Phía sau trang sách

Bàn tiệc văn chương cho ngày Halloween đen tối

Published

on

Từ ma ca rồng đến hiệu ứng song trùng; chúc bạn dùng bữa ngon miệng.

1. Phỏng vấn ma cà rồng (Anne Rice)

Là một trong những mảnh ghép cấu thành nên vũ trụ ma cà rồng của Anne Rice (Ricean Universe), Phỏng vấn ma cà rồng mở ra cho ta góc nhìn về một thế giới mới lạ mà từ trước đến nay vẫn ít xuất hiện trong văn chương đương đại. Lấy bối cảnh thế kỷ 18 tràn ngập không gian gothic của những lời đồn đoán, Anne Rice khắc họa những nhân vật của mình một cách sống động, hợp lý và kỳ lạ thay, lại đầy tính người. Có thể nói, Phỏng vấn ma cà rồng là một trong những cuốn tiểu thuyết hay nhất về ma ca rồng, khi nó không chỉ là những câu chuyện tưởng tượng mà song hành cùng đó còn là những hiện sinh chủ nghĩa tiến bước song hành. 

Chuyện kể về Louis, chủ một điền trang ở Lousiana vì quá đớn đau trước cái chết của vợ và đứa con mới chào đời, đã xin ân huệ là cái chết từ Lestat – một con ma cà rồng lâu năm. Lestat đồng thời vừa muốn chiếm đoạt số gia sản ấy, lại vừa muốn có một người bạn cạnh cầu; vì thế đã không giết mà biến Louis trở thành ma cà rồng như y, và kể từ đó số phận hai người gắn với nhau. Thế nhưng, sâu trong Louis luôn là những dằn vặt giữa thiện và ác, giữa con người và ma quái. Nhận thấy Louis có khả năng rời bỏ mình, Lestat đã dùng Claudia như đứa con chung để níu giữ anh. Claudia ngày càng lớn lên, nhận ra trạng thái mắc kẹt mãi mãi trong thân thể đứa trẻ sáu tuổi của mình, đã cùng Louis bàn cách giết chết Lestat và tìm đến những con ma cà rồng khác để được tự do và hiểu thêm về cuộc sống này. Thế nhưng vì mắc tội giết đi đồng loại, cả hai người họ đều bị sự phản trắc dội ngược, và cái kết là Claudia bị ép thiêu rụi trong ánh nắng ban ngày. Louis vì quá hằn thù những kẻ ấy nên đã đốt trụi rạp xiếc cùng những con ma cà rồng. Đến cuối, Lestat vẫn ở đó và cầu mong Louis trở lại, nhưng chỉ nhận được lời từ chối từ anh.

Với Phỏng vấn ma cà rồng, Anne Rice không những thành công trong việc khắc họa những con ma cà rồng “điển hình” nhất (nếu so với Chạng vạng), mà còn thành công ở một mặt khác, về khía cạnh hiện sinh. Nói Louis và Lestat, nhưng dễ dàng nhận ra, đó cũng đồng thời là hai bản ngã của một con người. Ở đây, Claudia được thêm vào dưới nhân dạng một đứa trẻ như nỗi kinh hãi, kinh hãi thật sự khi mãi mãi phải chìm trong thân xác đứa trẻ sáu tuổi dẫu cho thời gian đã phôi phai 70 năm. Hành động giết chết Lestat của Claudia và Louis như tiếng gọi tha thiết tự do, và Louis khi đốt trụi Théâtre des Vampire của những con ma cà rồng làm hại Claudia, nó như tiếng thét cuối cùng của bản chất lương thiện. Ma ca rồng dù sao vẫn từng là người, họ muốn sống và được yêu thương; và một cách thật sâu, Anne Rice đã đưa chính những triết lý đơn giản này vào câu chuyện tưởng chừng không liên quan như thế.

Với hơn tám triệu bản được bán ra trên toàn cầu và sự bảo chứng thành công của bản chuyển thể điện ảnh vào năm 1994 cùng những tên tuổi đắt giá như Tom Cruise, Brad Pitt, Kirsten Dunst, Phỏng vấn ma ca rồng cùng với Queen of the Damned của nữ sĩ tài họa yểu mệnh Aaliyah thật sự là hai tượng đài của thể loại tiểu thuyết kinh dị gây ám ảnh. Anne Rice đã thành công khi làm nên một vũ trụ của những nhân vật như thế; và biết đâu ngay khi cơn sốt siêu anh hùng của Marvel nguội lạnh vì bội thực, một thế giới ma cà rồng khác sẽ lại lên ngôi, thế chỗ, và mang lại những giá trị hiện sinh đầy ý nghĩa như thế?

