Trà chiều

Bình yên như hoàng hôn của mỗi chúng ta

Vào giờ tan tầm, ai cũng hối hả hòa vào dòng xe kẹt cứng. Liệu ta có thể dành cho mình vài phút bình yên ngắn ngủi để ngắm hoàng hôn?

Published

on

Mỗi khi nghĩ đến em, tôi đều nghĩ đến hoàng hôn. Vì hoàng hôn là một trong những điều em thích nhất – theo như tôi được biết. Tôi phải thêm hậu tố “- theo như tôi được biết” vì tôi không có đủ tự tin mình hiểu được em. Hoàng hôn cũng giống như vậy.

So với bình minh, hoàng hôn là thứ nhiều người dễ ngắm hơn – tôi tin chắc là như vậy. Không giống như bình minh – bạn phải dậy cực sớm tầm 5, 6 giờ sáng mới ngắm được; hoàng hôn là cảnh tượng mà dù bạn thức dậy sớm hay muộn, bạn vẫn có thể dễ dàng nhìn thấy. Chẳng ai đi ngủ vào lúc 5, 6 giờ chiều khi hoàng hôn xuất hiện và sắp sửa tàn đúng không nhỉ? Bạn chỉ không thể thấy hoàng hôn nếu như quá bận rộn với công việc hoặc các điều khác đang gây phiền nhiễu tâm trí. Nhưng hoàng hôn thì vẫn ở đó vào giờ tan tầm – một giờ rất thuận lợi cho hầu hết chúng ta nhìn ngắm. Và nếu nhìn hoàng hôn, bạn sẽ nhìn trong bao lâu? Từ lúc bầu trời chớm những mảng cam cho đến khi đỏ rực lên phút chốc và lịm dần sang xanh sẫm rồi tối hẳn, hay chỉ là vài giây bâng quơ đưa mắt lên rồi lại quay về công việc. Tôi còn nhớ trong một buổi chiều rất bận bịu của một ngày tháng Tư hoặc tháng Năm năm ngoái – bạn biết đấy, hai tháng này dường như là thời điểm nắng tắt muộn hơn, hoàng hôn kéo dài hơn các thời điểm khác trong năm; vì vậy, hôm đó tôi đã có chút ỷ y. Tôi nhớ rằng mình khá mệt mỏi và chợt quay qua nhìn khung cửa sổ, hoàng hôn khi ấy chỉ là một mảng màu cam nhỏ bé hòa quyện với sắc xanh ngọc lục bảo đã dịu nhẹ của bầu trời tạo mảng màu pastel êm đềm, nhìn rất thích mắt. Tôi cứ muốn ngắm nhìn mãi nhưng lại tự nhủ phải quay về với công việc thôi, và cũng theo kinh nghiệm của tôi, nếu bầu trời chưa rực sáng hẳn kiểu “một phút huy hoàng rồi chợt tắt” mà cứ dịu nhẹ như thế thì nó sẽ còn le lói – không hẳn là suốt trăm năm nhưng chí ít là trong khoảng thời gian khá dài nữa. Khi ấy, mặt trời tròn như lòng đỏ trứng gà – xin lỗi vì phép so sánh quá cũ kĩ này, vẫn đương nằm trên ngọn cây đứng chắn trước một tiệm karaoke – điều đó càng thêm cơ sở khiến tôi tự tin mà rời mắt khỏi bức tranh tuyệt đẹp đó trong phút chốc để quay trở lại với bản thảo còn đang làm dở. Tôi nhớ rằng mình không đọc được nhiều và thời gian chưa trôi qua được lâu, chỉ tầm khoảng 15 – 20 phút sau đó, qua cảm nhận ánh sáng nhạt dần nơi khóe mắt, trang bản thảo trước mắt dần mất đi màu nắng tự nhiên, thay vào đó là sắc trắng nhân tạo của đèn neon xâm chiếm, tôi mới giật mình ngẩng nhìn ra khung cửa sổ thì thấy lúc này, mặt trời đã lặn xuống ngọn cây trước tiệm karaoke, bị nuốt trọn trong màu xanh thẫm lá cây, như một loài sinh vật bị bóp nghẹt hơi thở, yếu ớt hắt ra chút khí cam sau cùng trên nền trời xanh sẫm. Nhưng loài thực vật ăn mất sự tồn tại của nó trong ngày hôm nay – cái cây ấy, rồi cũng sẽ lại sớm bị nuốt trọn bởi một quái vật to lớn hơn: bóng tối khôn cùng của đêm. Chúng ta, ai mà không sợ con quái vật này chứ – dù trong ý thức rõ ràng hay chỉ phảng phất trong tiềm thức, tôi tin là ta đều sợ. Vì sợ nên qua bao năm tháng, ta mới hình thành cách lưu giữ ánh sáng: từ ánh lửa thời nguyên thủy cho đến bóng đèn thời hiện đại. Nỗi sợ này đúng cả về mặt vật lí lẫn ý thức. Bóng tối vật lí sẽ giúp ta dễ chìm vào giấc ngủ hơn và tốt cho não bộ lẫn da khi được nghỉ ngơi, nhưng nó chỉ thật sự êm dịu ru ta ngủ khi trong ý thức của ta không tối hoàn toàn, ta biết có một vùng sáng sẽ chờ đợi ta vào ngày mới khi thức dậy – vùng sáng đó nhỏ hay lớn là tùy thuộc vào trạng thái tinh thần của mỗi người. Nhưng nếu trong lòng ta chỉ là bóng tối, kết hợp với bóng tối vật lí bên ngoài; khi nhắm mắt, cả hai vùng bóng tối đó cộng hưởng sẽ thành những làn sóng đêm dập dờn dữ dội, lay động ý thức ta tròng trành, chao nghiêng, xô qua đổ lại, mất thăng bằng rồi thao thức không thể nào ngủ được. Hoặc ngược lại, cả hai hợp thành vực sâu hun hút như một tròng mắt đen vời vợi khiến ta chỉ muốn nhảy xuống với thứ ảo tưởng có thể dò được độ sâu của bóng tối, hay nỗi lòng tuyệt đối của một ai đó. Chỉ là ta sẽ cứ chìm vào vực sâu, bóng tối, đáy mắt, và giấc ngủ không lối thoát. Thế nên, có cho mình chút niềm tin về ánh sáng còn sót lại – theo cả nghĩa vật lí lẫn ý thức thì vẫn hơn đúng không?

