Phía sau trang sách

Âm Dương Bát Quái: Những câu chuyện oái oăm trong buổi giao thoa văn hóa

Published

on

Âm Dương Bát Quái là một chuyến du ngoạn thú vị về miền Trung Hoa cổ xưa. Dưới ngòi bút sâu sắc của Phùng Kí Tài, trải nghiệm này trở nên đáng nhớ và không hời hợt chút nào vì ta được nhìn Trung Quốc cả từ bên ngoài lẫn bên trong.

Âm Dương Bát Quái là tiểu thuyết nằm trong bộ ba Quái Thế Kỳ Đàm của Phùng Kí Tài kể về những chuyện kì lạ xảy ra ở vệ Thiên Tân, được xuất bản lần đầu tại Trung Quốc vào cuối những năm thập niên 1980 (hai truyện còn lại nằm trong tuyển tập này là Gót sen ba tấc, Roi thần).

Sự phi lí được tạo nên từ sự cường điệu

Ảnh: Facebook Tao Đàn

Lấy bối cảnh những năm cuối đời nhà Thanh trong sự giao thoa văn hóa phương Tây, nội dung chính của Âm Dương Bát Quái là những chuyện dở khóc dở cười xoay quanh nhà họ Hoàng với nghề gia truyền là kinh doanh giấy – mực, có cửa hiệu buôn bán là Tụy Hoa Trai. Nhạ Nhạ vốn là con cả của nhà họ Hoàng nhưng vì tính tình lêu lỏng, thích chơi bời hơn là chí thú làm ăn nên từ sau khi cha anh qua đời, việc quản lí cửa hiệu hoàn toàn phó mặc cho gia đình ông Hai – người em trai của cha Nhạ Nhạ, cụ thể hơn là cho bà Hai vì ông Hai chỉ thích vùi đầu vào sách vở. Mọi sự bắt đầu thay đổi vào ngày Tết đầy kho đầu năm, khi đang loay hoay chuẩn bị nghi lễ, bà Hai đã ngã lăn xuống đất và phải nằm dưỡng bệnh đau đớn trên giường. Nhạ Nhạ tìm được thầy thuốc chữa khỏi bệnh cho bà nên nhanh chóng lấy lại sự tín dụng, dần dần nắm giữ việc kinh doanh của gia đình cùng một người bạn tinh thông sự đời là Bát Ca khiến cửa hiệu ngày càng phát đạt. Tuy nhiên, bí mật về cái tráp vàng gia bảo vẫn không thôi khiến Nhạ Nhạ trăn trở. Cũng từ đó, bao chuyện oái oăm lạ kì đã xảy ra cho nhà họ Hoàng.

Cách mở đầu tác phẩm bằng một chuyện phi lí là dấu ấn chung của bộ truyện Quái Thế Kỳ Đàm. Nếu như Kafka tạo sự phi lí bằng cách cho nhân vật phản ứng bình thường trước tình huống bất thường như trong Hóa thân thì Phùng Kí Tài ngược lại, cho nhân vật phản ứng bất thường trước tình huống bình thường. Có thể lấy một ví dụ điển hình là tình huống xảy ra ở hồi thứ nhất khi bà Hai ngã lăn xuống đất. Trước sự cố này, nhân vật đương sự phản ứng rất cường điệu. Sự cường điệu đó lây lan sang một loạt những nhân vật khác đang hiện diện, từ đó tạo ra cảnh hỗn loạn, mang màu sắc vừa hiện thực vừa phi lí – đây là tiền đề rất tốt để bắt đầu câu chuyện.