2. 172 giờ trên mặt trăng (Johan Harstad)

Mang trong mình đầy đủ yếu tố kinh dị thường thấy của những tiểu thuyết trinh thám Bắc Âu, 172 giờ trên mặt trăng đem đến một sự kinh hãi dần dần cho người đọc như cơn triều rút. Mở ra không gian vũ trụ không mấy thân quen ở thì tương lai, Johan Harstad tha hồ sáng tạo nên những nhân vật không thực – mà ở đây rõ ràng anh đã không làm người đọc thất vọng. Cái hay của Johan là không tạo nên những nhân vật quá phi logic, vượt quá xa hiểu biết con người hay quá mang tính thể nghiệm thực dụng; mà ở đây, anh dùng những câu chuyện dân gian đồng thoại, kết hợp cùng những cái thực làm ra một thế giới vừa ảo tưởng đấy lại vừa thật đấy, vừa kinh hãi ghê rợn đấy nhưng nghe trong đó tiếng cười lại thành xa xôi.

172 giờ trên mặt trăng

Là một tiểu thuyết gia viết cho lớp thanh thiếu niên, câu chuyện trong tác phẩm này cũng tràn đầy hơi thở tuổi trẻ như thế. Lấy bối cảnh cuộc trở lại mặt trăng sau thành công những năm 60, ba đứa trẻ được NASA tuyển chọn trên khắp thế giới mang vinh hạnh thực hiện thử thách này, nhưng đằng sau đó, là những âm mưu của người đứng đầu bộ sậu về những nghi ngờ lịch sử đã từng xảy ra. Ở đó, Mia, Midori và Antoine như ba chú chuột thí nghiệm bị nhốt trong chiếc lồng sắt DARIAH 2 trên Biển bình yên để chờ những kỳ dị tới. Ở đó, trên chính trạm không gian bị bỏ hoang từ lâu, bắt đầu xuất hiện những cái chết – cái chết bên ngoài không gian mỗi khi ai đó ra ngoài một mình hay cái chết đến từ bên trong, khi không khí đã dần cạn hết. Không dừng ở đó, Johan đẩy mạch truyện dần lên cao trào, khi ngoài cái chết, là chính khi con người ta lại phải đối diện với bản thân mình – một thể mang dáng hình mình lại không phải mình, một hệ song trùng vô cùng kinh hãi.

Nếu bỏ qua mạch truyện ban đầu đôi khi dài dòng lê thê, thì ở phần sau, tất cả đã mang cân bằng về lại cho tác phẩm này. Thế nhưng, đó thật sự là điều dễ hiểu, bởi nhẽ một tiểu thuyết viết riêng cho lớp thanh thiếu niên thì không thể thiếu đi đời sống của họ, nhịp điệu của họ. Johan cũng đồng khéo léo khắc họa được những vấn đề ở lứa tuổi ấy: là sự bốc đồng ngông cuồng với thứ nhạc Rock thập niên 60, là sự hảo danh của những đứa trẻ vẫn chưa kịp lớn, và cả tình yêu dẫu cho cuồng loạn. Với cú bùng nổ ở phía sau chót, Johan Hastard gợi ra một nỗi ám ảnh tưởng như vô song, một sự kích động mà những bộ phim như Us hay Truth or Dare đã từng làm được. Nhận giải Barge danh giá nhất Na Uy cho cuốn tiểu thuyết đầu tay, 172 giờ trên mặt trăng đòi hỏi nhiều sự kiên nhẫn, nhưng khi đến trang cuối cùng, cũng chính là khi adrenalin vượt khỏi trang giấy, chính ta sẽ thấy nó thật sự là cuốn sách lạ, và có thể, bởi sự dị kỳ, ta sẽ không còn bao giờ cầm lại đến lần thứ hai.