Vậy là, ánh hoàng hôn của ngày hôm ấy đã tắt rất nhanh – nhanh hơn rất nhiều so với thời gian tôi dự kiến. Tôi cảm thấy tiếc nuối khi mình không thể chứng kiến trọn vẹn quá trình chuyển sắc dữ dội xảy ra chỉ trong vài phút từ tông màu pastel sang hẳn dark theme. Nhưng hoàng hôn là như thế. Cũng giống như mây trên bầu trời thôi. Đó là những thứ mà chỉ cần nhìn vài giây, thậm chí một, hai phút, bạn sẽ có ảo tưởng rằng nó dường như không bao giờ thay đổi, hoặc sẽ thay đổi rất chậm; để rồi khi ngoảnh đầu đi, chỉ trong phút chốc, cảnh sắc xưa đã không còn nữa. Nhưng dường như mọi thứ trong cuộc đời cũng tuân theo qui luật này, chỉ là ở một cấp độ rộng lớn hơn. Bài học này có lẽ chúng ta đã biết quá rõ rồi nhưng vẫn thường hay quên: khi một điều ở bên cạnh ta, ta thường hay nghĩ nó sẽ không thay đổi; qua năm tháng, ta dần đánh mất sự trân trọng đã từng có; và đến một ngày, khi nó biến mất, nhận ra nó quí giá như thế nào, ta có hối hận thì cũng đã muộn. Đương nhiên, hoàng hôn thì không như thế. Nó sẽ luôn trở lại vào ngày mai. Nhưng có phải những người yêu hoàng hôn, khi ngắm nhìn cảnh sắc này đều cảm thấu triết lí đó? Hoàng hôn, mây, cũng như cả bầu trời kia, xuất hiện mỗi ngày rồi biến mất và lại quay trở về vào hôm sau, có phải để nhắc nhở chúng ta bài học phải trân trọng hiện tại? Nhưng nếu suy nghĩ vấn đề theo câu châm ngôn quen thuộc: “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông,” bạn sẽ thấy rằng hoàng hôn cũng giống như vậy thôi: “Không ai ngắm cùng một hoàng hôn hai lần.” Hoàng hôn của ngày hôm nay khi đã tàn thì thực sự đã chết. Một hoàng hôn mới sẽ được sinh ra vào ngày mai. Từng ngày, mỗi một sắc cam, xanh, tím đều phân bổ ở những vị trí khác nhau trên bảng màu, bố cục của mây cũng khác biệt. Mỗi hoàng hôn là một em bé chào đời vào lúc bốn giờ chiều và chỉ sống được tối đa đến sáu giờ chiều cùng ngày hôm đó. Nhưng trong thời gian ngắn ngủi lưu lại dương gian này, em đã hân hoan hòa ca bằng những biểu cảm phong phú của mình như một người họa sĩ thoải mái đi những nét cọ phóng khoáng, không bị ràng buộc bởi bất cứ điều gì. Cũng có khi, em chỉ nhẹ nhàng cất lên một giai điệu mộc mạc bằng sắc cam duy nhất rồi biến mất. Nhưng dù thế nào, bản thân em khi sinh ra cũng đã là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt đẹp giúp ích cho bao người theo những cách khác nhau. Vì vậy, tôi rất thích cách em trân trọng hoàng hôn mỗi ngày bằng việc chụp những bức ảnh, tạo thành Sunset Project của riêng em. Tôi nhớ rằng lần nào gặp em mà nếu vào buổi chiều, dù câu chuyện đang sôi nổi hay dần lắng xuống, em cũng sẽ bảo tôi dừng lại trong phút chốc để em có thể chụp ảnh hoàng hôn. Và khi lưu giữ lại được hoàng hôn ngày hôm ấy, tôi có thể nhận ra em đã rất vui. Đôi khi vào tối ngày hôm đó, em sẽ chia sẻ lại cho tôi bức ảnh hoàng hôn em đã chụp lúc chiều. Với tôi, chúng đều là những kiệt tác từ tự nhiên, từ đôi tay em gầy và từ đôi mắt như thấu suốt mọi lẽ đời của em. Em sinh vào buổi sáng sớm ngày cuối cùng của năm. Nếu như xét thời gian một năm bằng tỉ lệ của một ngày thì chẳng