Một trải nghiệm đọc tiểu thuyết thú vị như xem phim truyền hình

Ảnh: Facebook Tao Đàn

Trên thực tế, câu chuyện nhà họ Hoàng chỉ là khung sườn của tác phẩm, là nguyên cớ cho sự xuất hiện sinh động của nhiều kỳ nhân dị sĩ vệ Thiên Tân. Vì vậy, cũng có thể hiểu tác phẩm này như một tập hợp các mẩu truyện về những người thông thái, có tài năng đặc biệt lạ lùng. Thông qua đó, người đọc sẽ có khoái cảm khi được đắm mình giữa cả thế giới của truyện ngắn và tiểu thuyết. Trải nghiệm này khá gần gũi với việc thưởng thức phim truyền hình nhiều tập khi có một câu chuyện chính và nhiều câu chuyện phụ; trong khi đó, phim điện ảnh lại là trải nghiệm được tập trung vào một câu chuyện duy nhất. Chính vì vậy, tiểu thuyết này nảy sinh một ưu điểm tiện lợi với người đọc bận rộn ngày nay: nó có thể đọc theo phương thức của một tập truyện ngắn, không đòi hỏi người thưởng thức phải cố gắng đọc hết trong một thời gian tối thiểu cho liền mạch truyện. Ta hoàn toàn có thể thong thả đọc từng chương của tiểu thuyết này như một truyện ngắn mà không sợ quên chi tiết vì nội dung của từng chương khá độc lập với nhau. Bản thân Phùng Kí Tài sau này cũng xuất bản một tập truyện ngắn tên Tục Thế Kỳ Nhân (ấn bản năm 2008 có 18 truyện, ấn bản năm 2016 có 36 truyện) tập hợp chuyện đời về các bậc kỳ tài được lưu truyền ở vệ Thiên Tân; trong đó, ta thấy có sự xuất hiện trở lại của một số nhân vật đã được giới thiệu trong Âm Dương Bát Quái như thầy thuốc Vương Thập Nhị (xuất hiện ở hồi thứ hai), ông Tám Hồ Đồ (xuất hiện ở hồi thứ mười hai)…

Qua những lần Nhạ Nhạ đi tìm người tài khắp vệ Thiên Tân để thỉnh cầu sự giúp đỡ, câu chuyện một lần nữa trở nên tươi mới, như thể chính nó vừa tự khởi động lại. Điều này nảy sinh vì Phùng Kí Tài xây dựng Nhạ Nhạ là một nhân vật khá khiêm tốn, quý trọng kỳ tài và luôn biết lắng nghe, học hỏi những cái hay ở người khác dù đôi lúc, phẩm tính đó khiến anh mất đi chính kiến và bị lệ thuộc quá nhiều vào quan điểm của tha nhân. Tuy nhiên, khuyết điểm của Nhạ Nhạ lại có lợi cho bản thân câu chuyện vì khi đó, anh nhường lại hào quang sân khấu cho những nhân vật phụ, khiến họ trở thành nhân vật chính trong chương họ xuất hiện. Như vậy, thưởng thức Âm Dương Bát Quái còn đem lại cho người đọc thú vui khi liên tục được thay đổi điểm nhìn kể chuyện, tiếp xúc với nhiều nhân sinh quan khác nhau.

Nghệ thuật dựng truyện bằng cách liên tục đưa vào những nhân vật mới có lẽ là một kĩ thuật khó khăn với phần lớn nhà văn nói chung. Nhưng ở tác phẩm Âm Dương Bát Quái, Phùng Kí Tài đã hoàn thành xuất sắc công việc này. Ông xây dựng được một lượng nhân vật phong phú, đáng tin, thú vị với nhiều chi tiết sống động, hài hước nhờ vốn kiến thức sâu rộng về các lĩnh vực khác nhau như: y học, hội họa, tử vi, phong thủy, khí công…

Triết lí sống ẩn trong biểu tượng Âm Dương Bát Quái

Ảnh: Facebook Tao Đàn

Cái tráp vàng xuất hiện trong tác phẩm Âm Dương Bát Quái theo một phương thức tương tự như thủ pháp MacGuffin thường được áp dụng trong điện ảnh dưới lí thuyết của đạo diễn Alfred Hitchcock. Cái tráp là nguồn cơn của mọi chuyện, là khát vọng, mục tiêu theo đuổi của cả nhân vật (dường như) chính diện lẫn nhân vật (dường như) phản diện. Thế nhưng, Phùng Kí Tài không hướng người đọc đến việc khám phá rốt cuộc cái tráp chứa đựng những gì. Bởi lẽ, đó không phải là điều quan trọng. Cái tráp chỉ là bề nổi để ông truyền tải một chủ đề sâu xa hơn về sự mê tín dị đoan, về thật giả lẫn lộn. Thông qua đó, nhà văn họ Phùng tái hiện cuộc đấu tranh giữa cái hủ tục và cái thực nghiệm, giữa cũ và mới, giữa cảm tính và lí tính. Người tốt và người xấu, người giỏi thực sự và người lừa bịp đan xen xuất hiện trên mọi phương diện trong tác phẩm này. Bản thân từng nhân vật trong truyện cũng tốt xấu lẫn lộn như chính biểu tượng âm dương, trong âm có dương, trong dương có âm.

