Phía sau trang sách

Quả chuông ác mộng: Một dẫn nhập về cái chết

Published

on

Là câu chuyện về một nhà thơ cố gắng kết liễu đời mình được viết do chính một nhà thơ đã thực hiện hành vi này, tiểu thuyết Quả chuông ác mộng xuất bản tại Anh vào năm 1963 dưới bút danh khác của Sylvia Plath, một tháng trước khi bà tự sát. Phải chờ đến hơn một thập kỷ sau thì Mỹ mới xuất bản tác phẩm này và đến năm 1966 thì được tái xuất bản tại Anh dưới tên thật của tác giả. Một ghi chú về tiểu sử tác giả trong ấn bản hiện nay rõ ràng cho thấy những sự việc trong tiểu thuyết rất tương đồng với Sylvia Plath ở tuổi đôi mươi. Vì những lý do đó, hoàn toàn không thể trách người đọc tiếp cận quyển tiểu thuyết không được khách quan. Quả chuông ác mộng là tác phẩm hư cấu không thể thoát khỏi việc bị đọc như một phần hồi ký. Câu chuyện khởi đầu tại New York với chút tươi sáng nhợt nhạt, dần trở nên tăm tối hơn khi dời về Massachusetts, để rồi chìm vào sự điên loạn. Esther Greenwood, là một trong mười hai cô gái được chọn đến ở tại thành phố trong một tháng để làm thực tập sinh biên tập của tạp chí thời trang tuổi thiếu niên. Cô là thế hệ xuất phát từ một gia đình di dân Đức sống ở ngoại ô New England. Với thành tích “15 năm toàn điểm A”, cô có mối quan hệ chán chường với Buddy Willard – chàng sinh viên y khoa tẻ nhạt nhưng đẹp mã. Còn nhiều điều băn khoăn và có khao khát trở thành một nhà thơ, cô là kiểu người không biết nên gọi đồ uống gì, cũng không biết cần trả thêm tiền phục vụ cho tài xế taxi là bao nhiêu, nhưng lại chọn làm luận văn về chủ đề “song ảnh” trong Finnegans Wake, một tác phẩm cô vẫn chưa thể đọc hết. Trí tưởng tượng của cô phải đấu tranh giữa những nguyên tắc giáo điều của New England và vẻ giả tạo hào nhoáng của New York. Cô nhận thấy mình không thể là một phần trong biển đông những nữ sinh viên buộc phải nghỉ ngang việc học giữa chừng để kết hôn. Những cơn khủng hoảng về danh tính, tính dục và tồn sinh thật ảm đạm và thường khôi hài. Sự dí dỏm, óc châm biếm và trí thông minh cũng như nỗi buồn lánh đời bất khả biện giải đã khiến Esther xa cách bạn bè đồng trang lứa. Là người miễn cưỡng tìm kiếm chân lí, cô dùng khiếu châm biếm như một công cụ phán xét và trở thành nạn nhân chính của thói quen này. Không thể trải nghiệm lẫn biểu đạt cảm xúc, cô cảm thấy mình khiếm khuyết trong hình hài một con người. Khoảng cách giữa cô và thế giới ngày càng nới rộng: “Tôi chẳng thể nào phản ứng nổi trước bất cứ điều gì. Tôi cảm thấy cực kì tĩnh tại và cực kì trống rỗng.”… “Sự im lặng dìm tôi xuống vực sâu. Đó không phải là bản thân sự im lặng. Mà là sự im lặng của chính tôi.”… “Sáng hôm đó tôi đã cố tự treo cổ.”