phải buổi sáng của ngày cuối cùng trong tháng 12 sẽ có vai trò giống như hoàng hôn của năm đó trước khi bước dần vào tối giao thừa giữa năm cũ và năm mới hay sao? Phải chăng vì vậy mà em yêu hoàng hôn hơn bình minh, dù đúng ra, theo như trí nhớ của tôi thì em sinh vào tầm năm giờ sáng – thời khắc của bình minh? Nhưng tôi cũng cảm thấy, em hợp với hoàng hôn hơn là bình minh. Bình minh cũng yên bình nhưng là sự yên bình để báo hiệu một ngày mới lại bắt đầu, kéo theo sau đó là muôn vàn âm thanh nhộn nhịp của cuộc sống khi mọi người hối hả, tất bật cuốn theo guồng quay của nó. Còn sự yên bình của hoàng hôn thực sự là để báo hiệu mọi người nên nghỉ ngơi đi, đã đến giờ nghỉ rồi. Vào những hôm tôi làm việc chăm chỉ, khi phát hiện ra hoàng hôn đã đến, tôi cảm thấy cảnh tượng ấy như đang muốn động viên tôi: “Bạn đã làm việc chăm chỉ cả ngày rồi, hết giờ làm rồi, bây giờ là lúc để nghỉ ngơi.” Còn vào những hôm tôi lười biếng cả ngày, khi hoàng hôn ghé thăm, tôi cũng không có cảm giác nó đang giễu cợt hay trách móc gì tôi, chỉ đơn giản nhẹ nhàng nhắc nhở và ủi an: “Bạn thấy không, một ngày dần tàn rồi đó. Đừng để một ngày phải trôi qua trong hối tiếc như vậy nữa. Nhưng dù sao thì ngày cũng tàn rồi, hôm nay chưa làm được gì nhưng bạn hãy cứ nghỉ ngơi để mai lại bắt đầu.” Hoàng hôn không tạo cho tôi cảm giác áp lực giống như bình minh, khi hoàng hôn buông xuống và sau đó đêm tối đến, tôi thực ra có thể lựa chọn làm việc hoặc chơi đùa theo ý mình – đương nhiên vào những thời điểm deadline thúc ép mà vẫn lựa chọn chơi đùa thì hậu quả sẽ rất nghiêm trọng. Nhưng nếu bình minh của ngày mới đến mà tôi vẫn chưa nghĩ ra được hôm nay cần làm gì thì trong lòng tôi sẽ có ít nhiều hoang mang. Còn với riêng em, tôi không biết em có yêu bình minh không, em suy nghĩ gì về bình minh, em có từng chụp cảnh mặt trời mọc không…; nhưng tôi biết bản thân em đã luôn là một bình minh, hoặc em đã luôn cố gắng là một bình minh – vượt qua bóng tối của đêm hôm trước để nhiệt thành miệt mài vào sáng hôm nay. Em lúc nào cũng chăm chỉ, nghiêm túc với công việc như một mặt trời tất bật đều đặn làm công việc của mình mỗi ngày. Nhưng mặt trời cũng có lúc mệt mỏi và cần nghỉ ngơi. Thế nên chúng ta mới có hoàng hôn và sau đó mặt trời chuyển ca làm việc vào buổi tối cho mặt trăng. Em thấy đó, khỏe mạnh như mặt trời mà cũng có lúc đình công đấy thôi. Vậy mà bao năm qua, em – một cô gái lúc nặng cân nhất là 45 kg cũng chỉ dám yêu hoàng hôn và bản Clair de Lune để thầm hình dung về một ánh trăng êm dịu trong chút thời gian nghỉ ngơi hiếm hoi em có được. Em chưa từng thực sự nghỉ ngơi, em chỉ yêu nhưng chưa từng thực sự là hoàng hôn, mặt trăng của riêng em. Em đã luôn là mặt trời, là ngày dài bất tận nối liền vào đêm. Vậy thì em ơi, em xứng đáng có được sự nghỉ ngơi em mong muốn. Bất cứ khi nào em cần, em hãy cho phép mình là một hoàng hôn, mặt trăng của riêng em với ánh sáng êm dịu, tận hưởng sự yên bình tự tại. Bởi vì em luôn xứng đáng với cả mặt trời và mặt trăng, bình minh lẫn hoàng hôn, tất thảy mọi điều tốt đẹp nhất trên cuộc đời này.