3. Đứa trẻ thứ 44 (Tom Rob Smith)

Tương tự 172 giờ trên mặt trăng, Đứa trẻ thứ 44 của Tom Rob Smith là cuốn sách đầu tay mang đến sự bùng nổ về tài năng cho chính tác giả. Được đề cử hơn 17 giải thưởng quốc tế trong đó có Man Booker, giành chiến thắng bảy giải, Đứa trẻ thứ 44 là cuốn sách trinh thám rất đáng để đọc những năm gần đây, sau những Hoa súng đen của Michel Bussi hay Chim cổ đỏ của Jo Nesbø.

Đứa trẻ thứ 44

Liên Xô những năm 1930 rúng động với hàng loạt những vụ giết người theo một motif kinh dị giống nhau: khi đó đều là những đứa trẻ bị cắt dạ dày, nhét vỏ cây vào miệng và chân bị cột chặt dây. Leo Demidov – nhân viên MGB, vì những quyết định tự trọng của mình đã tự sa lầy vào chính bộ máy chính quyền quan liêu, phải tự dấn thân tìm ra sự thật mà không có thêm một sự hỗ trợ nào khác, trừ người vợ mình – Raisa. Ở đó, Leo đồng thời song hành ở hai con đường, một chạy thoát thân khỏi những hiểm họa muốn lấy mạng anh và một tìm ra hung thủ đằng sau màn nhung. Và hơn cả thảy, cuối cùng là sự khó hiểu, một nỗi nhận thức thật sự muốn quên. Những chọn lựa nào dành riêng cho anh?

Tom Rob Smith một cách tài tình đã cân bằng được logic chặt chẽ với tình cảm chi phối; giữa trinh thám điều tra cùng hiện trưng xã hội. Như thế hệ tiếp sau của Georges Simenon với mảng trinh thám xã hội, Đứa trẻ thứ 44 là cuộc truy ngược về bản chất con người, về bộ máy quan liêu và trên hết, về chính tình người ta dành cho nhau. Ở đó có niềm tin, thất vọng, tuyệt vọng; có cái chết, hy vọng, sự sống,… Đọc cuốn sách này không đơn giản như cùng phá án, mà chính ở đó, ta như lần ngược về những sang chấn tâm lý, những câu hỏi nguyên thủy nhất về thực chất chúng ta là ai, tình cảm chúng ta là gì.

Sử dụng lối viết xen kẽ những khoảng thời gian cùng nhiều câu chuyện đa góc nhìn, Tom Rob Smith làm nên thế trận rối tung, nhưng dù sao nếu đủ tỉnh táo cùng một chút cảnh giác, ta vẫn có thể nhìn được vào sâu sự thật. Đứa trẻ thứ 44 vẫn không thoát khỏi những tình tiết đôi khi gượng ép không thật, bởi những dàn xếp quá nhiều đâm ra rất thiếu tự nhiên hay dễ đoán trước; nhưng dẫu sao, với một cấu trúc phức tạp và những sắp xếp gọn ghẽ, đây vẫn là cuốn sách khiến ta muốn cầm đến trang cuối cùng. Như một nhận định: “Đứa trẻ thứ 44 dữ dội như một con sói Nga. Nó tóm lấy cổ họng ta và không buông ra nữa”; nếu đủ can đảm vào một đêm Halloween khuya khoắt nào đó, hãy cùng đọc và đồng hành cùng Leo Demidov như vừa bước ra từ câu lạc bộ của Maigret, Harry Hole hay Poirot; phiêu lưu một chuyến đến vùng đất xa, để săn lũ mèo, tìm ra sự thật.

4. Hiệu cầm đồ số 8 (Thâm Tuyết)

Văn học châu Á từ lâu vẫn mang trong mình một sự bóc trần chủ nghĩa hiện thực mang đậm phong cách địa phương. Và Hiệu cầm đồ số 8 của Thâm Tuyết là không ngoại lệ, trên hết nó còn mở đầu như một chứng nhân cho phong cách rất riêng của văn học Hongkong, vốn từ trước đến nay luôn được biết đến như nền văn học của nhiều những cây bút trẻ, hơi thiếu cá tính, đôi khi mơ mộng.