Ảnh: Facebook Tao Đàn

Ngụy trang và bệnh tật đồng hành cùng nhau trong Quả chuông ác mộng; hơn nữa, căn bệnh thường được dùng để tháo bỏ hoặc xé toang vẻ ngoài giả tạo. Doreen, một thiên kim tiểu thư Esther hiển nhiên ngưỡng mộ, bắt đầu tiến trình ấy khi trở nên say xỉn. Hình ảnh chớp nhoáng cảnh tượng cô nằm đó, đầu ngập ngụa bên chính bãi nôn mửa của mình tại hành lang khách sạn tuy nhơ nhuốc nhưng cần thiết. Tiếp theo cơn ốm của cô là màn ngộ độc tập thể hóa chất ptomaine tại một buổi tiệc trưa “thời thượng”. Buddy bị bệnh lao và phải vào viện điều dưỡng. Esther đến thăm anh, bị gãy chân khi trượt tuyết. Lần đầu quan hệ tình dục với một chàng giáo sư Toán trẻ tình cờ quen, cô đã bị băng huyết. Được một bạn đồng tính nữ cho ở trọ, rồi sự kiện cuối cùng là nhập viện. Về sau, cô biết rằng người bạn ấy đã treo cổ tự sát. Phần tóm lược thuần túy các sự kiện diễn ra trong Quả chuông ác mộng như thế này có vẻ lố bịch khi nó không được đặt trong sự cân bằng của hai đối trọng giữa một bên là niềm tuyệt vọng khốn cùng và phía kia là sự hài hước mỉa mai quá rõ ràng. Bệnh tật và sự vạch trần là chìa khóa để giải mã Quả chuông ác mộng. Vào đêm cuối cùng ở New York, Esther trèo lên mái khách sạn và ném quần áo trong tủ qua lan can, từng mảnh từng mảnh một. Đến cuối tác phẩm, cô cố gắng tước đoạt mạng sống của chính mình, nhưng rồi sinh mệnh cô được trao trả lại bằng quá trình lột trần khác – tâm thần học. Sự thống khổ và cảnh đổ máu là chứng trạng đặc trưng trong Quả chuông ác mộng, thường được miêu tả khách quan, tự chế giễu, gần như bắt đầu theo kiểu hài hước. Được văn phong dẫn dắt (một phần ba đoạn đầu Quả chuông ác mộng giống như phiên bản chế giễu hài hước chua cay của Breakfast at Tiffany’s), người đọc bị dụ dỗ vào hang hùm, đó là căn phòng xi-măng vô trùng ở tầng hầm của nhà thương điên, nơi có cỗ máy sốc điện chực chờ những vị khách khiếp sợ.

Sự hời hợt với nỗi đau thể xác cho thấy Esther đã bị mất bản năng đồng cảm ngay từ đầu – với bản thân cũng như với người khác. Tuy cô nhận thức rất tinh tường những tác động lên các giác quan, nhưng cảm giác của cô chỉ dừng ở mức rung động. Cô sống bám vào những dây thần kinh của chính mình, nhưng hệ thống thần kinh đó đã tách biệt với thế giới chung. Một lớp kính mỏng ngăn cách cô với mọi người, và tiêu đề tác phẩm, tự thân cũng cấu thành từ kính, vốn được phát triển từ ý niệm của cô về sự mất kết nối: từng cái đầu của bệnh nhân tâm thần bị chụp kín trong một quả chuông thủy tinh, mắc nghẹn bởi chính hơi thở thối rữa của mình.

Ảnh: Facebook Tao Đàn

Bị giằng xé giữa hai vai trò đầy mâu thẫn, người tình-người vợ nội trợ-người mẹ và “cuộc đời nhà thơ,” mà không một cái nào mang đậm màu sắc thực tế với cô, Esther nhận thấy bản chất cuộc sống vốn nghiệt ngã. Sợ hãi bị biến dạng thành con người hãy còn xa lạ với cô, cô hóa thân biến dạng đến mức tột cùng – thành hư vô. Khi cô chìm vào hố sâu trầm cảm, cả thế giới như một chuỗi những tiếng vọng va đập trái khoáy: khuôn mặt mẹ cô như một lời kết tội mãn kiếp, tiếng rít của xe nôi bên dưới cửa sổ khiến cô điên tiết. Cô dần bị ý tưởng tự sát ám ảnh, một trong những thành tựu lớn nhất của Quả chuông ác mộng là tạo nên sự khác biệt tinh tế giữa cách nhìn đời bị biến dạng và sự biến dạng gắn liền với những gì được tri nhận. Những chuẩn mực truyền thống có lẽ đã góp phần tạo ra sự điên loạn của Esther, nhưng cô không bao giờ mất đi nhận thức về sự phi lí trong các chuẩn mực ấy. Chuyển sang Belsize, một khu vực trong bệnh viện tâm thần dành cho những bệnh nhân chuẩn bị hòa nhập lại thế giới, cô nhìn rõ mối liên hệ này:

“Có gì khác biệt giữa chúng tôi, những người ở Belsize, so với những cô gái chơi bài bridge, tán dóc và học ở trường đại học tôi sẽ quay về? Những cô gái đó cũng đang ngồi dưới một quả chuông.”