Em đừng sợ một khi cho phép mình là hoàng hôn và mặt trăng thì sẽ mãi chìm trong sự nghỉ ngơi vô độ, bị kéo lùi về phía sau so với mọi người. Kết thúc và bắt đầu chỉ là hai khái niệm tương đối, bởi lẽ khi kết thúc một điều cũ cũng đồng nghĩa với việc khởi đầu một điều mới, và khởi đầu một điều mới cũng đồng nghĩa với việc kết thúc một điều cũ, hai hành động này thường diễn ra song song nên ta khó lòng nói được đó là khởi đầu hay đó là kết thúc. Nếu qui đổi “bắt đầu” thành “làm việc”, “kết thúc” thành “nghỉ ngơi”, ta cũng sẽ có một kết quả tương tự. Ta làm việc là để được nghỉ ngơi, và ta nghỉ ngơi cũng là để sẽ có thể tiếp tục làm việc trong tương lai. Vì vậy, em hãy cứ nghỉ ngơi mà đừng bận tâm lo âu quá nhiều điều nhé.

Em bình yên như hoàng hôn.

Và dù không cố tình, thậm chí đôi khi còn cố ý che giấu mình sau những bộ trang phục đen, em vẫn rực rỡ như mặt trời vì nội lực toát ra từ bên trong em.

Em có đủ cả một ngày trong em, từ sáng tinh mơ đến tối khuya mờ, trọn vẹn, nguyên khôi.

Vậy nên, em sẽ ổn thôi.

Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Trà chiều

Văn hóa đọc tại Việt Nam: Hành trình tỉnh thức trong thời đại mất tập trung

Khi cả thế giới đang quay cuồng trong cơn lốc của tốc độ, của công nghệ số và mạng xã hội, văn hóa đọc – vốn là một hoạt động tĩnh tại, cô độc và đòi hỏi sự kiên nhẫn – bỗng trở thành hiện tượng lạ giữa đời sống hiện đại.

Published

on

Một cú chạm màn hình có thể đưa bạn tới bất kỳ đâu: từ buổi hòa nhạc ở Vienna đến một bữa ăn đường phố ở Bangkok, từ những khoảnh khắc riêng tư của người xa lạ đến bản tin thời sự lúc rạng đông. Nhưng càng dễ dàng kết nối, chúng ta lại càng khó khăn trong việc lắng nghe chính mình. 