Vẫn giữ tinh thần như tác phẩm Gót sen ba tấc, Âm Dương Bát Quái cũng viết về những khuyết điểm của cái cũ nhưng không phủ nhận hoàn toàn cái cũ mà phê phán có chọn lọc. Phùng Kí Tài không thay thế sự cực đoan này bằng sự cực đoan khác, ông thay thế cực đoan bằng dung hòa. Ông nhìn ra những điểm đúng đắn về mặt khoa học trong lí lẽ của Âm Dương Bát Quái nhưng không lạm dụng nó để tổn hại đến phán đoán lí trí. Đây là quan điểm sống tích cực rất đáng để học hỏi.

Âm Dương Bát Quái là một chuyến du ngoạn thú vị về miền Trung Hoa cổ xưa. Dưới ngòi bút sâu sắc của Phùng Kí Tài, trải nghiệm này trở nên đáng nhớ và không hời hợt chút nào vì ta được nhìn Trung Quốc cả từ bên trong lẫn bên ngoài. Phùng Kí Tài xử lí một đề tài tưởng chừng khó tiếp cận bằng bút lực nhẹ tênh, khiến cho người đọc cảm giác ông không mấy khó khăn mà chỉ đơn thuần ung dung sống trong thế giới đó, quan sát hành vi, cử chỉ của những nhân vật rồi tường thuật lại như một nhà làm phim tài liệu cố gắng ghi hình cuộc sống theo cách nó vốn diễn ra hơn là một đạo diễn nghệ thuật dụng tâm sắp đặt góc máy và dàn cảnh. Trên tinh thần đó, tác phẩm này cung cấp vừa đủ kiến thức chuyên môn của việc vận hành Âm Dương Bát Quái, thuật phong thủy nhưng lại cũng không quá sa đà vào những lí thuyết mà vẫn xây dựng được câu chuyện sinh động, hấp dẫn.

Trong Âm Dương Bát Quái, Phùng Kí Tài xây dựng rất nhiều cuộc thi để tạo tình huống cho nhân vật bộc lộ tính cách. Nếu trong Gót sen ba tấc, người đọc chỉ được chứng kiến cuộc thi chân giữa Qua Hương Liên và những phụ nữ khác thì trong Âm Dương Bát Quái, ta có rất nhiều cuộc so kè ở những ngành nghề khác nhau: Vương Thập Nhị và Ba Sa (về y học), Doãn Sấu Thạch và những họa sĩ thành Thiên Tân (về hội họa), Long Đằng Vân và Mắt Xanh (về khí công)… Phùng Kí Tài đã thuật lại những cuộc so tài này với nhiều chi tiết đặc tả kĩ lưỡng thú vị không kém gì những phim siêu anh hùng ăn khách ngày nay. Người viết so sánh như thế là để nhấn mạnh tính hài hước hiện đại trong tác phẩm của Phùng Kí Tài. Dù tác phẩm này đã được ông viết năm 1988 nhưng sau 30 năm, nó vẫn giữ nguyên cảm giác tươi mới và dễ tiếp cận với độc giả hiện đại.

Chia sẻ của Phùng Kí Tài về bộ ba “Quái Thế Kỳ Đàm”

Ảnh: Facebook Tao Đàn

Tôi tạo cho Roi thần một nội dung nghiêm túc, dưới hình thức hài kịch, mang dáng dấp ngớ ngẩn và quái lạ, bởi lẽ sự ngưỡng vọng của chúng ta dành cho tổ tiên đã qua thời mù quáng hoang đường; Gót sen ba tấc có hình thức là chính kịch pha lẫn bi kịch, nhưng nội dung lại tràn ngập sự phi lí, bởi lẽ dưới nhãn quan ngày nay, biểu tượng văn hóa mang tính trói buộc bản thân ẩn trong hình ảnh gót sen ba tấc là cực kì hoang đường; và ở Âm Dương Bát Quái thì từ nội dung đến hình thức đều mang tính hoang đường. Tất cả nhân vật cùng hành vi của họ đều thấm nhuần trong chất dẫn truyền hoang đường. Một cái thì mang tính quái đản, một cái thì nhuốm mùi bi kịch, một cái thì cảm thức phi lí.

