa trên câu chuyện có thật về Susannah Cahalan, phóng viên tờ báo New York Post. Vào năm Susannah 24 tuổi, dù mọi thứ xung quanh (công việc, tình yêu, gia đình) đều đang rất tuyệt vời, nhưng tinh thần cô đột nhiên trở nên tồi tệ, suy sút và có những triệu chứng rất giống bệnh nhân tâm thần (mental illness). Cô đã được các bác sĩ tâm thần (psychiatrist) chẩn đoán rằng cô mắc bệnh bipolar disorder (rối loạn lưỡng cực), hoặc schizophrenia (tâm thần phân liệt). Bằng thao tác tự tra cứu trên mạng, chính Susannah cũng từng tin rằng mình bị mắc một trong hai căn bệnh này. Thế nhưng, không một bác sĩ nào cho Susannah biết chính xác cô mắc căn bệnh nào cũng như nguồn gốc, nguyên nhân của nó. Những tưởng rằng cuộc đời Susannah sẽ kết thúc tại bệnh viện tâm thần nào đó, thậm chí là cái chết thì một kì tích đã xuất hiện. Viết đến đây, tôi phân vân không biết nên tiếp tục kể câu chuyện đời thực của Susannah hay không vì nếu tôi tiếp tục kể, 100% khả năng bạn sẽ biết toàn bộ câu chuyện và bị ảnh hưởng cảm xúc rất lớn khi xem phim. Tuy nhiên, nếu không kể hết câu chuyện của Susannah, tôi sẽ khó lòng triển khai bài phân tích chủ yếu đi sâu vào khía cạnh biên kịch của phim. Vì vậy, tôi tách đoạn ở đây. Từ đoạn phía dưới trở xuống sẽ tiết lộ toàn bộ nội dung câu chuyện, bạn nên cân nhắc trước khi tiếp tục đọc.  

Bác sĩ Souhel Najjar đã đến với Susannah trong lúc bệnh tình của cô tưởng chừng đi vào ngõ cụt, không lối thoát cho sự phục hồi. Ông là người duy nhất đã ngồi xuống bên gia đình Susannah, trò chuyện cùng họ về bệnh tình của cô trong suốt gần một tiếng đồng hồ – đây là khoảng thời gian dài gấp bốn lần so với bất kì bác sĩ nào từng thăm khám bệnh của cô trước đó. Bằng việc lắng nghe kĩ lưỡng những miêu tả triệu chứng từ gia đình Susannah, kết hợp với quan sát của bản thân, bác sĩ Souhel đã dự đoán rằng trường hợp của Susannah không phải là mental illness hay neurological illness – những nhóm bệnh cô không có tiền sử trước đó mà là biological illness, không phải là bệnh về tâm thần mà là bệnh về sinh lí. Ông quyết định cho Susannah thực hiện bài kiểm tra vẽ đồng hồ – đây vốn là bài kiểm tra dành cho những bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh Alzheimer, chủ yếu áp dụng cho người già; trước đó, hầu như không ai áp dụng bài kiểm tra này cho nhóm bệnh có triệu chứng bên ngoài như Susannah, cũng như cho những đối tượng có độ tuổi như cô. Nhưng khi Susannah thực hiện bài kiểm tra vẽ đồng hồ, chìa khóa để giải mã căn bệnh của cô đã hiện ra. Tất cả các con số đều nằm ở phía bên phải đồng hồ còn bên trái thì trống trơn. Điều đó có nghĩa là bán cầu não phải điều khiển chức năng của phần cơ thể bên trái đã bị tê liệt. Đó cũng là hình ảnh tượng trưng cho cách Susannah đã nhìn thế giới ở thời điểm ấy: chỉ một nửa, không đầy đủ, dẫn đến nhận thức bị sai lệch. Sau khi lấy tủy não và xét nghiệm, bác sĩ Souhel đã có kết luận chính thức về trường hợp của Susannah: cô bị mắc bệnh  Anti-NMDA receptor encephalitis (tạm dịch: bệnh viêm não do tự miễn thụ thể NMDA). Từ đó, Souhel đã tiến hành các phương pháp trị liệu cho Susannah và sau một năm, cô hoàn toàn khỏi bệnh. Trong quá trình dần hồi phục, Susannah đã viết hồi kí Brain on Fire: My Month of Madness kể lại khoảng thời gian cô mắc bệnh và điều trị. Bộ phim Brain on Fire dựa trên cuốn hồi kí này để chuyển thể thành phim.    

Vậy là, thông qua việc kể lại chuyện đời của Susannah, tôi vừa vi phạm nguyên tắc cơ bản của viết review phim: không tiết lộ toàn bộ nội dung phim. Đây là điều tôi cố gắng tránh trong những bài review phim kể từ sau năm 2011 đến nay. Thế nhưng, điều này cũng minh chứng cho việc kịch bản phim bám rất sát vào câu chuyện đời thực. Vậy nên, những ai đã biết câu chuyện đời thực của Susannah Cahalan sẽ có thể đối mặt với nguy cơ rất khó tìm được niềm vui từ việc khám phá cốt truyện khi xem Brain on Fire. Đây cũng chính là vấn đề lớn nhất mà bộ phim gặp phải.

Brain on Fire giữ nguyên toàn bộ tên người thật, địa điểm thật – vốn vẫn còn tồn tại trong đời thực lên phim. Điều đó khiến cho phim bị vướng vào mối ràng buộc chặt chẽ với thực tế, biên độ sáng tạo thêm được cho phép để tăng tính hấp dẫn của câu chuyện bị thu hẹp lại. Đương nhiên, không phải lúc nào việc tôn trọng nguyên tác sít sao cũng sẽ khiến bộ phim kém hấp dẫn bởi có rất nhiều câu chuyện đời thực kịch tích không thua gì phim. Thế nhưng, trong trường hợp của Susannah Cahalan với quyển tự truyện Brain on Fire thì lại khác. Căn bệnh hiếm gặp mà Susannah mắc phải đã hủy hoại trí nhớ của cô trong suốt những tháng mắc bệnh. Cô chỉ có kí ức rất mơ hồ về thời gian điều trị bệnh. Những chuyện cô viết trong Brain on Fire phần lớn dựa vào kí ức của người thân, những người đã chứng kiến cô trong thời gian bị bệnh, những cuộn băng ghi hình tại bệnh viện. Bằng thao tác phỏng vấn, tổng hợp thông tin, những kĩ năng của một nhà báo, Susannah đã viết lại câu chuyện của mình như một người quan sát từ bên ngoài hơn là một người trải nghiệm thực tế. Đây cũng là điều bản thân cô chia sẻ trong nhiều cuộc phỏng vấn. Chính vì vậy, dù chưa đọc Brain on Fire nhưng qua những thông tin đó, tôi nghĩ rằng quyển sách sẽ trình hiện từng bước suy sụp bên ngoài của Susannah khi bị căn bệnh tác động hơn là nội tâm bên trong, thế giới quan đầy bí ẩn, khó thâm nhập của cô trong những ngày ấy. Dù điều này có thực sự đúng với quyển sách hay không thì chính bộ phim Brain on Fire đã thể hiện chính xác đặc tính đó. Vậy nên, thay vì là cuốn phim tâm lí sống động về một cô gái đang hạnh phúc không may mắc phải căn bệnh hiếm gặp – điều mà lẽ ra Brain on Fire có thể làm được, bộ phim đã trở thành đoạn video minh họa mang tính giáo khoa về căn bệnh anti-NMDA receptor encephalitis. Vì lẽ đó, ở Brain on Fire, người xem không thấy được câu chuyện độc lập của một cá nhân mà chỉ thấy câu chuyện tiêu biểu của một cá thể đại diện cho một tập thể. Nếu chỉ tiếp xúc chủ thể trên khía cạnh miêu tả diễn biến của căn bệnh, hầu như không có nhiều khác biệt trong câu chuyện giữa Susannah Cahalan và Emily Gavigan (một bệnh nhân cũng mắc căn bệnh tương tự như Susannah, đã được chẩn đoán đúng bệnh nhờ người nhà xem chương trình về Susannah), hay bất cứ bệnh nhân anti-NMDA receptor encephalitis nào khác. Bộ phim đã thất bại ở mặt khắc họa tâm lí cá nhân.