Và trong cuộc hành trình ấy, đọc sách - hành động tưởng như đã cũ kỹ, đang âm thầm trở lại như một nơi trú ẩn cuối cùng của tâm hồn hiện đại.

Văn hóa đọc không chỉ là việc “đọc sách”

Văn hóa đọc không nên được định nghĩa đơn giản chỉ là hành vi tiếp nhận văn bản in ấn, cần phải nhìn nó như là một cấu trúc hệ giá trị, nơi người đọc không chỉ tiêu thụ thông tin, mà còn tương tác với tri thức, phản tư, và từ đó tạo ra tầng sâu văn hóa cá nhân. Nên hiểu đọc là một hành vi văn hóa, không chỉ là kỹ năng.

Thế nhưng, tại Việt Nam, hành vi đọc nhiều khi bị giản lược thành “hoạt động học thuộc”. Cái gốc của việc đọc để hiểu mình và hiểu thế giới vẫn còn mờ nhạt trong đời sống học đường lẫn đời sống đô thị.

Chúng ta từng được dạy rằng đọc là để biết nhiều hơn. Nhưng biết không đồng nghĩa với hiểu. “Biết” là quá trình tiếp nhận và lưu trữ dữ liệu dưới dạng thông tin. “Hiểu” vượt lên trên điều đó - nó đòi hỏi sự tham gia của trải nghiệm cá nhân, khả năng phân tích, đồng cảm và cả những va chạm nội tâm. Một tác phẩm có giá trị không chỉ cung cấp tri thức ngoại tại, mà còn tạo điều kiện cho chủ thể tiếp nhận được soi chiếu, phản tỉnh từ đó nhận diện những lớp ẩn sâu của bản thể qua hình ảnh của người khác trong trang sách. 

Khi một đứa trẻ đọc Những tấm lòng cao cả, em sẽ không chỉ học đạo đức, mà bắt đầu cảm nhận được trái tim nhân loại. Khi một thiếu niên lần đầu đọc Người xa lạ của Camus, cậu ấy có thể không lý giải nổi thế giới, nhưng sẽ bắt đầu đặt câu hỏi về nó và về chính mình.

Vấn đề không nằm ở việc thiếu sách, mà thiếu “thái độ văn hóa” với sách

Mặc dù Việt Nam có hơn 30.000 đầu sách xuất bản mỗi năm (theo Cục Xuất bản), thế nhưng lượng sách bán ra tập trung chủ yếu ở thể loại giải trí, ngôn tình, self-help, còn các dòng sách triết học, văn hóa, nhân văn… chiếm tỷ lệ nhỏ hơn. Ta không thiếu sách, ta thiếu một nền tảng thẩm mỹ và nhân văn để lựa chọn sách một cách có chủ đích.

Nguyên nhân không chỉ nằm ở thời đại số làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin, mà còn nằm ở cách giáo dục về đọc sách. Tại nhiều trường học, việc đọc vẫn gắn liền với hình thức kiểm tra, chấm điểm, làm bài văn nghị luận sách giáo khoa - điều khiến đọc sách trở thành một “nghĩa vụ” hơn là một hành trình khám phá. Gia đình, các bậc phụ huynh còn chưa thực sự nghiên cứu và đặt mối quan tâm lớn lao cho việc giáo dục con trẻ dẫn đến việc các em phụ thuộc quá nhiều vào các thiết bị công nghệ. 

Nhưng tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự nở rộ của các phong trào đọc sách tự phát, không phải từ chỉ đạo hành chính, mà từ những con người đang đi tìm lại bản thân giữa cơn hỗn loạn của thông tin.

Đáng chú ý, sự phát triển của nền tảng số cũng không còn là lực cản, mà đang dần trở thành đòn bẩy cho việc tiếp cận sách: audio book, book podcast, nền tảng chia sẻ tóm tắt sách hay các cộng đồng đọc sách online đang lan tỏa mạnh mẽ. Sách không còn là một vật thể bất động mà trở thành dòng chảy đồng hành với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, âm thanh và cảm xúc.

Tất cả đang làm sống lại một giá trị xưa cũ: sự tĩnh lặng nội tâm. Đọc sách giờ đây không chỉ là tiếp nhận thông tin, mà là một hành động phản kháng với sự phân tán, ồn ào, và tiêu dùng giải trí mang tính chất "mì ăn liền".

