Trà chiều

Bad Guys Always Die: Cuộc truy tìm cái thật

Phim mang đến thông điệp dù cũ nhưng luôn mới: đừng đánh giá sự vật qua vẻ ngoài.

Published

on

Bad Guys Always Die là phim hợp tác giữa Trung, Hàn nên dù phim có sự tham gia của Son Ye Jin – diễn viên tôi đã yêu mến suốt một thời gian dài, tôi vẫn rất ngần ngại xem phim này. Với kinh nghiệm xem một số phim truyền hình, điện ảnh hợp tác giữa Trung, Hàn tôi cảm thấy hầu như các bộ phim này đều không đạt chất lượng nghệ thuật lẫn chất lượng giải trí. Tôi luôn có cảm giác những phim hợp tác Trung, Hàn không được chăm chút lắm về mặt kịch bản bởi lẽ dường như nhà sản xuất nghĩ rằng chỉ cần có sự tham gia giữa dàn diễn viên nổi tiếng hai nước là đã phần nào đảm bảo thành công; vì vậy, kịch bản những phim hợp tác thường khá an toàn, đúng công thức, dễ đoán cốt truyện, không có phong cách kể chuyện đặc trưng mà chỉ cốt sao cho phim hấp dẫn. Nhưng chính vì những yếu tố đó mà các phim hợp tác dạng này không bao giờ thực sự lôi kéo tôi vào câu chuyện dù rằng tôi đã xác định ngay từ đầu chỉ xem để giải trí. Năm ngoái, hai phim hợp tác Trung, Hàn mà tôi có dịp xem ngoài rạp đều khiến tôi cảm thấy có chút chán nản bởi sự an toàn quá mức trong cách kể chuyện. Hai phim đó là: Bounty Hunters, Making Family. Tôi xem Bounty Hunters vì Đường Yên và xem Making Family vì Kim Ha Neul. Giữa Đường Yên và Kim Ha Neul thì tôi lại đánh giá cao Kim Ha Neul hơn ở mặt diễn xuất. Với tôi, Kim Ha Neul là một diễn viên giỏi, nghiêm túc. Vậy nên, khi chọn phim Kim Ha Neul đóng để xem, dù chỉ là phim giải trí, tôi cũng dành sự kì vọng cho phim cao hơn một chút. Thế nên, khi Bounty Hunters không khiến tôi có cảm giác giải trí thỏa mãn vào tháng bảy thì tôi cũng mong Making Family vào tháng mười một có thể làm điều này khá hơn một chút. Nhưng cuối cùng, cả hai phim xem thì cũng tạm được mà vẫn thiếu đi điều gì đó. Lúc đấy, tôi chưa biết gọi điều đó là sự sảng khoái về mặt cảm xúc thường bắt gặp ở những phim giải trí tốt; mãi đến hôm nay, khi xem Bad Guys Always Die và bị bất ngờ, tôi mới tìm được câu trả lời đó.

Bad Guys Always Die công chiếu ở Trung vào ngày 27.11.2015, ở Hàn vào ngày 7.1.2016 và chừng cuối tháng ba, đầu tháng tư, phim có bản đẹp trên mạng. Lúc đó, tôi đã nhiều lần mở phim lên định xem nhưng khi logo chỉ chạy chừng ba, bốn giây lại tắt. Một nỗi sợ bản thân bị thất vọng xâm chiếm lấy tôi. Không phải trước giờ Ye Jin chưa từng đóng phim thị trường hay giải trí, số lượng phim loại này nàng đóng cũng gần ngang bằng với phim nghệ thuật. Tuy nhiên, trước Bad Guys Always Die, nàng chưa bao giờ nhận đóng phim giải trí hợp tác với Trung Quốc. Dưới làn sóng diễn viên Hàn ồ ạt đóng phim Trung vì được trả mức thù lao ngất ngưởng, Ye Jin vẫn chưa một lần đóng phim Trung, điều này phần nào khiến tôi vui mừng khi nghĩ rằng nó đồng nghĩa với việc nàng luôn ưu tiên chất lượng nghệ thuật hơn tiền bạc, rằng không phải cứ có tiền là có thể mời được nàng đóng phim. Thế rồi, tôi phát hiện nàng đóng Bad Guys Always Die, suy nghĩ ấy bị lung lay, một dự cảm không lành ùa tới. Không lẽ nàng đã thay đổi, nàng không còn là một Ye Jin luôn cẩn thận, nghiêm túc trong việc lựa chọn kịch bản mà tôi từng biết. Tôi sợ sẽ thất vọng về nàng giống như từng có chút thất vọng về Yui khoảng thời gian Yui bắt đầu hát những bài hát tích cực, mang tính cổ động, hướng đến quần chúng nhiều hơn là tự soi chiếu vào bản thân, vào nỗi buồn và sự cô đơn của mình – những điều Yui đã luôn hát khi mới vào nghề. Sau này, trải qua nhiều chuyện, tôi không còn thất vọng về Yui nữa, tôi hiểu hơn sự lựa chọn của nàng khi ấy và vẫn yêu mến nàng. Tuy vậy, đứng trước khả năng Ye Jin có thể đem lại cảm giác thất vọng tương tự như Yui ngày đó, tôi vẫn khá chần chừ giữa việc xem hay không xem Bad Guys Always Die. Chắc chắn là tôi sẽ xem, vấn đề chỉ là khi nào. Và tôi đã chần chừ từ tháng tư năm ngoái cho đến tối ngày sinh nhật thứ 35 của Ye Jin. Thì thôi, cứ xem thế nào.

Khoảng mười phút giới thiệu nhân vật đầu phim, mọi thứ bình thường, không có gì quá đặc biệt. Nhưng đến khi Son Ye Jin xuất hiện, tôi bắt đầu thấy có chút đặc biệt trong cách kể chuyện. Phim kể về Qiangzi – một giáo viên người Trung dạy tiếng Trung cho học sinh tiểu học Hàn ở đảo Jeju đã được vài năm. Hai người bạn thân và cậu em trai của Qiangzi đến Jeju để thăm và đồng thời cũng là để đi du lịch. Khi Qiangzi chở nhóm bạn đi ngang khu rừng, họ bắt gặp chiếc xe tông phải cành cây, đổ giữa đường, một người phụ nữ gục đầu trên vô-lăng xe. Do xe cấp cứu không thể đến khu vực đó sớm, Qiangzi sợ người phụ nữ bị tổn thương trầm trọng hơn nếu không được điều trị kịp thời, anh quyết định tự chở cô đến bệnh viện. Ở đây, đạo diễn Sun Hao đã cố tình giấu mặt Ye Jin trong cảnh này, người xem chỉ thấy dáng cô. Sự che giấu này nhằm tạo ấn tượng mạnh mẽ hơn ở cảnh đầu tiên khán giả thấy rõ khuôn mặt người phụ nữ bí ẩn: đó là khi cô bắn phát súng vào người cảnh sát mà Qiangzi trước đó đã dừng xe để hỏi đường. Nhịp cảnh cắt khi ấy rất nhanh. Góc trung: người cảnh sát tiến đền gần chiếc xe của Qiangzi, góc trung cận: khuôn mặt Qiangzi hỏi đường, góc trung: người cảnh sát gõ vào tấm cửa sổ chờ cửa kính mở lên, góc trung từ trong xe: một khẩu súng hiện lên giữa hai người bạn ngồi ở băng ghế sau, tiếng nổ vang lên, cảnh sát trúng đạn, góc trung từ ngoài xe nhìn vào: người phụ nữ bí ẩn lúc này đã tỉnh dậy, cầm khẩu súng trong tay. Đó chính là cảnh đầu tiên mà chúng ta thấy khuôn mặt của Ji Yeon – người phụ nữ bí ẩn mà sau này ta biết cô tên như thế. Nhưng ở đây, cái tên không quan trọng, điều quan trọng là trong câu chuyện này, cô đóng vai trò một người phụ nữ bí ẩn. Vì vậy, tôi vẫn sẽ tiếp tục gọi cô là người phụ nữ bí ẩn (dù có hơi dài) trong suốt bài review này.