Tuy nhiên, có thể điều thất bại nói trên cũng nằm trong chủ ý của đạo diễn Gerard Barrett. Trong buổi họp báo ra mắt phim tại TIFF, Barrett đã chia sẻ rằng anh không muốn áp đặt quá nhiều thứ thuộc về phong cách cá nhân lên bộ phim, như thế sẽ mất đi tính thông tin khách quan. Barrett muốn làm Brain on Fire với ý định nâng cao nhận thức cá nhân của người xem về căn bệnh lạ này. Quả thực, về mặt thị giác và phong cách kể chuyện, Brain on Fire không mang chút dấu ấn cá nhân nào, bộ phim hoàn toàn trung tính. Tôi nghĩ chính điểm này đã giết chết bộ phim. Có lẽ Barret đã quên rằng cảm xúc cá nhân cũng là một dạng thông tin quan trọng; khi một thông tin gắn liền với cảm xúc, thông tin đó sẽ trở nên dễ nhớ, dễ tiếp thu hơn rất nhiều. Tuy nhiên, tôi vẫn đồng cảm với quyết định của Barrett khi chợt nhớ đến những bộ phim truyền hình tôi yêu thích kể về những căn bệnh lạ một cách bình dị nhưng vẫn để lại nhiều cảm xúc như: One litre of tear, Taiyou no uta… Rõ ràng, phong cách nghệ thuật cá nhân áp đặt lên những góc máy, thị giác của bộ phim không phải là yếu tố lớn ảnh hưởng đến thành công của dòng phim loại này. Khi xét đến tất cả các nguyên nhân khiến cho Brain on Fire không thể trở thành bộ phim đáng nhớ hơn, tôi nhận ra thất bại cốt lõi vẫn nằm ở kịch bản phim. Việc quá trung thành với câu chuyện đời thực đã khiến Brain on Fire vướng phải một số lỗi cơ bản trong cấu trúc kể chuyện.