Văn hóa đọc trong thời đại “siêu dữ liệu”

Thách thức lớn nhất với văn hóa đọc trong thời đại kỹ thuật số không phải là sự biến mất của sách giấy, mà là sự thoái hóa khả năng tập trung, năng lực phản tư và thái độ nghiêm túc của con người với tri thức. Chúng ta sống trong thời đại mà nội dung có thể bị tiêu thụ như thức ăn nhanh, nơi mọi người “đọc để phản ứng”, thay vì “đọc để cảm nghiệm”. Bởi vậy, chọn đọc - nhất là đọc sâu, đọc chậm giờ đây không chỉ là một lựa chọn mang tính trí tuệ, mà còn là một cách gìn giữ bản thân trước sự xao nhãng của thế giới hiện đại.

Đọc là kháng cự lại tốc độ. Là từ chối cái dễ. Là chọn cái sâu - dù biết nó chậm.

Văn hóa đọc giờ đây không chỉ là sách, mà còn là cách ta sống. Không chỉ là hành động cá nhân. Nó phản ánh cả một văn hóa. Một đất nước biết trân trọng sách là một đất nước không dễ bị lãng quên ký ức. Một thế hệ đọc sách là một thế hệ có nội lực.

Ở Việt Nam, từng có một thế kỷ mà sách được đọc bằng ánh đèn dầu, được chép tay, được truyền tay như những báu vật. Sách đi qua chiến tranh, qua đói nghèo, qua đạn bom, nhưng vẫn sống. Vấn đề của hôm nay không phải là thiếu sách, mà là quá nhiều thứ giành giật tâm trí ta khỏi sách.

Vấn đề sâu xa hơn: ta không còn coi đọc là một phần của việc sống đẹp. Thế giới đang dần lãng quên sự im lặng, sự chậm rãi, sự suy tư. Trong truyền thống tư tưởng phương Đông, đọc không phải là phương tiện để đạt được cái bên ngoài, mà là trở về với cái bên trong. Từ thời Lão - Trang, việc học, việc đọc vốn gắn liền với sự tĩnh tại của tâm. Đọc là tu thân. Đọc là dưỡng khí. Đọc là hành động đi ngược lại với sự xao động của đời sống, để khơi mở “minh tâm kiến tánh”, thấy lại chân diện mục của chính mình. 

Ngày xưa, các nho sĩ khi đọc sách thường đặt một bát nước trong veo bên cạnh, để “nếu tâm xao động thì nước đục” như một cách tự phản tỉnh. Người đọc không chỉ là kẻ truy cầu tri thức, mà còn là người gìn giữ đạo lý, tiết tháo và sự lặng thầm bền bỉ của văn hóa.

Trong thời đại siêu kết nối hiện nay, nghịch lý lớn nhất là con người càng lúc càng rỗng hơn giữa vô số dữ liệu. Chúng ta “biết” rất nhiều thứ nhưng lại hiểu rất ít điều, và càng ít sống sâu. Văn hóa đọc nếu được xem là một hệ sinh thái văn hóa bền vững - chính là cơ chế tự phòng vệ của trí tuệ trước sự tha hóa của thị hiếu và tốc độ.

Bởi vì đọc không chỉ là để “biết”, mà để nghi ngờ cái mình biết. Không chỉ để “giỏi lên”, mà để hiểu mình và hiểu người hơn. Và không chỉ để có tri thức, mà để trở nên người hơn trong thế giới ngày càng thiếu vắng chất người. 

Đọc - tự bản thân nó là một hành động kháng cự lại sự lãng quên, sự cạn mỏng và cả sự dễ dãi. Nó khơi mở lại điều tưởng như đã mất: một chiều sâu văn hóa không thể số hóa, không thể sao chép, thứ văn hóa được chưng cất từ mỗi lần lật trang, từ mỗi khoảnh khắc im lặng tự đối diện chính mình. Để được sống với một trái tim có lớp lang. 

Và nếu phải chọn một hành động lặng lẽ nào đó để định nghĩa tinh thần của một dân tộc đang muốn trở mình từ bên trong, thì đó hẳn phải là: đọc sách.

Ngọc Trâm

Đọc bài viết

Cafe sáng