Hiệu cầm đồ số 8

Hiệu cầm đồ số 8 thực chất là một tiểu thuyết hiện thực hiện sinh trong lớp vỏ của những tưởng tượng. Ở đó, hai nhân vật chính – ông chủ và Tinh; với nét tính cách, những mối quan hệ cùng những xuất thân, dễ gợi nhớ đến hai nhân vật của Anne Rice như đã nói trên. Khác với Anne Rice, Thâm Tuyết ở đây không quá đi sâu vào việc phân tích tâm lý, phát triển cốt truyện, hay tạo cú hook – mà cô đơn thuần kể lại như đang chứng kiến.

Đọc về cuộc đời của Tinh, đôi khi ta thấy hiện ra là cuộc đương đầu đối với số phận của người phụ nữ một lần nào đó đã từng thấp thoáng trong nhiều tác phẩm điện ảnh, từ một Lồng đèn đỏ treo cao cho đến Cao lương đỏ của Trương Nghệ Mưu; hay một điểm khác, là cái đói, cái nghèo, cái heo hút của Thu Cúc đi kiện,… Một cách giản dị mà không màu mè, Thâm Tuyết gom hết những thứ đặc trưng của vùng nông thôn Trung Quốc vào chung một mâm, để chúng tự nhiên hòa quyện vào trong tâm tưởng của mỗi người đọc, tự nhiên tuôn chảy như điều gì đó vốn đã từ lâu.

Với những tư liệu đắt giá vốn có thế này, Thâm Tuyết hoàn toàn có thể kéo dài mạch truyện để rồi phát triển ngày càng cao lên. Thế nhưng dường như cô rất tính toán và chỉ chọn ra những chi tiết thật sự đắt giá để mà đưa vào một lần rồi thôi. Đây là một nhân tố nữa làm nên chính sự cuốn hút của quyển sách này: sự vừa phải. Rõ ràng ở đây, Thâm Tuyết đã rất thành công trong việc miêu tả khía cạnh giả tưởng rất ư thật nhất. Yếu tố kinh dị tuy chỉ là phụ, thế nhưng lại là yếu tố cô làm tốt nhất. Những dòng miêu tả Hàn Nặc – hay chính con quỷ trong người cậu bé – luôn luôn khiến ta dựng hết tóc gáy mỗi lần đọc đến. Cô dùng chính lối tương phản giữa đứa trẻ con và một con quỷ để bật lên hết những niềm tàn ác. Đẩy lên cao trào, người cha trong chính cảnh này lại là chứng nhân tham gia can dự. Những đoạn hội thoại của hai cha con, hay chính con quỷ với người cha này – vô cùng sắc bén và rất gợi mở. Tuy chỉ là yếu tố phụ, thế nhưng Thâm Tuyết lại rất tài năng trong việc gợi mở một chiều kích khác, đánh sâu vào gai cảm giác của mỗi một người. Ngoài ra, một sự trùng hợp vô cùng kỳ lạ khi cả Anne Rice và Thâm Tuyết đều rất thành công khi đưa trẻ con vào trong câu chuyện của mình, và cũng kể từ đây, Claudia và Hàn Nặc thật sự trở thành hai trong số rất nhiều nhân vật trong các tiểu thuyết kinh dị mang nhiều những nỗi ám ảnh cho ai đã từng đọc đến.

Tạm quên đi các yếu tố làm nên những điểm đặc biệt cho tác phẩm này, thì phần còn lại của Hiệu cầm đồ số 8 xứng danh là một trong những tiểu thuyết tiêu biểu cho văn chương Hongkong. Cùng viết về tình yêu nhưng được đặt dưới lớp vỏ kinh dị, Thâm Tuyết lại một lần nữa mang đến cái kết vô cùng dễ chịu cho mỗi người đọc – hệt như là những bộ phim ta từng mê mẩn những năm còn trẻ. Cùng viết về tình yêu và ý nghĩa của nó, Thâm Tuyết nhẹ nhàng truyền đến người đọc thông qua cốt truyện rất ư mới lạ. Tuy phần sau của tiểu thuyết này rất dễ đoán ra, cùng những tình tiết không hẳn logic hay những lời văn đao to búa lớn, chi tiết khoa trương rất không cần thiết; thế nhưng nhìn chung, Hiệu cầm đồ số 8 là tác phẩm lạ và vô cùng độc đáo, như một phiên bản phương Đông của Phỏng vấn ma cà rồng, nhẹ nhàng và khắc sâu hơn.

Hết.

Ngô Thuận Phát


Đọc những bài viết của Ngô Thuật Phát.


Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng