Trà chiều

Angel’s Egg – Nghệ thuật kể chuyện bằng thị giác độc đáo của Oshii Mamoru

Đạo diễn Oshii Mamoru đã truyền tải xuất sắc câu chuyện về sự sống và cái chết, nỗi cô đơn thuộc về bản chất tồn tại của mỗi người.

Published

on

Thông qua đề tài hậu tận thế, bộ phim hoạt hình Angel’s Egg (tên tiếng Nhật: Tenshi no Tamago, tạm dịch: Quả trứng của thiên thần, sản xuất năm 1985) của đạo diễn Oshii Mamoru đã truyền tải xuất sắc câu chuyện về sự sống và cái chết, nỗi cô đơn thuộc về bản chất tồn tại của mỗi người.

Trong một thành phố bỏ hoang – nơi dường như sự sống không còn tồn tại, có cô gái luôn mang theo một quả trứng bên mình. Ngày qua ngày, cô lang thang khắp nơi để tìm thức ăn, nước uống, những chiếc bình hình cầu. Bất kể đi đâu, làm gì, cô cũng không rời quả trứng ấy. Nó nằm bên trong lớp váy cô, ngay phần bụng, cô vừa đi vừa ôm nó như thể đó chính là bào thai của cô. Một hôm, cô gặp chàng trai xa lạ trên phố. Anh chất vấn cô về thứ bên trong quả trứng và muốn cô phá vỡ nó để tìm hiểu. Cô nổi giận và không chấp nhận ý tưởng này.

Đó là câu chuyện chính của Angel’s Egg: một câu chuyện có vẻ khá bài bản với một nhân vật có một mục tiêu và một nhân vật khác chống lại mục tiêu đó. Tuy nhiên, đạo diễn Oshii Mamoru từng phát biểu rằng cách tiếp cận phim của ông khác với công thức Hollywood thông thường; đối với ông thị giác là yếu tố quan trọng nhất, sau đó mới đến câu chuyện và nhân vật nằm ở vị trí cuối cùng. Có lẽ vì vậy mà câu chuyện trong Angel’s Egg rất mỏng, thiếu đi những nút thắt kịch tính; cả bộ phim chỉ có hai nhân vật và hai nhân vật ấy đều vô danh, không có tính cách rõ ràng, thoại rất ít. Do đó, nếu chỉ phân tích Angel’s Egg dựa trên những diễn biến chính, ta sẽ bỏ qua rất nhiều lớp nghĩa Oshii truyền tải thông qua những hình ảnh đơn lẻ, rải rác xuất hiện trong phim, đôi khi không dính líu thật chặt đến cốt truyện.

Dưới nghệ thuật thị giác độc đáo của Oshii, những hình ảnh xuất hiện trong phim được nâng thành biểu tượng và nỗi ám ảnh của nhân vật để thay phiên nhau cung cấp cho ta manh mối về một câu chuyện khác, dường như đã bị ẩn đi dưới câu chuyện chính. Khi câu chuyện đó không tồn tại rõ ràng trong phim, ta chỉ còn thấy những phản chiếu về các mảnh rời của chúng khi đã bị tách ra khỏi tổng thể. Việc quan sát những phản chiếu này khiến ta như bước vào công việc của người “nhìn bóng đoán vật”. Những cái bóng không phải lúc nào cũng cung cấp cho ta dự tưởng chính xác nhất về chủ sở hữu của nó. Như hiện tượng những từ đồng âm dị nghĩa, một cái bóng có thể là kết quả từ nhiều phiên bản vật chất khác nhau vì ở đây, chi tiết đã bị xóa mờ, chỉ còn lại hình khối tổng thể. Nhưng chính sự mơ hồ ấy đã khiến việc thưởng thức Angel’s Egg trở thành một trải nghiệm thú vị cho người xem.

Khung hình đầu tiên của Angel’s Egg cho ta thấy một hình ảnh rất ấn tượng và mang nhiều ngữ nghĩa. Đó là cận cảnh, góc máy chính diện một đôi tay trẻ thơ như đang nâng niu vật nào đó vô hình. Bàn tay ấy dần chuyển thành đôi tay thô kệch của người lớn, rồi nó co chặt lại như đang bóp nát thứ gì đó. Một tiếng “rắc” vang lên khiến ta liên tưởng thứ vô hình ấy chính là quả trứng. Một sự nâng niu rồi phá vỡ. Cảnh đầu tiên này đã tiết lộ cấu trúc trong câu chuyện chính của toàn bộ phim. Đôi tay nhỏ nhắn ấy có thể là đôi tay của cô gái, bàn tay người lớn sậm màu ấy có thể thuộc về chàng trai. Nhưng cách giữ nguyên khung hình và chỉ bằng một động tác tay xoay vòng cho sự biến đổi từ tay này thành tay kia có thể là một gợi ý của Oshii rằng: cô gái và chàng trai có khả năng chỉ là một cá thể; người này có thể đã tạo ra người kia, người kia có thể chỉ là phản chiếu của người này. Ngoài ra, nó cũng có thể diễn giải thành hai lớp nghĩa như sau. Lớp nghĩa thứ nhất có lẽ nhằm ám chỉ đến câu chuyện Chúa đã tạo ra thế giới, nhưng rồi vì phẫn nộ trước những tội ác của loài người, Ngài đã hủy diệt địa cầu bằng trận Đại hồng thủy – đây cũng là câu chuyện chàng trai kể cho cô gái nghe; và ở cuối phim, thế giới họ sống cũng có một trận mưa lớn. Lớp nghĩa thứ hai có vẻ như ít liên quan đến phim hơn nhưng tôi cảm nhận nó có thể hiểu là: trẻ con đôi khi lại biết gìn giữ những điều quan trọng hơn người lớn. Điều này khiến tôi suy tư về câu hỏi tại sao chúng ta thường có khuynh hướng muốn phá hủy những thứ ta đã từng trân trọng? Mỗi người có lẽ sẽ có một cách lý giải khác nhau nhưng ở bộ phim này, Oshii đã rất tinh tế khi chọn quả trứng làm hình ảnh biểu tượng. Quả trứng gợi cho ta cảm giác mong manh, sự sống chứa đựng trong nó khiến ta luôn muốn nâng niu bảo vệ; nhưng đồng thời, nó cũng có thể chứa đựng nỗi sợ hãi của ta, là thứ ta muốn lẩn tránh vì không thấy được cụ thể bên trong. Có lẽ chính sự song hành hai cảm giác đối nghịch ấy khiến ta muốn hủy diệt những thứ mình từng trân trọng.

Hình ảnh đôi bàn tay xuất hiện ở đầu phim

Ánh sáng cũng là yếu tố cần lưu ý trong Angel’s Egg. Cả thành phố diễn ra câu chuyện dường như ngập trong bóng tối, không có chút ánh sáng. Phân cảnh duy nhất người xem thấy được ánh sáng thiên nhiên là một trong những cảnh đầu phim: cô gái bị đánh thức bởi tiếng kêu từ khối cầu lơ lửng trên bầu trời, cô bước đến một nơi tương tự khung cửa sổ để ngắm cảnh vật bên ngoài chìm trong buổi hoàng hôn đỏ rực. Sự thiếu vắng ánh sáng đã tô đậm lên không khí mục ruỗng hậu tận thế, nhấn mạnh cảm giác những sinh hoạt đời thường của con người từ lâu đã rời xa nơi này.

Trong thành phố vô minh ấy, cô gái cô đơn lang thang mỗi ngày để tìm lương thực nuôi sống mình. Đó là mục tiêu kéo cô ra khỏi nơi cư ngụ, nhưng đó cũng là hành vi buộc cô phải bảo vệ quả trứng cẩn thận hơn trước những mối đe dọa từ bên ngoài. Quả trứng là thứ quý giá giúp cô thoát khỏi tình trạng đơn độc, cũng là thứ giúp cô tìm được lẽ sống. Một trong những điều cô lo sợ là những người đàn ông như tượng đá, tay cầm cây lao móc. Họ ngồi hoặc đứng khắp thành phố như chờ đợi một cuộc săn lớn nơi đại dương. Và rồi con mồi của họ: những đàn cá hay bóng của những đàn cá có hình dạng như cá vây tay cũng xuất hiện. Những người đàn ông điên cuồng đuổi theo những chiếc bóng của đàn cá bơi lướt qua mặt đường, vách tường để rồi những lưỡi câu của họ chạm leng keng vào gạch đá, phá hủy những ngọn đèn, những ô cửa sổ mà vẫn không thể bắt được bóng một con cá nào. Trong cảnh này, cô gái đã nói một thông tin quan trọng cho chàng trai và cũng là cho chúng ta: “Đàn cá không còn ở đây nữa, vậy mà họ vẫn đuổi theo chúng. Những động vật như cá chẳng nơi đâu còn nữa…” Đây có thể là một thông điệp của Oshii Mamoru về bảo vệ môi trường. Nhưng đồng thời, nghĩ rộng ra, đàn cá cũng có thể tượng trưng cho thứ con người luôn khao khát, nhưng chúng chỉ là những cái bóng, những ảo ảnh. Con người đã tàn phá chính quê hương của mình chỉ vì những điều vô nghĩa.

Bóng những đàn cá đi qua thành phố

Tại sao Oshii lại chọn cá mà không phải bất cứ động vật nào khác để nói lên điều đó? Trong phim xuất hiện khá nhiều hình ảnh bọt khí tròn nổi lên trong nước, chúng có hình dạng tương tự như những quả trứng. Có lẽ, đây cũng là lí do Oshii chọn cá. So với những động vật khác, ta rất dễ quan sát sự sống của cá biểu hiện qua hơi thở khi luồng khí ấy được tạo hình rõ ràng trong nước. Nước điêu khắc thứ vốn vô hình như hơi thở thành thứ hữu hình, cũng giống như quả trứng là trạm chuyển tiếp giữa cái chưa tồn tại và cái sắp tồn tại. Chàng trai và cô gái cũng đã từng có một cuộc trò chuyện về hơi thở khi cô ôm quả trứng vào lòng, lắng nghe âm thanh của nó.

“Cô có nghe thấy gì không?”

“Tôi nghe thấy. Đó là một tiếng thở rất khẽ.”

“Đó chỉ là hơi thở của cô thôi.”

“Tôi nghe thấy tiếng vỗ cánh. Nó hẳn đang mơ được bay trên bầu trời cao rộng.”

“Đó chỉ là tiếng gió thổi ngoài kia.”

Đây không chỉ là cuộc đối thoại đơn thuần về quả trứng, nó còn là cuộc đối thoại giữa sự sống và sự phủ nhận sự sống, giữa ý thức và vật chất, giữa dự tưởng và thực tế.

Khi chàng trai và cô gái đi qua cửa hang nơi cô sống, cỡ cảnh toàn cho thấy hình ảnh cửa hang có sự tương đồng về thị giác với âm hộ phụ nữ. Đó vốn là nơi sự sống phôi thai. Nhưng khi tiến vào trong, ta lại thấy ngay bộ xương khô lớn có cấu trúc tựa như một con Leviathan bị mắc cạn.  Ngoài ra, trong hang còn rất nhiều xương của động vật đã chết nhưng chỉ có duy nhất một quả trứng tượng trưng cho sự sống. Điều đó lại càng khắc sâu trong ta cảm giác cuộc sống mong manh như thế nào giữa cái chết còn hiển nhiên hơn cả hiển nhiên.  

Cửa hang nơi cô gái sinh sống

Sau khi chàng trai đập vỡ quả trứng, cảnh cô gái nằm ngủ trên giường xuất hiện ở đầu phim được lặp lại. Từng động tác của cô khi vừa tỉnh dậy đều giống hệt phân cảnh đầu phim. Điều này khiến người xem dễ lầm tưởng thời gian đã quay ngược nhưng thực tế, câu chuyện vẫn tiếp diễn. Điểm khác biệt duy nhất là cô gái không tìm thấy quả trứng trên giường, cô phát hiện trứng đã vỡ trên nền đất. Ở đây, việc lặp lại giống hệt góc máy, từng động tác khi cô gái vừa thức dậy có tác dụng xóa mờ lằn ranh giữa hiện thực và giấc mơ. Có khả năng quả trứng vốn đã bị vỡ, và từ đầu phim đến phân đoạn này chỉ là giấc mơ của cô nhằm đánh lừa chính mình rằng quả trứng vẫn nguyên vẹn, cô vẫn đang ấp nó, bảo vệ nó. Tuy nhiên, cô không thể tự lừa dối mình mãi. Khi chàng trai xuất hiện trong giấc mơ, tính hiện thực dần trở lại, mối đe dọa dành cho quả trứng bắt đầu gia tăng. Có lẽ đó cũng là lí do ngay từ đầu, cô gái chạy trốn chàng trai. Thế nhưng, rồi cũng đến lúc quả trứng trong giấc mơ vỡ nát. Cô phải tỉnh dậy, đối diện với thực tế đau lòng ấy.

Cảnh cô gái thức dậy ở đầu phim

Oshii đã rất khéo khi chọn phân cách hai mốc sự kiện quan trọng nhất trong phim bằng giấc ngủ và sự tỉnh thức của cô gái, khiến ta luôn có cảm giác không chắc chắn giữa mơ và thực. Chàng trai có khả năng là người xuất hiện trong giấc mơ của cô gái; nhưng đồng thời, điều ngược lại cũng có thể xảy ra. Chàng trai có thể là người cuối cùng còn sống trong thế giới ấy. Cô gái thực chất chỉ là giấc mơ hay ảo giác do anh tạo ra vì quá cô đơn. Hình ảnh đôi bàn tay chạm vào quả trứng vô hình ở đầu phim có thể là một ám hiệu rằng: thực tế, quả trứng đó đã mất đi. Chàng trai chỉ tái tạo lại quả trứng bằng cách cho cô gái giữ gìn nó trong giấc mơ.

Nhập nhằng giữa những phiên bản khác nhau của hiện thực và giấc mơ, cô gái liên tục hỏi chàng trai cả trong mơ lẫn ngoài đời thực: “Anh là ai?” Câu hỏi ấy dường như không chỉ đơn giản để lấy được thông tin lý lịch cơ bản của chàng trai, nó như muốn phơi bày đến tận cùng thân phận anh, mục đích tồn tại của anh. Nó bỗng dưng trở thành độ rỗng vô tận khi chính anh cũng hỏi lại cô rằng “cô là ai” và cả hai đều không trả lời được câu hỏi của đối phương. Rồi nó chuyển hóa thành vực sâu hun hút khi chàng trai nói về con chim của Noah và sự lãng quên.

“Tất cả những loài động vật trên Trái Đất đều chết. Những con chim, gia cầm, thú hoang, tất cả những loài bò trên mặt đất và tất cả con người. Chỉ có Noah và những loài động vật trên con thuyền của ông là sống sót. Rồi ông cho một con bồ câu do thám xem nước đã rút bớt trên mặt đất chưa. Ông đợi thêm bảy ngày và lại cho nó bay đi… nhưng nó không trở về nữa. Con chim đã đậu nơi đâu? Hay là nó đã kiệt sức và bị những làn nước nuốt chửng? Không ai biết được. Mọi người chỉ có thể chờ nó quay trở lại. Chờ đợi và dần chán nản vì chờ đợi. Họ quên rằng đã phóng con chim đi, quên rằng đã từng có một con chim. Họ thậm chí cũng quên rằng có cả một thế giới đã chìm dưới nước. Họ quên mình từ đâu đến, mình đã phiêu bạt bao lâu, mình đang đi về đâu. Đó là chuyện đã xảy ra rất lâu trước khi những loài động vật bắt đầu hóa thạch. Con chim tôi từng nhìn thấy, tôi cũng không nhớ rõ đã thấy nó ở đâu hoặc khi nào, chuyện đã từ rất lâu rồi. Có lẽ đó chỉ là một giấc mơ.  Có lẽ tôi, cô và đàn cá chỉ tồn tại trong ký ức của một người đã mất. Có lẽ không ai thực sự tồn tại và chỉ có mưa rơi ngoài kia. Có lẽ con chim ấy chưa từng tồn tại.”

Lời thoại này của chàng trai không khác gì một áng văn tự sự đẹp và buồn, một bài thơ u uất. Có lẽ cả bộ phim cũng chỉ là một giấc mơ trong một giấc mơ. Hình ảnh chàng trai chúng ta thấy có thể không phải là hình ảnh thực của chàng trai đang nằm mơ giấc mơ chồng chéo nhiều tầng này. Người ta có thể tự tái tạo hình ảnh của chính mình trong giấc mơ. Suy cho cùng, đôi bàn tay xuất hiện đầu phim có vẻ như là hình ảnh hiện thực nhất ta thấy được.

Cả chàng trai và cô gái đều có đôi mắt tam bạch nhãn với tròng đen khá nhỏ. Họ luôn cúi đầu và ngước mắt nhìn lên đối phương khi trò chuyện. Tại sao họ không thể nhìn thẳng mặt nhau? Những lúc không đối thoại, hầu như họ cũng luôn cúi đầu và ngước mắt lên để quan sát xung quanh. Chi tiết này phần nào cho ta cảm giác về sự rụt rè, khép mình của họ với đối phương, với cuộc sống, với chính mình.

Đôi mắt tam bạch nhãn của cô gái và chàng trai

Phân cảnh cuối phim khi máy quay từ từ đi xa khung hình chàng trai đứng lẻ loi bên bờ biển cho thấy vùng đất xung quanh trống vắng, hoang liêu ở cấp độ vĩ mô hơn khiến tôi nhớ đến cảnh kết với chuyển động máy tương tự trong Into the wild (2007). Cảnh toàn được tạo ra từ động tác zoom out dần xóa nhòa sự gần gũi với đối tượng ghi hình, nhấn chìm ta trong nỗi cô đơn của không gian mênh mông. Nhưng ở Angel’s Egg, cú máy ấy đã cung cấp cho người xem một thông tin vô cùng quan trọng: đó là lần đầu tiên ta được thấy tổng thể vùng đất này, nó là một hòn đảo nằm giữa đại dương mà nhìn từ xa trông giống như hình dạng của một con thuyền bị lật úp. Phải chăng đó chính là con thuyền của Noah?

Oshii Mamoru vốn nổi tiếng vì cách kể chuyện mang tính triết lí trong những bộ phim có hơi hướng khoa học viễn tưởng mà đỉnh cao chói lọi là serie Ghost in the Shell, Kerberos… Angel’s Egg là phim thuộc giai đoạn đầu tiên trong sự nghiệp ông tự đạo diễn và viết kịch bản (trước đó, Oshii đạo diễn loạt phim hoạt hình Urusei Yatsura chuyển thể từ manga của Takahashi Rumiko); dù vậy, ở tác phẩm này, ta đã thấy những đặc trưng trong phong cách của ông được xác lập khá rõ ràng. Ở thời điểm mới ra đời, Angel’s Egg không nhận được đánh giá tích cực từ giới phê bình. Tuy nhiên, qua thời gian, bộ phim dần khẳng định được vị trí trong gia tài sự nghiệp của Oshii Mamoru. Brian Ruh, một chuyên gia nghiên cứu văn hóa Nhật Bản đương đại đã cho rằng tác phẩm này là “một trong những bộ phim đẹp và giàu thi tính nhất dưới hình thức hoạt họa.” Trong một bài báo trên tạp chí Senses of Cinema về Oshii, tác giả Richard Suchenski cũng có nhận xét rằng bộ phim là “sự chắt lọc tinh túy nhất từ cả yếu tố thần thoại nằm trong mặt thị giác và phong cách thường thấy của Oshii,” “Patlabor 2 có thể tinh tế hơn, Ghost in the Shell có thể quan trọng hơn, và Avalon có thể mang phức cảm thần thoại nhiều hơn, nhưng Angel’s Egg với công nghệ thấp và vẽ tay vẫn là tác phẩm mang đậm tính cá nhân nhất của Oshii.”

Kodaki

Bài viết đã được đăng trong sách Điện ảnh Nhật Bản và Việt Nam đương đại: Giao lưu văn hóa và ảnh hưởng do TS. Đào Lê Na chủ biên, NXB. Thông tin và Truyền thông ấn hành năm 2019.

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Mặt trái của “Manifest”: Khi tư duy tích cực có thể phản tác dụng

“Manifest” – từ khóa của năm 2024 do từ điển Cambridge bình chọn, đã trở thành một cơn sốt trong giới trẻ, lan tỏa mạnh mẽ trên khắp các nền tảng mạng xã hội. Nhưng liệu manifest có thực sự là con đường thần kỳ dẫn đến hạnh phúc?

Published

on

Manifest, hay luật hấp dẫn, đại diện cho một niềm tin vào sức hút kỳ diệu của vũ trụ, vào một thế lực lớn lao và quyền năng hơn chính bản thân, có thể giúp ta đạt được mọi mong muốn. Từ ước mơ về một cuộc sống giàu sang, một tình yêu viên mãn đến khát khao thành công trong sự nghiệp, tất cả dường như đều nằm trong tầm tay chỉ với sức mạnh của suy nghĩ tích cực.

Nhằm mang đến cho bạn đọc một cái nhìn đa chiều về trào lưu này, Bookish xin giới thiệu bài viết được dịch từ tạp chí Psychology Today, phân tích những mặt trái tiềm ẩn của manifest, giúp chúng ta tránh sa vào những cạm bẫy tư duy.

***


“Manifest” đang là một trong những trào lưu thịnh hành nhất ở lĩnh vực sách self-help. Tác phẩm MANIFEST - 7 Bước Để Thay Đổi Cuộc Đời Bạn Mãi Mãi (2022) của Roxie Nafousi đã ngay lập tức trở thành hiện tượng bán chạy toàn cầu khi vừa ra mắt. Cuốn sách này từng có mặt trong danh sách bán chạy nhất của Sunday Times nhiều tuần liền, và được không ít người nổi tiếng tìm đọc.

Tuy nhiên, cuốn sách của Nafousi lại thuộc về một trường phái self-help lâu đời hơn, vốn cổ súy cho ý tưởng về “luật hấp dẫn”. Luật này cho rằng chính suy nghĩ của chúng ta quyết định những gì ta thu hút trong cuộc sống như may rủi, giàu nghèo, ốm đau hay khỏe mạnh, những mối quan hệ độc hại hay tốt đẹp. Tôi cho rằng mặc dù việc nhiều người thích những cuốn sách kiểu này là điều dễ hiểu, nhưng manifest lại là một xu hướng tiềm ẩn nhiều nguy hiểm.

Những ví dụ tiêu biểu nhất về sách self-help theo luật hấp dẫn là The Secret - Bí Mật (2006) của Rhonda Byrne và Think and Grow Rich - Nghĩ Giàu Và Làm Giàu (1937) của Napoleon Hill. Những cuốn sách này đẩy ý tưởng kiểm soát tâm trí (được ủng hộ bởi nhiều trường phái triết học cổ đại như Khắc kỷ, cũng như các chuyên gia trị liệu nhận thức hành vi – CBT) đi xa hơn. Các tác giả đưa ra quan niệm có thể tạm gọi là học thuyết “tâm trí chế ngự vật chất”, khẳng định rằng suy nghĩ của chúng ta có sức mạnh toàn năng, không chỉ quyết định cảm xúc mà còn định hình cả thế giới bên ngoài.

Đúng là có bằng chứng cho thấy rằng tư duy lạc quan tốt hơn tư duy bi quan; và ở một mức độ nào đó, tâm thế và thái độ tích cực có thể dễ khiến ta thành công hơn, ít gặp vấn đề về sức khỏe và các mối quan hệ hơn – nhìn chung là ta có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đơn cử là, cha đẻ của tâm lý học tích cực, Martin Seligman, đã viết rất nhiều về chủ đề này. Seligman cho rằng tư duy bi quan và cái mà ông gọi là “sự bất lực tự ứng nghiệm” chính là nguyên nhân gây ra nhiều vấn đề về sức khỏe, khiến ta bị giảm tuổi thọ, đạt thành tích kém cỏi hơn và gặp nhiều tai họa hơn trong cuộc đời – bởi lẽ, luôn lo sợ những điều này xảy ra có thể biến chúng thành sự thật. [i] Lợi ích của việc hình dung những mục tiêu tích cực và việc chúng ta đạt được kết quả mong muốn cũng đã được nghiên cứu rộng rãi.

Tuy nhiên, nhóm người ủng hộ trào lưu manifest lại đưa ra những tuyên bố cực đoan hơn nhiều. Thông thường, các tác phẩm của họ đều dựa trên những niềm tin huyền bí đáng ngờ, được cho là đúc kết từ một số nguyên lý vật lý lượng tử (mặc dù chưa từng có bằng chứng khoa học nào củng cố cho những tuyên bố này).

Truyền thống self-help này bắt nguồn từ khoảng mấy chục năm cuối thế kỷ 19, khởi đầu với phong trào “chữa lành bằng tâm trí” ở Mỹ. Những người theo phong trào này tin rằng mọi bệnh tật đều bắt nguồn từ tâm trí. Do đó, suy nghĩ lành mạnh sẽ có tác dụng chữa lành. Người thợ đồng hồ Mỹ Phineas Parkhurst Quimby (1802–1866) là một trong những người đầu tiên nêu rõ ý tưởng này. [ii] Quimby cho rằng tất cả bệnh tật chẳng qua chỉ là một niềm tin sai lầm biểu hiện ra thành các triệu chứng vật lý. Nếu chấp nhận rằng bệnh tật chỉ nằm trong tâm trí, chúng ta có thể dễ dàng tự chữa lành cho mình.

Giáo phái chữa bệnh bằng tâm trí nổi bật nhất là Giáo hội Khoa học Kitô giáo, do Mary Baker Eddy (1821–1910) sáng lập. Cuốn kinh thánh trước tác của Eddy, Science and Health with Key to the Scriptures (1875) (Tạm dịch: Khoa học và Sức khỏe với Chìa khóa giải mã Kinh Thánh), hiện đã bán được hơn 9 triệu bản. Giống như Quimby, các tín đồ Khoa học Kitô giáo tin rằng bệnh tật có thể chữa khỏi chỉ bằng cầu nguyện. Thần học của Eddy dựa trên quan niệm thần bí cổ xưa rằng thực tại thuần túy là tâm linh và thế giới vật chất chỉ là ảo ảnh. [iii] Do đó, bệnh tật không gì khác hơn là một lỗi lầm của tâm trí – hậu quả của việc sai lầm khi đặt niềm tin vào vật chất và giác quan. Những tín đồ Khoa học Kitô giáo cực đoan hoàn toàn bác bỏ mọi can thiệp y tế và phẫu thuật. Không có gì ngạc nhiên khi phương pháp chăm sóc sức khỏe này đã khiến cho nhiều thành viên giáo phái và con cái của họ phải vong mạng.

Nhà triết học và tâm lý học William James (1842–1910) cũng rất quan tâm đến ý tưởng về nguồn gốc tâm lý của bệnh tật. Trong The Varieties of Religious Experience (1902) (Tạm dịch: Muôn mặt kinh nghiệm tôn giáo), ông mô tả phong trào chữa lành bằng tâm trí là một “quan điểm sống lạc quan”:

Những người dẫn dắt phong trào này tin tưởng sâu sắc vào năng lực chữa lành của một tâm trí khỏe mạnh, vào khả năng chiến thắng của lòng can đảm, hy vọng và niềm tin, đồng thời khinh miệt sự nghi ngờ, sợ hãi, lo lắng và mọi trạng thái tinh thần căng thẳng, dè dặt thái quá.. [iv]

Chúng ta có thể thấy rõ ràng là trong các nguyên lý của phong trào chữa lành bằng tâm trí có chứa đựng hạt giống của tư duy tích cực. Tư duy tích cực lần đầu tiên được phổ biến là trong tác phẩm The Power of Positive Thinking (1952) (Tạm dịch: Sức mạnh của tư duy tích cực) của mục sư người Mỹ Norman Vincent Peale. Cuốn sách này có tầm ảnh hưởng, nhưng đồng thời cũng gây tranh cãi.

Một nhà tư tưởng “chữa lành bằng tâm trí” quan trọng khác là Prentice Mulford (1834–1892) –  ông đã đặt ra các nguyên tắc của “luật hấp dẫn”. Trong Thoughts are Things (1889) (Tạm dịch: Tư duy là Vạn vật), Mulford giải thích rằng suy nghĩ tích cực thu hút kết quả tích cực và suy nghĩ tiêu cực thu hút kết quả tiêu cực. William Walker Atkinson sau đó cũng đưa ra những tuyên bố tương tự trong Thought Vibration or the Law of Attraction in the Thought World (1906) (Tạm dịch: Sóng Tư tưởng và Luật hấp dẫn trong Thế giới Tinh thần). Tác giả self-help đầu tiên kết hợp ý tưởng tâm linh của luật hấp dẫn với khát vọng vật chất hữu hình là Napoleon Hill. Công thức này hóa ra lại cực kỳ sinh lời. Hill đã xuất bản cuốn sách bán chạy nhất của trong sự nghiệp của ông là Think and Grow Rich! vào năm 1937. Tác phẩm này đã trở thành khuôn mẫu cho một loại sách self-help mới khi tập trung vào việc theo đuổi tiền bạc.

Thông điệp của Hill rất đơn giản: Tất cả chúng ta đều có thể trở nên giàu có nếu khao khát đủ lớn. Nếu tập trung chuyên chú vào những suy nghĩ về tiền bạc và sự sung túc, vũ trụ sẽ tạo ra sự cộng hưởng kỳ diệu với tiềm thức và gửi đến vô vàn tài lộc. [v] Để trở nên giàu có, chúng ta chỉ cần nuôi dưỡng một khát khao rõ ràng. Khi đó, suy nghĩ của chúng ta, “như những thỏi nam châm, sẽ thu hút vô số nguồn lực, con người và hoàn cảnh phù hợp với bản chất của những suy nghĩ chủ đạo đó.” Nếu “từ tính hóa tâm trí” và trở nên “nhạy bén với tiền bạc”, chúng ta sẽ trở thành triệu phú ngay lập tức.

Không có gì ngạc nhiên khi một thông điệp như vậy lại an ủi những độc giả đang vật lộn với hoàn cảnh kinh tế suy thoái trong cuộc Đại khủng hoảng. Nhưng thông điệp còn nhiều mơ hồ này vẫn tiếp tục hấp dẫn cho đến tận ngày nay. The Secret của Byrne đã xào nấu lại ý tưởng này. “Bí thuật” của cô ấy, không gì xa lạ, chính là luật hấp dẫn. Các nguyên tắc của luật này cứ được nhắc đi nhắc lại. Suy nghĩ của chúng ta, rõ ràng là có tần số riêng. Chúng ta phát ra tần số này vào vũ trụ và từ đó thu hút mọi thứ cùng tần số với suy nghĩ của mình. The Secret tràn ngập những câu chuyện về việc bất ngờ nhận được séc qua thư và những biến chuyển kỳ diệu trong cuộc sống cá nhân của một người. Cuốn sách đưa ra lời hứa hẹn rằng rằng độc giả có thể dễ dàng thu hút 10 triệu đô la, bởi vì “Bí thuật có thể cho bạn bất cứ điều gì bạn muốn.” Bởi “Bạn là thỏi nam châm mạnh mẽ nhất trong Vũ trụ!… Suy nghĩ của bạn sẽ trở thành hiện thực!” [viii]

Nhiều người trong chúng ta có thể thấy những lời hứa hẹn thái quá về sự chuyển đổi dễ dàng này là đáng ngờ. Nhưng tệ hơn nữa, học thuyết của Byrne và những người ủng hộ nguyên lý “tâm trí chế ngự vật chất” lại có xu hướng đổ lỗi cho nạn nhân. Về cốt lõi, họ quan niệm rằng những người gánh chịu bất hạnh phải tự nhận trách nhiệm cho những đau khổ của mình, bao gồm cả chuyện ung thư, hiếp dâm, tai nạn xe hơi và bạo lực. Chẳng hạn như, Byrne thẳng thừng cho rằng mọi tai ương trong cuộc sống là do chúng ta không chịu suy nghĩ tích cực và không truyền tải đủ mạnh mẽ những mong muốn về vật chất xa xỉ vào vũ trụ. Byrne và nhiều chuyên gia làm giàu đã đóng góp cho cuốn sách của cô còn khẳng định chắc nịch rằng quy luật hấp dẫn cũng có thể áp dụng với 6 triệu người Do Thái bị sát hại trong thảm họa Holocaust. Rõ ràng, chính “những suy nghĩ về nỗi sợ hãi, sự chia ly và bất lực” của người Do Thái đã khiến họ “hiện diện ở nơi lầm lạc vào một thời điểm sai trái”. [ix] Tác giả của The Secret khẳng định chắc nịch: “Mọi trải nghiệm đều bắt nguồn từ những suy nghĩ dai dẳng trong chính bạn.” [x] Đây rõ ràng là những luận điệu vô cùng đáng lo ngại, và tôi ngạc nhiên rằng những tuyên bố dối trá, hoàn toàn không thể biện minh này lại không vấp phải quá nhiều chỉ trích.

Vậy tại sao những cuốn sách như Think and Grow Rich!, The Secret, và giờ là Manifest của Nafousi lại hấp dẫn nhiều người đến vậy? Tất nhiên, ai mà chẳng thích được nghe rằng mình có thể giàu sang mà không cần động tay động chân, rằng những tấm séc 10 triệu đô la sẽ tự động bay vào hộp thư chỉ cần ta nghĩ đủ nhiều về tiền. Những cuốn sách cho rằng mọi sự tự hoàn thiện bền vững đều đòi hỏi nỗ lực, kiên trì và thời gian thường ít hấp dẫn hơn – mặc dù có lẽ thông điệp đó lại thực tế hơn.

Tuy nhiên, tôi cho rằng không chỉ vì chúng ta khao khát những giải pháp nhanh chóng, dễ dàng mà những cuốn sách như thế này mới trở nên phổ biến; một yếu tố quan trọng khác là mong mỏi từ ngàn đời nay của con người về việc tự làm chủ cuộc sống. Tư duy vũ trụ kỳ diệu được cổ súy bởi những người theo trường phái “chữa bệnh bằng tâm trí” giúp chúng ta nuôi dưỡng khát vọng toàn năng, bất khả chiến bại và quyền làm chủ thế giới vật chất. Nó đánh vào mong muốn nguyên thủy của chúng ta là khả năng tự bảo vệ mình trước hai mối đe dọa là sự tổn thương và tình trạng mất kiểm soát.

Phép thuật tư duy trong những cuốn sách này cũng mang tính chất thoát ly thực tại. Nó cho phép ta mơ mộng về những cuộc đời khác, nơi ta là nhân vật chính trong truyện cổ tích – thành đạt, giàu có, quyến rũ và luôn tự tin trong giao tiếp xã hội. Ngoài ra, thời điểm những cuốn sách này được xuất bản và tạo nên tiếng vang cũng rất đáng chú ý: sách của Hill ra đời trong thời kỳ Đại khủng hoảng, sách của Byrne ra đời ngay trước khủng hoảng tài chính, còn sách của Nafousi nổi lên năm 2022 – một năm đầy biến động với những ảnh hưởng kéo dài của đại dịch Covid, bất ổn kinh tế gia tăng, khủng hoảng chi phí sinh hoạt trầm trọng và chiến tranh Ukraine kinh hoàng.

Vấn đề tôi thấy là: Mặc dù đọc những cuốn sách này có thể mang lại cảm giác hy vọng nhất thời, thậm chí là sự kỳ vọng hão huyền, nhưng thực tế cuối cùng cũng sẽ ập đến. Chúng ta sẽ cảm thấy tồi tệ hơn khi những khoản tiền hứa hẹn không xuất hiện. Không một vấn đề nào được giải quyết. Ta chẳng học được gì mới mẻ về bản thân và cũng chẳng thu được bài học hữu ích nào để thực sự tiến bộ. Hơn nữa, việc đánh giá quá cao khả năng thay đổi tâm lý và năng lực cá nhân, đồng thời đánh giá thấp bối cảnh kinh tế và xã hội mà ta đang sống, sẽ khiến ta phải trả giá. Khi mọi thứ không diễn ra như mong đợi, ta sẽ chìm trong cảm giác tội lỗi và xấu hổ.

***

Tư liệu tham khảo

[i] See Martin Seligman, Learned Optimism: How to Change Your Mind and Your Life (London, Boston: Nicholas Brealey Publishing, 2006).

[ii] Phineas Parkhurst Quimby, The Quimby Manuscripts: Containing Messages of New Thought, Mesmerism and Spiritual Healing from the Author, edited by Horatio W. Dresser (s.p.: Pantianos Classics, 1921), p. 73

[iii] Mary Baker Eddy, Science and Health With Key to the Scriptures (Boston: The Writings of Mary Baker Eddy, 2000), p. viii.

[iv] William James, The Varieties of Religious Experience (Cambridge, MA: Harvard University Press, 1985), pp. 92–3.

[v] Napoleon Hill, Think and Grow Rich!: The Original Version, Restored and Revised (Anderson, SC: The Mindpower Press, 2007), p. 9.

[vi] Ibid., p. 21.

[vii] Ibid.

[viii] Rhonda Byrne, The Secret, 10th anniversary edition (London and New York: Simon & Schuster, 2016), p. xv, 7, 9.

[ix] Ibid., p. 28.

[x] Ibid., p. 43.

***

Khi những ảo tưởng về một cuộc sống hoàn hảo nhờ manifest tan vỡ, ta thường chìm trong thất vọng và tự trách bản thân. Việc đánh giá quá cao sức mạnh của suy nghĩ mà quên đi nỗ lực thực tế chính là nguyên nhân dẫn đến thất bại. Tuy nhiên, không thể phủ nhận sức hút và sự phổ biến của manifest. Nếu biết vận dụng một cách tỉnh táo, kết hợp với hành động thiết thực và kế hoạch rõ ràng, manifest có thể trở thành một công cụ hữu ích, giúp ta củng cố niềm tin, duy trì động lực và rút ngắn con đường đến với mục tiêu. Suy cho cùng, tư duy tích cực luôn là một yếu tố quan trọng trên hành trình hoàn thiện bản thân, nhưng chìa khóa then chốt vẫn nằm ở sự cân bằng giữa giấc mơ và hiện thực, giữa niềm tin và hành động. Đó cũng chính là thông điệp mà Bookish mong muốn gửi gắm đến bạn đọc.

Nguồn: Psychology Today

Kodaki dịch

Đọc bài viết

Trà chiều

Lễ hội Đường sách Tết Ất Tỵ 2025 thu hút đông đảo bạn đọc tại TP HCM

Published

on

Ngày 27.01.2025 (tức 28 Tết), Lễ hội Đường sách Tết Ất Tỵ 2025 chính thức khai mạc. Lễ hội thu hút sự quan tâm và yêu thích của người dân cũng như khách du lịch thành phố. Đường sách được tổ chức với quy mô lớn, có nhiều không gian văn hoá, nghệ thuật đặc sắc, hứa hẹn sẽ trở thành điểm vui chơi và mua sắm náo nhiệt trong mùa Tết.

Lễ hội lần thứ 15 có chủ đề Non sông gấm hoa, vui xuân thái hòa. Năm 2011, lễ hội Đường sách Tết lần đầu được tổ chức tại đoạn đường Mạc Thị Bưởi (nối Đồng Khởi và Nguyễn Huệ, quận 1). Từ năm 2023 đến nay, hoạt động này được tổ chức trên trục đường Lê Lợi, đoạn từ giao lộ Nguyễn Huệ đến bùng binh Quách Thị Trang, dài khoảng 400 m. Lễ hội tổ chức trên khu vực có tổng diện tích 11.200 m2, thu hút nhiều đơn vị tham gia kiến tạo không gian văn hóa, nghệ thuật, nổi bật trong số đó có Công ty Cổ phần Văn hóa Phương Nam (gọi tắt là Công ty Phương Nam hoặc PNC).

Năm 2025 đánh dấu kỷ niệm 15 năm Công ty Phương Nam tham gia Lễ hội Đường sách Tết với gian hàng lớn, đẹp, giàu cảm xúc. Sau buổi lễ khai mạc, gian hàng của Phương Nam vinh dự đón tiếp các lãnh đạo Thành phố đến tham quan: ông Nguyễn Trọng Nghĩa - Uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, ông Phan Văn Mãi - Chủ tịch UBND TP.HCM, ông Nguyễn Thanh Nghị - Phó Bí thư Thường Trực Thành ủy TP.HCM, ông Lâm Đình Thắng - Giám đốc Sở TT&TT TP.HCM cùng đại diện lãnh đạo Sở, ngành. Bên cạnh đó, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư cũng ghé thăm các gian hàng của Nhà Sách Phương Nam tại Lễ hội Đường sách Tết. Đại diện Công ty Phương Nam đón tiếp đoàn lãnh đạo và các vị khách quý là ông Nguyễn Hữu Hoạt - Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Đến với các gian hàng của PNC tại Đường sách Tết, khách tham quan có thể tìm mua những đầu sách best-seller giá trị và đầy ý nghĩa do Phương Nam Book liên kết xuất bản; trải nghiệm khu vực sách nói KOMO Audio tiện lợi và hiện đại; đắm chìm trong những giai điệu bất hủ tại quầy băng đĩa Phương Nam Film; cũng như mang về nhà những món đồ chơi, quà lưu niệm đa dạng mẫu mã đến từ các thương hiệu nổi tiếng trên thế giới. Là thương hiệu có bề dày 43 năm kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, Công ty Phương Nam tự hào là đơn vị uy tín, chất lượng và luôn nỗ lực để mang lại trải nghiệm tốt nhất cho khách hàng. Lễ hội Đường sách Tết Ất Tỵ 2025 là cơ hội để PNC tiếp tục phục vụ khách hàng và bạn đọc với những sản phẩm cũng như dịch vụ chất lượng cao.

Trong suốt thời gian diễn ra Lễ hội Đường sách Tết Ất Tỵ 2025, khách tham quan sẽ có cơ hội gặp gỡ, giao lưu với nhiều tên tuổi nổi tiếng trong làng sách, tham gia các chương trình thú vị để nhận nhiều lì xì hấp dẫn, và tận hưởng không khí du xuân tràn đầy niềm vui. Tết này, đừng quên ghé chơi với Nhà Sách Phương Nam nha!

Thời gian: Từ 27/01/2025 – 02/02/2025

Địa điểm: Đường Lê Lợi, Quận 1, TP HCM

Một số hình ảnh trong ngày khai mạc Lễ hội Đường sách Tết Ất Tỵ 2025:

Đọc bài viết

Trà chiều

Vũ Đằng kết đôi cùng “nàng Kiều” Trình Mỹ Duyên trong Chợ Tết Tình Quê

Published

on

By

Nam diễn viên Vũ Đằng sẽ sánh đôi cùng “nàng Kiều” Trình Mỹ Duyên trong bộ phim phát sóng vào ngày mùng một Tết nguyên đán Ất Tỵ.

Chợ Tết Tình Quê là câu chuyện tình cảm của một đôi bạn trẻ diễn ra trong những ngày giáp Tết Ất Tỵ ở cù lao An Bình (tỉnh Vĩnh Long). Gia Bảo (Vũ Đằng đóng) là một chàng công tử chính hiệu, chán chường cuộc sống xa hoa, xô bồ nơi phố thị cũng như muốn thoát khỏi sự kìm kẹp của mẹ, Bảo bỏ nhà đi bụi vào một buổi chiều tháng chạp. Anh xuôi về miền Tây sông nước, nơi có làng nghề gốm đỏ, làm nhang, trồng trái cây, hoa kiểng để tìm lại những ký ức thời thơ ấu, khi gia đình còn trọn vẹn. Tình cờ gặp được Vũ Nghi (Trình Mỹ Duyên), Bảo choáng váng và thậm chí ghét bỏ, nhiều lần cản trở, gây tai họa cho cô vì hiểu lầm cô là người thực dụng, lợi dụng tình nghĩa của bà con dưới quê để kiếm danh.

Vũ Nghi vốn là người sinh ra ở cù lao An Bình. Cô mồ côi cha mẹ, sống với người cậu từ bé nên tính cách cứng cỏi, đạt giải một hoa khôi nhưng từ chối mọi sự săn đón của các đại gia mà muốn đi lên từ thực lực. Vũ Nghi hoạt động như một hot streamer trên mạng xã hội, sở hữu những trang cá nhân có lượt theo dõi khủng. Chương trình thực tế 100 nghề của cô nhận được nhiều sự quan tâm của công chúng, trong đó có những tập quảng bá về ngành nghề truyền thống cũng như du lịch sinh thái ở quê hương Vĩnh Long. Hoàn cảnh đưa đẩy cả hai thành cặp đôi “oan gia ngõ hẹn”, ban đầu là ghét nhau, sau dần dần cảm mến rồi tiến tới tình yêu.

Bên cạnh chuyện tình của cặp trai tài gái sắc Gia Bảo – Vũ Nghi, đạo diễn Quách Khoa Nam và biên kịch Phan Ngọc Diễm Hân còn dẫn dắt khán giả màn ảnh nhỏ tham quan cù lao An Bình cũng như những miền quê xinh đẹp, trù phú của tỉnh Vĩnh Long. Người xem sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp bình dị của làng nghề gốm đỏ, làm nhang, những làng hoa Tết sum suê, vườn trái cây trĩu quả… Không khí của phim diễn ra trong những ngày giáp Tết, thời khắc mùa Xuân hiện hữu đẹp nhất với những màu sắc, mùi vị đặc trưng của xứ Nam Bộ.

Khi nhận được kịch bản Chợ Tết Tình Quê, diễn viên Vũ Đằng  cảm thấy rất lo lắng vì nhân vật không có chút gì giống mình ở ngoài đời. “Với một thanh niên 28 tuổi thì ai lại không muốn thành công và được nhiều cô gái vây quanh nhưng Gia Bảo thì ngược lại, anh trốn tránh hết tất cả. Tuy nhiên, tôi đọc kỹ kịch bản, tìm cách thấu hiểu và cảm thông với nhân vật. Tôi đặt ra những câu hỏi “Tại sao?” và tìm cách giải đáp để làm dày lý lịch  để khi ra bối cảnh không còn khúc mắc với nhân vật” – anh chia sẻ. Tuy nhiên, đây không phải là điều làm khó Vũ Đằng mà chính việc hóa trang mới tạo cho anh nhiều trở ngại nhất trong quá trình thực hiện phim. Trước đó ít lâu, anh vừa hoàn thành một phim cổ trang, phải cạo đầu ba vá cho phù hợp nên sang Chợ Tết Tình Quê, Vũ Đằng không kịp để tóc trở lại bình thường, vậy nên ekip thực hiện quyết định cho anh đội tóc giả. Việc hóa trang tóc cho anh trước khi vào cảnh quay mất hơn một giờ, thêm nữa, thời tiết cũng khá nóng nên Vũ Đằng cũng không thực sự thoải mái với bộ tóc khi diễn. “Nó có thể rớt ra bất cứ lúc nào hoặc sai phom dáng nếu mình xoay đầu quá nhiều. Có một số cảnh nặng về tâm lý hay cần động tác hình thể nhiều thì buộc mình phải quên đi chuyện đội tóc giả để nhập tâm hơn. Nếu đội quá lâu thì bộ tóc cũng làm tôi cảm thấy đau đầu. Khi diễn những cảnh cuối cùng của phim, tôi thực sự thở phào nhẹ nhõm vì… được cởi hẳn và tạm biệt bộ tóc giả từ đây!”- anh dí dỏm.

Ngoài ra, phim còn có sự tham gia của các diễn viên: Quang Thái, Hoài An, Thanh Bình, Lê Trang…

Bộ phim do PNF sản xuất kéo dài 20 tập, phát sóng lúc 20h từ thứ hai đến thứ bảy hàng tuần trên kênh THVL1, khởi chiếu từ mùng 1 Tết nguyên đán Ất Tỵ (tức 29.01.2025)

Đọc bài viết

Cafe sáng