Tôi cho rằng cảnh inciting incident của phim rất thú vị, bất ngờ. Một nhóm bạn cứu một người phụ nữ bí ẩn, ngay giây phút mọi chuyện tưởng như ổn thỏa khi nhóm bạn hỏi đường cảnh sát đến bệnh viện thì người phụ nữ này lập tức bắn vào cảnh sát. Đến giây phút ấy, cả nhóm mới hoảng sợ khi biết mình đi chung xe với nữ sát thủ. Rõ ràng, vì Sun Hao cố tình giấu khuôn mặt người phụ nữ ở cảnh đầu tiên cô xuất hiện nên khi khán giả thấy rõ khuôn mặt cô lúc nổ súng vào cảnh sát, ấn tượng bất ngờ trở nên mạnh mẽ hơn, người xem được hòa nhập thực sự với tâm trạng hoảng sợ của nhóm bạn Qiangzi. Nếu như cảnh đầu tiên khán giả thấy khuôn mặt người phụ nữ là khi cô bất tỉnh hoặc khi nhóm bạn Qiangzi dìu cô vào xe, có lẽ ấn tượng bất ngờ trong cảnh nổ súng sẽ bị giảm đi rất nhiều. Khoảnh khắc đầu tiên trông thấy ai đó luôn để lại những ấn tượng đặc biệt, có tác động rất lớn đến suy nghĩ của người quan sát về người được quan sát. Nắm vững tâm lí đó, Sun Hao đã tận dụng thật hiệu quả khoảnh khắc đầu tiên khuôn mặt người phụ nữ lộ diện để điều khiển cảm xúc của khán giả. Gần hai phần ba thời lượng phim, nhóm bạn Qiangzi luôn nghi ngờ người phụ nữ và tìm cách đối phó cô; khán giả cũng có cảm giác hồ nghi, phân vân tương tự bởi chính ấn tượng đầu tiên về cô mà Sun Hao đã gieo vào lòng họ. Có lẽ, đây là một thành công của phim.

Kết hợp nhuần nhuyễn giữa sự hồi hộp (suspense) và hài hước (comedy), Bad Guys Always Die bỗng chốc mang màu sắc của những phim noir – nơi mà cái chết được xem nhẹ, mạng người như cỏ rác và đôi khi nhà làm phim tìm sự chế giễu trong cái chết của ai đó. Phim không hề dành chút tưởng nhớ cho người chết bằng những góc quay cận hay những khoảnh khắc làm chậm lại cái chết, những cái chết trong Bad Guys Always Die luôn đến đột ngột và diễn ra trong một cảnh toàn, nhanh gọn, chóng vánh. Cách làm này không mới mẻ, đã có nhiều phim làm như thế, điển hình là The Departed của Martin Scorsese. Tuy nhiên, những phim mang phong cách noir như thế thường không có phần loveline. Ấy thế mà Bad Guys Always Die lại có phần này – một động thái rõ ràng để chiều lòng khán giả đại chúng Trung, Hàn; một cách để tăng thêm doanh thu cho phim. Nhưng điều này cũng có sự mạo hiểm: nếu làm không khéo phim dễ biến thành nồi lẩu thập cẩm với suspense, comedy, noir, romance. Tuy nhiên, Sun Hao đã vượt qua được thử thách đó. Bad Guys Always Die có tổng thể thống nhất về phong cách bởi một chất kết dính xuyên suốt: sự hài hước. Phim thậm chí còn có một số đoạn montage thể hiện tâm trạng nhân vật, tạo dựng không khí khá tốt. Đoạn montage mà tôi thích nhất là đoạn thể hiện đêm đầu tiên lạc lõng khi Qiangzi bị tách khỏi nhóm bạn, khi tên tội phạm cố gắng đuổi theo món tiền, khi cảnh sát nỗ lực đuổi theo tội phạm, mỗi người một vẻ. Vì vậy, tôi không có cảm giác khó chịu khi xem Bad Guys Always Die. Ngược lại, bộ phim mang đến cho tôi những giây phút giải trí sảng khoái, cùng cười, cùng hồi hộp, cùng lo lắng, cùng buồn với nhân vật.