Đầu tiên, đó là cách chọn điểm nhìn. Brain on Fire có point of view không đồng nhất. Ở hồi I cho đến khoảng trường đoạn năm của hồi II sau midpoint một chút, phim được kể dưới góc nhìn của Susannah, đoạn mở đầu phim thậm chí còn bắt đầu bằng giọng voice over của cô. Thế nhưng từ cuối hồi II cho đến gần kết thúc phim ở hồi III – phần quan trọng nhất của câu chuyện, phim lại chuyển sang góc nhìn omniscience, hoàn toàn bỏ rơi góc nhìn của Susannah. Vấn đề khó khăn nhất của cô được giải quyết hoàn toàn bởi người khác (cụ thể ở đây là gia đình, bác sĩ Souhel), không phải từ chính cô. Nguyên nhân là do ở thời điểm căn bệnh tiến triển nặng, Susannah đã mất đi ý thức. Trong đời thực, Susannah thừa nhận rằng việc chữa khỏi căn bệnh của cô hoàn toàn do nỗ lực gia đình và may mắn khi cô có cơ duyên được bác sĩ Souhel chữa trị. Phép màu kì diệu này khi đưa vào phim lại không mấy xúc động bởi theo mạch của câu chuyện, khán giả không thấy thỏa mãn do vấn đề của nhân vật chính lại được giải quyết dựa vào may mắn. Yếu tố mang tính cơ duyên nếu xuất hiện ở hồi I hoặc muộn lắm là đầu hồi II sẽ dễ dàng được khán giả chấp nhận; tuy nhiên, ở thời điểm mang tính quyết định như hồi III, khi yếu tố này đột nhiên xuất hiện thì khán giả lại dễ cảm thấy chưng hửng. Đây là lỗi deus ex machina thường gặp trong kịch bản phim. Ví dụ điển hình thường gặp của lỗi này là câu chuyện về một người đàn ông nghèo khó cần một khoản tiền để làm việc gì đó, ông tìm mọi cách để kiếm đủ số tiền nhưng không đạt được mục đích, cho đến cuối phim ông trúng vé số độc đắc và có đủ số tiền mong muốn. Trong câu chuyện này, tấm vé số độc đắc chính là deus ex machina. Cách giải quyết vấn đề bằng deus ex machina sẽ khiến người xem cảm thấy không thỏa mãn vì sự may mắn đến một cách quá tình cờ, đúng lúc – rõ ràng có bàn tay sắp đặt của biên kịch ở đây. Trong đời sống thực tế, dù những chuyện như vậy thỉnh thoảng vẫn xảy ra nhưng tâm lí của người theo dõi dành cho một bộ phim hay một câu chuyện thường sẽ trông đợi vấn đề được giải quyết bằng chính nỗ lực của nhân vật hơn là cơ may. Quay trở lại câu chuyện trong ví dụ, giả sử ngay từ đầu người đàn ông đã biết đâu là tấm vé số trúng giải độc đắc, ông ta cố gắng bằng mọi cách để sở hữu tấm vé phục vụ cho mục đích của mình và ở hồi ba, ông ta có được tấm vé ấy. Khi thay đổi câu chuyện như vậy, lúc này tấm vé số không còn là deus ex machina nữa, nó trở thành mục tiêu cụ thể (goal) của ông để đạt được ước mơ (big dream). Và như thế, câu chuyện trở nên thuyết phục hơn, nhiều cảm xúc hơn với khán giả. Nếu không thể bỏ được deus ex machina ra khỏi câu chuyện thì vấn đề ở đây là thay đổi cách thức, thời điểm nó xuất hiện để nó không còn là deus ex machina nữa. Vấn đề của Brain on Fire cũng tương tự như vấn đề trong câu chuyện ví dụ này. Trên thực tế, bác sĩ Souhel chính là người đã mang đến phép màu cho Susannah và bộ phim cũng không thể loại bỏ bác sĩ ra khỏi câu chuyện được vì ông chính là mấu chốt để chữa trị căn bệnh của Susannah – vấn đề rắc rối lớn nhất mà nhân vật phải đối diện. Tuy nhiên, bác sĩ Souhel xuất hiện quá muộn: ông xuất hiện ở hồi ba, nhanh chóng chữa khỏi bệnh cho Susannah và sau đó phim kết thúc chóng vánh đến mức người xem chưa kịp thấy mối liên hệ giữa ông và Susannah. Như vậy, sẽ ra sao nếu để bác sĩ Souhel xuất hiện sớm hơn? Lúc Susannah chưa bị bệnh hoặc chỉ mới chớm bệnh, ông đang ở đâu? Rõ ràng, nếu kể câu chuyện về Susannah theo góc nhìn của cô hay thậm chí theo góc nhìn omniscience thì bác sĩ Souhel không thể xuất hiện sớm hơn một cách tự nhiên được. Nhưng chính bác sĩ Souhel là người đã giải quyết vấn đề ở hồi ba. Vì vậy, tôi nghĩ đến một cách giải quyết là đổi lại người kể chuyện: câu chuyện Brain on Fire sẽ được kể dưới góc nhìn của bác sĩ Souhel ngay từ hồi I. Như thế, có thể khiến bộ phim dẫn dắt cảm xúc khán giả tốt hơn không?