Thông tin tác giả

Phùng Kí Tài

Phùng Kí Tài là một trong số những nhà văn nổi tiếng trong thời kì văn học mới của Trung Quốc kể từ sau 1977 đến nay. Ông sinh năm 1942 ở thành phố Thiên Tân nhưng gốc gác ở thành phố Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang.

Sau khi tốt nghiệp trung học, nhờ tầm vóc cao lớn, Phùng Kí Tài tham gia hội bóng chuyền rồi chuyển sang làm giáo viên dạy vẽ, chuyên vẽ theo lối cổ. Trong “cách mạng văn hóa”, ông chịu nhiều khổ cực như bao trí thức khác, từng làm công nhân, nhân viên bán hàng, dạy học và nhiều công việc khác nữa. Những nỗi cực nhọc cùng những công việc không hợp sở trường không hề làm ông nhụt chí, mà lại làm giàu cuộc đời sáng tác của ông.

Tác phẩm tiêu biểu:

– Gót sen ba tấc
– Roi thần
– Âm dương bát quái

Vũ Lập Nhật

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Phía sau trang sách

Có một thời ở Chợ Lớn: Những gam màu ký ức

Published

on

Có một thời ở Chợ Lớn là một trong hai tác phẩm mới nhất của nhà báo Phạm Công Luận do Phương Nam Book liên kết xuất bản dịp năm mới Ất Tỵ 2025. Chỉ một thời gian ngắn sau khi phát hành, sách sớm nhận được tình cảm của độc giả và lọt vào top sách bán chạy trong tuần tại Nhà Sách Phương Nam. Bên cạnh bản thân tác giả Phạm Công Luận, góp phần vào sự thành công của Có một thời ở Chợ Lớn không thể không kể đến họa sĩ Phạm Công Tâm với nhiều hình ảnh minh họa đẹp và đầy tinh tế, cũng như đội ngũ Phương Nam Book đã biên tập, thiết kế nhằm đưa tác phẩm đến tay độc giả theo cách chỉn chu nhất.

Chịu trách nhiệm thiết kế bìa và trình bày sách Có một thời ở Chợ Lớn là họa sĩ t.hờ. Trong bài phỏng vấn hôm nay, Bookish sẽ cùng anh t.hờ chia sẻ với bạn đọc về quá trình "lên đồ" cho Có một thời ở Chợ Lớn cũng như những câu chuyện bên lề thú vị trong quá trình sản xuất cuốn sách này.

  • Bookish: Anh có thể chia sẻ điều gì đã dẫn đến quyết định lựa chọn hình ảnh chùa Ôn Lăng và chợ Bình Tây làm ảnh bìa sách ở 2 phiên bản bìa mềm và bìa cứng?

Họa sĩ t.hờ: Nhắc đến Chợ Lớn, chắc hẳn 9 trên 10 người trong chúng ta sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh của chùa bà Ôn Lăng và chợ Bình Tây – hai công trình kiến trúc đặc trưng nhất của mảnh đất Chợ Lớn Sài Thành.

Đối với chùa bà Ôn Lăng, đây có thể coi là công trình mang đậm nét đặc trưng của kiến trúc Trung Hoa nhất giữa lòng Sài Gòn. Không chỉ là nơi chiêm bái của người dân địa phương và du khách gần xa, chùa bà Ôn Lăng còn là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa và tôn giáo như lễ hội Đoan Ngọ, lễ hội Trung Thu, lễ hội Thanh Minh, lễ hội Tết Nguyên Đán,… Chùa bà Ôn Lăng là một trong những ngôi chùa có ý nghĩa lịch sử và văn hóa quan trọng của Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và mảnh đất Chợ Lớn nói riêng.