Những cụm từ như “điên rồ” và “tỉnh táo” càng trở nên mất cân xứng khi câu chuyện tiến triển. Esther thật sự bị “tâm thần” theo định nghĩa, nhưng định nghĩa đó chỉ là một cái nhãn: khi ta biết cô trở nên “tâm thần” như thế nào thì bản thân từ này cũng trở nên không còn quan trọng nữa. (Trong cương vị là một tác phẩm hư cấu, Quả chuông ác mộng dường như bổ sung cho lý thuyết lâm sàng của nhà phân tích người Scotland R.D. Laing.) Vì tác phẩm được viết từ góc nhìn của một người quan sát tuyệt vọng chứ không phải từ góc nhìn của người khác quan sát cô, nên có một quá trình tiếp diễn trong sự điên loạn của cô; đây không phải là tình trạng bất chợt ập đến thay thế cho cái trước nó mà là quá trình dần dần tiến triển.

Ảnh: Facebook Tao Đàn

Tự sát, một trò chơi u ám bộc phát của sợ hãi và tội lỗi, cũng gây nghiện như rượu và ma túy, ban đầu chỉ là sự thể nghiệm – nay vài giọt máu, mai một cơn nghẹt thở, chỉ cốt để xem cảm giác ấy ra sao. Nó nhanh chóng trở thành khát khao hủy diệt đầy choáng ngợp. Đến khi Esther leo vào khoảng trườn ở tầng hầm và nuốt cả một lọ thuốc ngủ – đến khi chúng ta đối diện với thực tế – sự kiện này, thay vì có vẻ ghê rợn, dường như lại giống một kết quả tự nhiên hơn. Khi cô chuẩn bị xuất viện sau một loạt chuỗi ngày dài điều trị, bác sĩ tâm lí dặn dò cô rằng hãy xem sự suy sụp này là “một cơn ác mộng”. Esther “được chắp vá, trở về và chấp thuận để lên đường.” Cô nghĩ “đối với người ở trong quả chuông thủy tinh, trống rỗng và ngưng đọng như một đứa bé chết non, bản thân thế giới là một cơn ác mộng.”

Đứa bé đó chỉ là một trong rất nhiều trường hợp trong “Quả chuông ác mộng”. Họ cười trong những trang tạp chí, họ ngồi như những xác thai nhi ngâm thuốc trong lọ thủy tinh được trưng bày ở khoa nhi tại bệnh viện của Buddy. Một “đứa bé nằm an trú trong tử cung người mẹ” dường như đang chờ Esther ở cuối đường trượt khi cô gặp tai nạn. Và theo tiến trình câu chuyện, cô chứng kiến một cuộc sinh nở. Thay cho luận văn về chủ đề “song ảnh” trong quyển Finnegans Wake mà cô không bao giờ hoàn thành, có thể là một bài luận về số lượng và những dạng trẻ em xuất hiện trong Quả chuông ác mộng. Ở phòng khám phụ khoa, khi nhìn một người mẹ âu yếm con, Esther tự hỏi tại sao mình lại cảm thấy quá tách biệt với thứ hạnh phúc dung dị này, với việc thực hiện bổn phận chức năng sinh học và xã hội đã được qui định ấy. Cô không muốn có con, bản thân cô là một đứa trẻ. Nhưng cô cũng là nhà văn tiềm năng. Cô muốn tự hoàn thiện bản thân mình, chứ không muốn được hoàn thiện. Với cô, đứa bé là Cái Bẫy và tình dục là mồi nhử. Nhưng cô quá thông minh đến nỗi không thể lờ đi sự thật rằng đứa bé không đại diện cho cuộc sống, chúng chính là cuộc sống, dù không hẳn là kiểu cuộc đời Esther muốn sống; đó là, trong trường hợp cô muốn sống. Cô bị mắc kẹt giữa những bào thai quái dị trưng bày trong khu của Buddy và cảnh nô lệ kinh khủng của việc mang thai có vẻ như kéo dài vô tận từ cô hàng xóm Dodo Conway lúc nào cũng đẩy xe nôi dưới cửa sổ phòng Esther, như một người điên trong khúc ca Hi Lạp. Đứa bé dẫn dụ Esther về phía tự sát bằng cách dẫn dụ cô về một cuộc sống đúng nghĩa là cô không thể chịu nổi. Dường như chỉ có hai cách giải quyết, mà cả hai đều vô hình: hoặc là tin tưởng vào đứa bé chưa ra đời, hoặc là trung thành với cái chết. Cuộc sống, hiện ra và hiển lộ quá đau đớn, đã đánh gục cô, cuối cùng, cô tự định đoạt số phận của mình. Ngoại trừ tình cảm vô vụ lợi của vị bác sĩ dành cho cô, tình yêu hoặc bị thiếu vắng hoặc không thể nhận ra trong Quả chuông ác mộng. Cảm xúc choáng ngợp là sự ghê tởm – sự ghê tởm chưa trở thành sự khinh miệt nên càng hủy hoại nhiều hơn.

Ảnh: Facebook Tao Đàn

Giữa lần xuất bản đầu tiên và lần thứ hai của Quả chuông ác mộng ở Anh, thi tuyển thứ hai của Sylvia Plath là Ariel được in sau khi bà chết. Một vài bài thơ đã xuất hiện trên tạp chí nhưng không ai ngờ đến ảnh hưởng cộng dồn của chúng. Những trải nghiệm hủy hoại nơi tâm trí và thể xác được rũ bỏ hết mọi phòng vệ, hoàn toàn bị phơi bày, khiến ta rợn người. Những bài thơ cho thấy rõ ngay lập tức người viết vốn đã được nhìn nhận là có thiên phú trước đây khả dĩ cũng là một thiên tài mà tác phẩm tạo ra có sự mãnh liệt, tinh tế, hoang dại, và thấu đời, không giống như bất kỳ ai trước đó. Tuy phẩm tính trác tuyệt trong những bài thơ khiến cái chết của bà càng ai oán hơn, nhưng chính cái chết đã khiến tác phẩm bà viết ngay lập tức có những giá trị nhất định mà lẽ ra có thể đã không được như thế nếu mọi sự khác đi. Cái chết khiến cho từng từ được viết xuống trang giấy không thể thay đổi; nhưng trong trường hợp này thì câu hỏi nhà thơ là ai và điều gì đã mất trở nên quá rõ ràng gần như cùng một lúc: như thể những bài thơ được sinh thành và nhà thơ qua đời trong cùng một hơi thở. Tiếp sau đó là sự bất tử đến tức thời. Sylvia Plath cũng trở thành một hình mẫu vượt ngoài phạm vi văn học đối với nhiều người, một nữ nhân đầy mâu thuẫn – một người đã đối diện với nỗi kinh hoàng và từ đó tạo tác ra một số giá trị nhưng đồng thời cũng bị chính nó hủy diệt. Tôi không nghĩ sự quyến rũ nhuốm màu bệnh hoạn khiến bà có vị trí đặc biệt. Năng lượng và sự bạo lực trong những bài thơ ở giai đoạn cuối đã được thực thi. Những mối đe dọa tác giả thể hiện trong thơ đã được bà thi hành và tác phẩm bà viết đạt đến cấp độ thượng thặng của sự thật. Mối liên hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, quá thường chỉ là phép tu từ, giờ đây lại trở nên tuyệt đối rõ ràng. Bi kịch trớ trêu là trong một thế giới của những kẻ lừa bịp hành nghề PR thì Sylvia Plath có vẻ là người sống thật bằng chính hành động chấm dứt cuộc sống của mình.

Quả chuông ác mộng thiếu sự tráng lệ của những bài thơ sau đó. Có chút gì đó nữ tính trong cách trình bày của nhà tiểu thuyết nghiệp dư. Nhưng nói cho cùng thì bản thân tư liệu là thứ vượt xa giới hạn thông thường. Đây là một quyển sách đáng sợ. Và nếu nó kết thúc quá lạc quan về mặt hư cấu lẫn thực tế sau đó thì nỗi kinh hoàng thật sự nằm ở chỗ khác. Tuy chúng ta chia sẻ mọi cảm xúc dẫn đến việc Esther cố gắng tự sát nhưng không có một chút nội dung sâu sắc nào trong Quả chuông ác mộng hướng đến sự tự sát. Đó có lẽ là lý do khiến tác phẩm này có một thế đứng độc lập. Đọc nó, chúng ta đối diện trải nghiệm ác mộng nguyên thủy chứ không phải là sự phân tích hay hiểu về ác mộng.

The New Yorker
Howard Moss

Click to comment

Viết bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Phía sau trang sách

Danh ca Elvis Phương ra mắt hồi ký mới, trải lòng nhiều chuyện hậu trường thú vị

Published

on

Ai đó đã từng nói rằng mỗi một nghệ sĩ đối với bản “hit” của mình luôn có những mối lương duyên đặc biệt. Với Elvis Phương điều đó rất đúng, khi suốt đời mình ông đã sống như một "chú ngựa hoang" với những vết thù mà mình mang theo. Hồi ký Dòng đời vừa mới ra mắt không chỉ mang đến những câu chuyện riêng phía sau hậu trường, mà còn cho thấy cả một thời đoạn âm nhạc liên tục thay đổi.

Trải qua gần 60 năm cuộc đời, Elvis Phương là một tượng đài giúp đưa dòng Rock’n’Roll và nhiều cách tân độc đáo vào âm nhạc Việt. Lấy tựa Dòng đời theo tên bài jazz nổi tiếng My Way, nam danh ca đã có những giãi bày riêng qua lời kể chân thành, từ đó tiết lộ rất nhiều câu chuyện, hình ảnh, tư liệu sống động mà trên ánh đèn sân khấu ít người biết đến.

Thời thơ ấu và tiếng gọi của âm nhạc

Được viết theo dòng thời gian từ khi sinh ra đến khi lớn lên, ở những chương đầu, Elvis Phương cho thấy được niềm đam mê âm nhạc ngay từ rất sớm. Như mối lương duyên đã được số phận sắp đặt, đó là việc ông thích phim ảnh và đã xem nhiều thể loại, thế nhưng tác phẩm để lại ấn tượng sâu nhất vẫn là bộ phim cao bồi O’Cangaceiro, nơi tiếng harmonica ở phần cuối phim vẫn luôn đọng lại. Từ chiếc harmonica ấy, ông dần sở hữu những “gia tài” khác, như chiếc radio, máy phát đĩa than, cây guitar bị hỏng dây… và cũng từ đó mà niềm khát khao đối với âm nhạc ngày càng đậm thêm.

Tại đây ông cũng tiết lộ một chuyện ít nhiều buồn thương, khi gia đình đã không ủng hộ ông theo con đường âm nhạc. Trong đó cha ông là người phản đối có phần quyết liệt, bởi tư tưởng cũ “xướng ca vô loài” cũng như mong muốn con mình nối nghiệp thầu khoán. Thế nhưng như một câu nói càng cấm càng làm, đam mê âm nhạc cứ thế lớn lên, cũng kèm theo đó là sự kình chống khó thể giảng hòa giữa ông và thân phụ mình.

Danh ca Elvis Phương hát cùng ban nhạc Vampires. Ảnh: NVCC.

Ông viết: “Tôi chắc chắn được một điều là mình rất mê âm nhạc, nghe tiếng nhạc tôi thấy yêu đời, thấy tâm hồn nhẹ nhõm lâng lâng. Lúc nào, giờ nào tôi cũng có thể nghe được, nhiều lúc còn mang cả radio vào trong toilet để nghe. Tiếng gọi của âm nhạc đến với tôi từ thời thơ ấu, nhìn lại những người thân trong họ hàng chung quanh, tôi nhận thấy mình chẳng hề chịu ảnh hưởng văn nghệ của bất kỳ ai, phải nói tôi nghĩ mình sinh ra đời để được ra phải được hát mà thôi”.

Dẫu vậy ông không hờn giận cha mình, mà khi ngày càng trưởng thành, ông nhận ra đó sẽ trở thành một “kim chỉ nam” để mặc cho sống giữa nhiều cám dỗ trong các vũ trường, những sân khấu ca nhạc… thì ông vẫn giữ được mình sao cho thuần chất. Có thể nói rằng những chia sẻ này là lời riêng tư và cảm xúc nhất mà Elvis Phương viết ra trong cuốn hồi ký, như lời tạ ơn cho vị thân sinh đã đưa "chú ngựa hoang dại" vào trong cánh đồng ca nhạc, dù bằng cách này hay cách khác.

Elvis Phương với Trung Lang Rockin' Star vào năm 1960. Ảnh: NVCC

"Ma lực" của Elvis Presley

Sau đó sẽ là quãng đời chạm ngõ bước vào trình diễn, khi ông gia nhập vào các ban nhạc nổi lên ở thời bấy giờ, từ Rockin’ Star, Les Vampire cho đến Phượng Hoàng cùng hai nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang và Lê Hựu Hà. Ở mỗi thời kỳ ông luôn biết cách tạo ra được sự đặc biệt để thu hút khán giả, và cũng phần nào khẳng định “Âm nhạc là mùa Xuân trong tôi, đang nở hoa rực rỡ, không thể nào để cho mùa Đông của sách vở, của văn bằng tận diệt dưới lớp đá băng lạnh lẽo”.

Điểm hay của thể loại hồi ký đó là tuy phản ánh góc nhìn cá nhân, thế nhưng bối cảnh mà nó làm nên thường mang được tính phổ quát khi là ký ức của rất nhiều người. Ở Dòng đời, qua những mô tả của Elvis Phương, lịch sử về sự du nhập âm nhạc cũng được trở lại theo từng thời kỳ phát triển của bản thân ông. Đó là những năm 1959 – 1969 với phong trào nhạc ngoại bắt đầu manh nha và các ban nhạc “kích động” chuyên trình bày nhạc ngoại quốc bắt đầu ra mắt. Cũng vào lúc này mà ông tìm thấy Elvis Presley – một cá tính có “sức lôi cuốn kỳ lạ, như có ma lực ghê gớm lôi kéo tôi vào thế giới của âm thanh đầy huyền hoặc”.

Elvis Phương tại nhà của Elvis Presley. Ảnh: NVCC

Ông cũng kể lại một thời thanh xuân thích sưu tầm những bài ca nước ngoài, chép lại trong một quyển tập được trang trí cẩn thận, với những hình ảnh được cắt từ báo ngoại quốc lúc đó vẫn còn hiếm hoi tại Việt Nam. Elvis Phương tiết lộ để có những hình ảnh ấy thì người ta phải nhờ người nhà ở nước ngoài gửi về, vì phải đến năm 1963 thì mới có các tạp chí ca nhạc Mỹ xuất hiện, khi quân đội Mỹ vào Việt Nam. Thời điểm này cũng đã đánh dấu nhạc Pháp thoái trào và sự thay đổi thành phần khán giả.

Theo đó nếu những năm trước người tham dự đa số là học sinh trường Pháp, thì thời kỳ này là sự góp mặt của nhiều “dân chơi” Sài Gòn và sự bành trướng của nhạc Anh, nhạc Mỹ với sự có mặt của những quân nhân Hoa Kỳ. Đó là làn sóng British Invasion, và cũng đánh dấu bước chuyển của thời kỳ ca hát tài tử để bắt đầu có sự kỳ kèo về giá cả của những hợp đồng ký kết.

Elvis Phương kể mình từng khiến tài tử Lưu Đức Hoa bất ngờ với việc thay trang phục sau mỗi tiết mục trình diễn. Ảnh: NVCC

Ban Phượng Hoàng và những cá tính

Bên cạnh bối cảnh được tái hiện lại, Dòng đời cũng là những cuộc gặp gỡ của Elvis Phương với những bạn nhạc đóng vai trò quan trọng trong cuộc đời ông. Đó là huyền thoại cải lương Thanh Nga – người từng ngồi kề bên ông ở trường tiểu học Jean-Jacques Rousseau, là Khánh Ly – người đã thu âm cùng ông băng nhạc đầu tiên ở Mỹ, là cố nghệ sĩ Chí Tài – người đã sẵn lòng đầu tư cho ông dù chưa hề biết kết quả sẽ đi đến đâu… Ngoài ra còn là những gương mặt khác đã từng xuất hiện trong các ban nhạc kề cận quanh ông thuở mới vào nghề, cũng như trong nhiều tấm ảnh được đính kèm theo.

Trong đó hai người nổi bật không thể không nhắc là hai thành viên của ban Phượng Hoàng. Elvis Phương không chỉ kể lại những chuyện thân tình mà còn đánh giá ảnh hưởng của họ lên sự nghiệp và cuộc đời mình. Ông viết: “Hai tâm hồn, hai tư tưởng, hai nghệ sĩ, hai khuynh hướng sáng tác khác nhau, nhưng khi kết hợp lại đã mang đến sự quân bình tuyệt diệu của nhân sinh quan cũng như nghệ thuật. Tôi không coi họ là những thiên tài, mà tôi coi họ như những nạn nhân của tuổi trẻ, người nói lên được những cảm nghĩ sâu xa của một tuổi trẻ bị xâu xé vì chiến tranh, bị giằng co giữa cái đẹp và cái xấu trong bối cảnh xã hội lúc đó”.

Ban Phượng Hoàng (từ trái qua): Elvis Phương, Trung Vinh, Nguyễn Trung Cang, Châu và Lê Hựu Hà. Ảnh NVCC.

Ở đó có một Lê Hựu Hà lạc quan với lòng yêu thiên nhiên, yêu người, yêu đời, còn Nguyễn Trung Cang thì sống trong sự bi quan, dằn vặt, nhìn cuộc đời này bằng một màu đen tang tóc, ảm đạm. Và chính sự quân bình ấy đã tạo nên ban Phượng Hoàng như tên tuổi lớn của một giai đoạn nhạc trẻ Việt Nam bắt đầu thành hình. Và không chỉ có cơ may được hợp tác cùng và làm việc với những yếu nhân, mà bản thân ông cũng là một người hướng mình đến sự hoàn hảo, để đáp lại lòng thương yêu của khán giả dành cho mình.

Ông kể về những lần mua sắm rất nhiều trang phục ở các kinh đô thời trang khác nhau với những nhà thiết kế nổi tiếng, không chỉ vì thích mặc đẹp mà còn vì để tôn trọng khán giả. Ông cũng nói về nỗ lực của mình trong việc tìm ra một lối đi mới, trong việc tiên phong hát các liên khúc, phối trộn chất liệu dân gian cũng như cách hát bày tỏ cảm xúc khác biệt… Chính những điều đó làm nên một Elvis Phương của ngày hiện tại, rằng dẫu chìm nổi theo dòng thời gian ở nhiều bối cảnh khác nhau, thì ông vẫn luôn thích nghi và tìm thấy được lối riêng cho bản thân mình.

Bìa cuốn hồi ký Dòng đời. Ảnh: Phương Nam Books

Xuyên suốt tác phẩm ông đã ví mình như chú ngựa hoang “phóng vào đồng cỏ mênh mông, bát ngát để khám phá biết bao điều mới lạ, được nhìn thấy đủ muôn mặt của cuộc đời này, từ những khuôn mặt khả ố đến những khuôn mặt đẹp đẽ dễ thương, từ những khuôn mặt tính toán thâm hiểm cho đến những khuôn mặt đầy bao dung và nhân hậu…”

Và sau 60 năm vùng vẫy vẫn chưa thấm mệt, cho đến giờ đây, ông vẫn là một tượng đài trong âm nhạc Việt Nam không chỉ trong quá trình làm nghề, mà còn là thái độ sống và lòng bao dung với cuộc đời này. Dòng đời chính là những trải lòng ấy, để "ngựa hoang" giờ đã tìm thấy tình yêu cũng như chính mình.

Nguồn: Người Đô Thị | Minh Anh

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Từ câu chuyện quạ và bình nước đến giải mã bí mật bộ não thiên tài của loài chim

Quyển sách Chim chóc chưa bao giờ ngốc, tác giả sách, nhà nghiên cứu Jennifer Ackerman giúp độc giả hiểu biết thêm vô vàn năng lực kỳ diệu, đời sống hoang dã đầy thú vị của loài chim. 

Published

on

Bạn có biết, loài chim đã tồn tại hơn 100 triệu năm? Chúng thường sử dụng tập quán xây tổ, sử dụng điệu múa… để thu hút bạn tình. Hay chim sáo, vẹt có khả năng bắt chước nói tiếng người, bồ câu đưa thư hoặc những loài chim di cư định vị được chúng đang ở đâu.

Trí thông minh của loài chim trở thành nguồn cảm hứng bất tận để các nhà khoa học thực hiện hàng loạt thí nghiệm. Và trong quyển sách Chim chóc chưa bao giờ ngốc, tác giả sách, nhà nghiên cứu Jennifer Ackerman giúp độc giả hiểu biết thêm vô vàn năng lực kỳ diệu, đời sống hoang dã đầy thú vị của loài chim. 

Vì sao loài chim có trí thông minh vượt bậc?

Trong Chim chóc chưa bao giờ ngốc (Phương Nam Book & NXB Thế giới), nhà nghiên cứu Jennifer Ackerman đã không ngần ngại gọi các đối tượng chim bằng cụm từ “thiên tài”. Vì sao ư? Khi đi sâu nghiên cứu, ghi chép, Jennifer Ackerman nhận định, chim chóc xứng đáng với cái tên đó.

Cũng theo Charles Darwin - nhà bác học, nhà tự nhiên học vĩ đại người Anh, “cha đẻ” của thuyết tiến hóa, từng nói: “Động vật và con người có sức mạnh trí tuệ chỉ khác nhau ở mức độ chứ không phải ở giống loài”. Trong thực tế, bạn từng nhìn thấy chú chim sẻ đang nhặt hạt thóc mang về tổ hay một con chim sáo lục túi rác tìm thực phẩm sót lại. Điều này giúp bạn nhận ra, loài chim học được cách tìm kiếm thức ăn mới. Dấu hiệu cho thấy sự thông minh vượt bậc của loài chim. 