Ngoài ra, như đã đề cập, một vấn đề nữa của kịch bản phim là chưa thật sự khắc họa được mối quan hệ giữa các nhân vật xoay quanh trung tâm là Susannah. Phim chỉ mới dừng lại ở việc miêu tả sơ lược mối quan hệ giữa cô và gia đình, người yêu, bác sĩ Souhel mà chưa nêu bật được nét đặc trưng riêng trong sự kết nối của họ. Brain on Fire khắc họa mối quan hệ giữa Susannah với các đồng nghiệp tạm ổn nhưng tuyến nhân vật đồng nghiệp chỉ xuất hiện đến khoảng trường đoạn ba của bộ phim và gần như biến mất ở các điểm quan trọng nhất trong câu chuyện. Gia đình, người yêu, bác sĩ Souhel – những người đã ở bên cạnh Susannah trong những thời điểm quan trọng nhất mà lẽ ra nếu mối quan hệ giữa họ và Susannah được khắc họa chi tiết hơn thì có thể câu chuyện sẽ được dẫn dắt bằng nhiều cảm xúc hơn.        

Brain on Fire không phải là một phim hay nhưng nếu xét trên khía cạnh cung cấp thông tin, nâng cao nhận thức về căn bệnh Anti-NMDA receptor encephalitis, nó có thể là tia hi vọng cho ai đó đang mắc phải hoặc có người thân mắc phải căn bệnh này nhưng bị chẩn đoán sai lầm. Nó cũng là lời nhắc nhở về việc cơ thể chúng ta phức tạp ra sao, tinh vi ra sao, và vì quá phức tạp, quá tinh vi, y học vẫn thường bỏ sót những trường hợp hỏng hóc tế vi ở một góc khuất nào đó mà số đông hiếm khi mắc phải. Nhưng những cơ thể ấy, những con người với cơ thể ấy, bất cứ ai cũng đều cần sự cứu rỗi, nhìn nhận và thấu cảm. Với ý nghĩa đó, Brain on Fire không phải là một phim dở và có lẽ không hẳn là một trải nghiệm không xứng đáng dành thời gian cho nó.

Điểm đánh giá: 6/10
Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Sài Gòn – Hồi sinh từ ký ức, vươn mình đến tương lai

Từ ngày 1/7/2025, cái tên “Sài Gòn” chính thức trở lại trên bản đồ hành chính Việt Nam. Đây không phải là tên thành phố, mà là tên của một phường trung tâm thuộc TPHCM. Một sự thay đổi tưởng chừng kỹ thuật, hành chính, nhưng lại gợi lên những suy tư lớn hơn: về ký ức đô thị, về cách chúng ta gọi tên một vùng đất và về hướng đi của tương lai giữa dòng chảy đổi mới.

Published

on

Từ nay, người dân sẽ phải làm quen với những tên gọi mới, địa giới mới và cả cách quản lý mới. Nhưng giữa tất cả những đổi thay ấy, cái tên “Sài Gòn” không trở lại như một nỗi hoài niệm, mà như một sợi chỉ đỏ âm thầm nối liền ký ức và hiện tại: bền bỉ, lặng lẽ nhưng chưa từng đứt đoạn. Một cái tên chưa bao giờ mất đi trong tâm thức người dân, nay được trả về đúng vị trí của nó: chính danh và được ghi nhận.

Tên cũ hồi sinh, đô thị vươn mình

Không chỉ hiện diện trong ký ức của hàng triệu người dân, Sài Gòn còn là mạch nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều thế hệ người viết, người sáng tác. Trong đó, có thể kể đến tác giả Phạm Công Luận - một cây bút gắn bó lâu năm với Phương Nam Book và được xem là người dành trọn tâm huyết để viết về Sài Gòn. Gần như mỗi năm, ông lại cho ra đời một tác phẩm mới, nhưng điều đặc biệt là dù đã viết rất nhiều năm, rất nhiều sách, ông vẫn luôn tìm ra được những góc nhìn mới, tinh tế và giàu cảm xúc về vùng đất này.