Còn về chợ Bình Tây, đây không chỉ là một ngôi chợ sở hữu lối kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ấn văn hoá Á Đông của người châu Á ở đất Sài Thành, mà còn là nơi được biết tới là nơi trao đổi đồ cổ và buôn bán sỉ lớn nhất của người dân gốc Hoa ở Chợ Lớn. Dù hiện tại chợ Bình Tây đã có nhiều sự thay đổi về cơ sở hạ tầng nhưng những giá trị tinh thần, lịch sử và văn hoá vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay.

Chính vì lẽ đó, chùa bà Ông Lăng và chợ Bình Tây đã được mình chọn lựa để đưa lên 2 phiên bản bìa của Có một thời ở Chợ Lớn.

  • 2 ấn bản bìa mềm và bìa cứng có sự khác biệt gì về hình ảnh minh họa trong sách không?

Để đảm bảo sự chính xác về thông tin của các bài viết thì phần hình ảnh và nội dung bên trong của 2 phiên bản không có gì thay đổi.

  • Liệu có ẩn ý nào phía sau việc sử dụng 2 tông màu nóng - lạnh cho 2 phiên bản bìa sách?

Nhắc đến Chợ Lớn, người ta sẽ nghĩ ngay đến những tone màu rực rỡ như chính sắc màu chủ đạo trong cuộc sống của người dân nơi này – màu đỏ rực của những chiếc đèn lồng gốc Hoa, màu đỏ thẫm của những lớp mái ngói vươn màu thời gian hay màu đỏ tươi của những chú lân trong các lễ hội,… Bên cạnh đó, ta không thể không nhắc tới sắc vàng của những bức tường vững chải chạy dọc các con phố, của những món đồ trang trí bóng bẩy mỗi dịp Tết đến xuân về.

Thế nhưng, không vì thế mà Chợ Lớn vắng đi những phút giây lắng đọng. Dạo quanh Chợ Lớn, người ta vẫn có thể dễ dàng bắt gặp những tòa chung cư lâu đời trên đại lộ Trần Hưng Đạo hay từ chính trong nét kiến trúc phương Đông được tạo nên từ kỹ thuật xây dựng của Tây phương trong lối kiến trúc độc đáo của ngôi chợ Bình Tây xuất hiện trên bản bìa mềm.

  • Có câu chuyện ngoài lề nào thú vị trong quá trình thiết kế cho cuốn sách này mà anh ấn tượng không?

Mình cho rằng đó là một “bài học” thú vị nhiều hơn.

Như các bạn cũng biết, trước khi “Có một thời ở Chợ Lớn” ra đời, tác giả Phạm Công Luận đã từng cho ra mắt một quyển sách cùng chủ đề đó là “Hồi ức Phú Nhuận”. Do cả 2 quyển một chủ đề nên với vai trò là người thiết kế bìa cho cả hai, mình mong muốn tạo được nét tương đồng trên bìa khi 2 quyển sách được đặt cạnh nhau để nhấn mạnh “tính chất văn hóa” của 2 quyển sách này. Chính vì vậy, mình đã chủ đích đem cái gần gũi, thân thương nhưng cũng mang trong mình những lắt cắt lịch sử mà mình từng thể hiện trong bìa của”Hồi ức Phú Nhuận” mang vào quyển “Có một thời ở Chợ Lớn” lần này.

Nhưng rồi mình nhận ra, mỗi vùng đất sẽ mang trong mình một vẻ đẹp riêng. Nếu như Phú Nhuận là mảnh đất của những ký ức tuổi thơ thân thương, của những giai kỳ hào nhoáng của một Sài Thành hoa lệ, thì Chợ Lớn sẽ là những đất của những khu mua sắm xa hoa, của những quán ăn nức tiếng, và của sự hào sảng, phóng khoáng của người dân Chợ Lớn Sài Gòn.

Vậy nên, mình cho rằng đó là bài học mình của bản thân mình: Để nhấn mạnh, nếu không thể tương-đồng thì chúng ta có thể chọn tương-phản.

Bookish xin cảm ơn họa sĩ t.hờ vì đã dành thời gian chia sẻ. Chúc anh nhiều sức khỏe và đạt được thành công trong năm mới Ất Tỵ 2025.

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Cafe sáng