Bad Guys Always Die có màu sắc theo phong cách thường thấy ở một số phim giải trí của Trung Quốc khoảng thời gian gần đây. Về cơ bản, phim vẫn dùng tông màu teal and orange được thế giới ưa chuộng. Background về đêm thì teal thiên về xanh dương, background ban ngày và ở ngoài đường thì thiên về sắc xanh lá ám trong nắng vàng. Tuy nhiên, có một số cảnh phim lại chỉnh màu da nhân vật hơi lố khiến sắc cam trong da nổi bật trên bối cảnh không thật tự nhiên. Một số cảnh, phim cũng chỉnh độ contrast thấp lại, tạo một lớp màn xám mờ phủ lên phim – phong cách chỉnh màu thường gặp ngày nay. Vậy nên, Bad Guys Always Die không có nhiều dụng ý kể chuyện đặc biệt trong cách dùng màu sắc. Phim chỉ dừng ở mức tạo ra lớp màu đẹp, dễ nhìn, khiến nhân vật nổi bật.

Về mặt diễn xuất, các diễn viên trong phim đã làm tốt vai trò của họ, đặc biệt là Son Ye Jin – vai diễn Ji Yeon vốn dĩ không nhiều thách thức với nàng. Các nhân vật trong phim đều không có tính cách phức tạp, mọi tâm tư của họ gần như bộc lộ qua hành động. Tuy nhiên, sự đơn giản này cũng không khiến tôi khó chịu bởi phim mang đến thông điệp dù cũ nhưng luôn mới: đừng đánh giá sự vật qua vẻ ngoài của nó. Và vì vậy, Bad Guys Always Die không hẳn là hành trình theo đuổi món tiền hay tội phạm nữa, phim trở thành cuộc truy tìm giữa cái thật và cái giả, giữa người lừa dối và người bị lừa dối, giữa bản chất sự việc và định kiến của mọi người về nó.

Điểm đánh giá: 7/10
Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Trà chiều

Văn hóa đọc tại Việt Nam: Hành trình tỉnh thức trong thời đại mất tập trung

Khi cả thế giới đang quay cuồng trong cơn lốc của tốc độ, của công nghệ số và mạng xã hội, văn hóa đọc – vốn là một hoạt động tĩnh tại, cô độc và đòi hỏi sự kiên nhẫn – bỗng trở thành hiện tượng lạ giữa đời sống hiện đại.

Published

on

Một cú chạm màn hình có thể đưa bạn tới bất kỳ đâu: từ buổi hòa nhạc ở Vienna đến một bữa ăn đường phố ở Bangkok, từ những khoảnh khắc riêng tư của người xa lạ đến bản tin thời sự lúc rạng đông. Nhưng càng dễ dàng kết nối, chúng ta lại càng khó khăn trong việc lắng nghe chính mình. 

Và trong cuộc hành trình ấy, đọc sách - hành động tưởng như đã cũ kỹ, đang âm thầm trở lại như một nơi trú ẩn cuối cùng của tâm hồn hiện đại.

Văn hóa đọc không chỉ là việc “đọc sách”

Văn hóa đọc không nên được định nghĩa đơn giản chỉ là hành vi tiếp nhận văn bản in ấn, cần phải nhìn nó như là một cấu trúc hệ giá trị, nơi người đọc không chỉ tiêu thụ thông tin, mà còn tương tác với tri thức, phản tư, và từ đó tạo ra tầng sâu văn hóa cá nhân. Nên hiểu đọc là một hành vi văn hóa, không chỉ là kỹ năng.

Thế nhưng, tại Việt Nam, hành vi đọc nhiều khi bị giản lược thành “hoạt động học thuộc”. Cái gốc của việc đọc để hiểu mình và hiểu thế giới vẫn còn mờ nhạt trong đời sống học đường lẫn đời sống đô thị.

Chúng ta từng được dạy rằng đọc là để biết nhiều hơn. Nhưng biết không đồng nghĩa với hiểu. “Biết” là quá trình tiếp nhận và lưu trữ dữ liệu dưới dạng thông tin. “Hiểu” vượt lên trên điều đó - nó đòi hỏi sự tham gia của trải nghiệm cá nhân, khả năng phân tích, đồng cảm và cả những va chạm nội tâm. Một tác phẩm có giá trị không chỉ cung cấp tri thức ngoại tại, mà còn tạo điều kiện cho chủ thể tiếp nhận được soi chiếu, phản tỉnh từ đó nhận diện những lớp ẩn sâu của bản thể qua hình ảnh của người khác trong trang sách. 

Khi một đứa trẻ đọc Những tấm lòng cao cả, em sẽ không chỉ học đạo đức, mà bắt đầu cảm nhận được trái tim nhân loại. Khi một thiếu niên lần đầu đọc Người xa lạ của Camus, cậu ấy có thể không lý giải nổi thế giới, nhưng sẽ bắt đầu đặt câu hỏi về nó và về chính mình.

Vấn đề không nằm ở việc thiếu sách, mà thiếu “thái độ văn hóa” với sách

Mặc dù Việt Nam có hơn 30.000 đầu sách xuất bản mỗi năm (theo Cục Xuất bản), thế nhưng lượng sách bán ra tập trung chủ yếu ở thể loại giải trí, ngôn tình, self-help, còn các dòng sách triết học, văn hóa, nhân văn… chiếm tỷ lệ nhỏ hơn. Ta không thiếu sách, ta thiếu một nền tảng thẩm mỹ và nhân văn để lựa chọn sách một cách có chủ đích.

Nguyên nhân không chỉ nằm ở thời đại số làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin, mà còn nằm ở cách giáo dục về đọc sách. Tại nhiều trường học, việc đọc vẫn gắn liền với hình thức kiểm tra, chấm điểm, làm bài văn nghị luận sách giáo khoa - điều khiến đọc sách trở thành một “nghĩa vụ” hơn là một hành trình khám phá. Gia đình, các bậc phụ huynh còn chưa thực sự nghiên cứu và đặt mối quan tâm lớn lao cho việc giáo dục con trẻ dẫn đến việc các em phụ thuộc quá nhiều vào các thiết bị công nghệ. 

Nhưng tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự nở rộ của các phong trào đọc sách tự phát, không phải từ chỉ đạo hành chính, mà từ những con người đang đi tìm lại bản thân giữa cơn hỗn loạn của thông tin.

Đáng chú ý, sự phát triển của nền tảng số cũng không còn là lực cản, mà đang dần trở thành đòn bẩy cho việc tiếp cận sách: audio book, book podcast, nền tảng chia sẻ tóm tắt sách hay các cộng đồng đọc sách online đang lan tỏa mạnh mẽ. Sách không còn là một vật thể bất động mà trở thành dòng chảy đồng hành với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, âm thanh và cảm xúc.

Tất cả đang làm sống lại một giá trị xưa cũ: sự tĩnh lặng nội tâm. Đọc sách giờ đây không chỉ là tiếp nhận thông tin, mà là một hành động phản kháng với sự phân tán, ồn ào, và tiêu dùng giải trí mang tính chất "mì ăn liền".