Từ Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, Hồi ức Phú Nhuận,đến Có một thời ở Chợ LớnMade in Sài Gòn - hai tác phẩm vừa được phát hành đầu năm nay, những trang viết của ông như một hành trình gom nhặt lại những ký ức xưa cũ về Sài Gòn. Chính những tác phẩm ấy là bằng chứng cho thấy: Sài Gòn không chỉ tồn tại trên bản đồ, mà sống động trong văn hóa, tâm tưởng và cả trong từng chi tiết đời sống hàng ngày của người dân.

Bởi vậy, khi cái tên “Sài Gòn” trở lại trong một vị trí hành chính cụ thể, đó không đơn thuần là sự phục dựng danh xưng, mà là sự thừa nhận giá trị văn hóa, tinh thần mà vùng đất này đã và đang mang trong mình. Nhưng câu chuyện không chỉ dừng ở ký ức hay bản sắc. Việc sáp nhập, thay đổi đơn vị hành chính lần này còn là một phần trong chiến lược cải tổ toàn diện, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, tinh gọn bộ máy và hướng đến một đô thị hiện đại.

Bởi vậy, mô hình hành chính mới không đơn thuần là tinh gọn bộ máy, mà còn là cơ hội để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, hiện đại hóa quản lý, nâng cao chất lượng dịch vụ công và cuộc sống người dân. Đây là một phần trong chiến lược phát triển bền vững, toàn diện và hội nhập sâu rộng mà Việt Nam đang theo đuổi. Và để chiến lược đó đi vào thực tế, không thể thiếu sự góp sức của mỗi cá nhân - những người đang sống, làm việc, học tập và trực tiếp cảm nhận từng thay đổi nhỏ nhất trong đời sống hàng ngày.

Đổi mới không chỉ đến từ chính sách, mà bắt đầu từ chính chúng ta - những người kiến tạo nên diện mạo mới cho đô thị mỗi ngày.

Thế hệ trẻ giữ vai trò tiên phong trong hành trình đổi mới

Đổi mới không phải là khẩu hiệu treo tường, mà là từng hành động cụ thể mỗi ngày: một sinh viên chọn học thêm kỹ năng mềm; một kỹ sư chủ động cập nhật công nghệ mới; một giáo viên thay đổi cách giảng dạy để học sinh dễ tiếp cận tri thức hơn. Con đường học vấn không chỉ là hành trang cá nhân, mà còn là cách mỗi người góp phần xây dựng quốc gia trong thời đại tri thức. Như lời Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói: “Mỗi ngày làm việc là một ngày kiến tạo”. Và với người trẻ hôm nay, sự kiến tạo ấy chính là học tập, là tư duy phản biện, là sự dấn thân vào hành trình đổi mới - không chỉ để thay đổi bản thân, mà còn để thay đổi xã hội.

Những thay đổi ấy đang diễn ra ở khắp nơi: từ miền núi, hải đảo xa xôi đến các đô thị trung tâm hay những vùng sáp nhập mới. Và câu chuyện của Sài Gòn hôm nay - một địa danh cũ trở lại trong hình hài hành chính mới chỉ là một lát cắt trong bức tranh cải tổ rộng lớn mà cả nước đang cùng nhau vẽ nên.

Tên gọi có thể đổi. Địa giới có thể gộp. Nhưng khát vọng vươn lên, ý chí tự cường và tinh thần làm chủ vận mệnh thì vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Sài Gòn hôm nay đang bước vào một hành trình mới: hành trình của hiện đại, của tinh gọn, của đổi mới. Nhưng trên hết, đó là hành trình mà trong đó, người dân không chỉ là đối tượng của thay đổi, mà là chủ thể kiến tạo.

Một cái tên trở lại. Và cả một thời đại mới - bắt đầu.

Thùy Dương

Đọc bài viết

Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Cafe sáng