Văn hóa đọc trong thời đại “siêu dữ liệu”

Thách thức lớn nhất với văn hóa đọc trong thời đại kỹ thuật số không phải là sự biến mất của sách giấy, mà là sự thoái hóa khả năng tập trung, năng lực phản tư và thái độ nghiêm túc của con người với tri thức. Chúng ta sống trong thời đại mà nội dung có thể bị tiêu thụ như thức ăn nhanh, nơi mọi người “đọc để phản ứng”, thay vì “đọc để cảm nghiệm”. Bởi vậy, chọn đọc - nhất là đọc sâu, đọc chậm giờ đây không chỉ là một lựa chọn mang tính trí tuệ, mà còn là một cách gìn giữ bản thân trước sự xao nhãng của thế giới hiện đại.

Đọc là kháng cự lại tốc độ. Là từ chối cái dễ. Là chọn cái sâu - dù biết nó chậm.

Văn hóa đọc giờ đây không chỉ là sách, mà còn là cách ta sống. Không chỉ là hành động cá nhân. Nó phản ánh cả một văn hóa. Một đất nước biết trân trọng sách là một đất nước không dễ bị lãng quên ký ức. Một thế hệ đọc sách là một thế hệ có nội lực.

Ở Việt Nam, từng có một thế kỷ mà sách được đọc bằng ánh đèn dầu, được chép tay, được truyền tay như những báu vật. Sách đi qua chiến tranh, qua đói nghèo, qua đạn bom, nhưng vẫn sống. Vấn đề của hôm nay không phải là thiếu sách, mà là quá nhiều thứ giành giật tâm trí ta khỏi sách.

Vấn đề sâu xa hơn: ta không còn coi đọc là một phần của việc sống đẹp. Thế giới đang dần lãng quên sự im lặng, sự chậm rãi, sự suy tư. Trong truyền thống tư tưởng phương Đông, đọc không phải là phương tiện để đạt được cái bên ngoài, mà là trở về với cái bên trong. Từ thời Lão - Trang, việc học, việc đọc vốn gắn liền với sự tĩnh tại của tâm. Đọc là tu thân. Đọc là dưỡng khí. Đọc là hành động đi ngược lại với sự xao động của đời sống, để khơi mở “minh tâm kiến tánh”, thấy lại chân diện mục của chính mình. 

Ngày xưa, các nho sĩ khi đọc sách thường đặt một bát nước trong veo bên cạnh, để “nếu tâm xao động thì nước đục” như một cách tự phản tỉnh. Người đọc không chỉ là kẻ truy cầu tri thức, mà còn là người gìn giữ đạo lý, tiết tháo và sự lặng thầm bền bỉ của văn hóa.

Trong thời đại siêu kết nối hiện nay, nghịch lý lớn nhất là con người càng lúc càng rỗng hơn giữa vô số dữ liệu. Chúng ta “biết” rất nhiều thứ nhưng lại hiểu rất ít điều, và càng ít sống sâu. Văn hóa đọc nếu được xem là một hệ sinh thái văn hóa bền vững - chính là cơ chế tự phòng vệ của trí tuệ trước sự tha hóa của thị hiếu và tốc độ.

Bởi vì đọc không chỉ là để “biết”, mà để nghi ngờ cái mình biết. Không chỉ để “giỏi lên”, mà để hiểu mình và hiểu người hơn. Và không chỉ để có tri thức, mà để trở nên người hơn trong thế giới ngày càng thiếu vắng chất người. 

Đọc - tự bản thân nó là một hành động kháng cự lại sự lãng quên, sự cạn mỏng và cả sự dễ dãi. Nó khơi mở lại điều tưởng như đã mất: một chiều sâu văn hóa không thể số hóa, không thể sao chép, thứ văn hóa được chưng cất từ mỗi lần lật trang, từ mỗi khoảnh khắc im lặng tự đối diện chính mình. Để được sống với một trái tim có lớp lang. 

Và nếu phải chọn một hành động lặng lẽ nào đó để định nghĩa tinh thần của một dân tộc đang muốn trở mình từ bên trong, thì đó hẳn phải là: đọc sách.

Ngọc Trâm

Đọc bài viết

Cafe sáng