Gần gũi hơn với tuổi thơ chúng ta, câu chuyện ngụ ngôn quạ và bình nước là tiền đề để các nhà khoa học thực hiện các thí nghiệm trên loài quạ. Năm 2014, nghiên cứu về quạ và bình nước tái hiện lại dưới góc nhìn các nhà khoa học ở ĐH Cambridge (Anh) và ĐH Auckland (New Zealand).

Ảnh minh họa

Với nhiều phương án, giống quạ New Caledonian được thí nghiệm ưu tiên chọn đá để thả vào bình thay vì cát, chọn vật rắn chìm dưới nước thay vì vật rỗng nổi trên mặt. Quạ thả vào bình có mực nước cao hơn thay vì bình có mực nước thấp hơn. Từ những hành vi đó, các nhà khoa học kết luận rằng, loài quạ cực kỳ thông minh, nó biết cách sử dụng công cụ lao động theo ý muốn. 

Cũng trong nghiên cứu trên Tạp chí Thần kinh học So sánh (Mỹ), tháng 1/2022, các nhà khoa học so sánh não bộ chim họ quạ với não của gà, chim bồ câu và đà điểu. Họ phát hiện rằng não họ quạ có các tế bào thần kinh dày đặc với hơn 200 đến 300 triệu tế bào thần kinh trên mỗi bán cầu. Điều này cho phép việc giao tiếp hiệu quả giữa các tế bào não của quạ. 

Trong khi đó, loài chim luôn bị nỗi oan ngu ngốc, con người mắng là lũ não ngắn, đồ... não chim. Theo một nghiên cứu năm 2020, tạp chí Science, công bố, não chim không hề ngắn một chút nào. Cụ thể, quạ và các loài chim khác “biết chúng muốn gì và có thể suy ngẫm các ý tưởng trong tâm trí”. Theo tạp chí Current Opinion in Behavioral Sciences, xuất bản năm 2017, nhận định, trí thông minh của quạ có thể ngang bằng với một số loài khỉ và gần với loài vượn lớn (khỉ đột).

Cũng theo nghiên cứu của Viện Khoa học Hàn lâm Quốc gia (Mỹ), các nhà khoa học phát hiện ra rằng, bộ não bé nhỏ của loài chim chứa nhiều tế bào não hơn đa số các loài thú hiện nay. Cụ thể, các chuyên gia đã xét nghiệm tế bào não của 32 loài chim khác nhau, gồm cả quạ, vẹt, đà điểu và cú. Họ sử dụng hệ thống đếm neuron thần kinh. Kết quả thu được, não chim có số lượng tế bào não lớn hơn hẳn các loài thú khác. Ví dụ, loài chim sẻ - trọng lượng bằng 1/9 loài chuột, nhưng tỷ lệ tế bào não nhiều gấp 2,3 lần.

Tuyệt chiêu ‘tỏ tình” sáng tạo của loài chim 

Từ việc quan sát hành vi sống của loài quạ có thể chế tạo công cụ để lấy thức ăn - những thứ chỉ từng nhìn thấy ở các loài vượn lớn. Hay nguyên nhân tuyệt diệt của chim dodo, tác giả sách, nhà nghiên cứu Jennifer Ackerman đi tìm lời giải đáp về thang đo chung trí tuệ của các loài chim. 

Với Chim chóc chưa bao giờ ngốc, Jennifer Ackerman cung cấp kiến thức đời sống hoang dã lý thú đến người đọc. Tác giả trình bày chi tiết những phát hiện, minh chứng, nghiên cứu cũng như kết quả về trí thông minh của loài chim. Việc bộ não loài chim có kích thước nhỏ không tương đồng một cách hoàn toàn với trí thông minh của chúng.

Hơn hết, Jennifer Ackerman dùng các học thuyết riêng biệt để giúp chúng ta hiểu thêm về trí thông minh của loài chim. 8 chương sách là 8 mảnh ghép làm nên những điều mới mẻ về các loài chim. Trong đó, hai chương sách bàn luận về học thuyết tâm trí giao phối. Tác giả đưa ra những lý giải thú vị về các hành vi một vài loài chim mái tìm bạn tình dựa trên cách xây dựng tổ cũng như điệu múa đẹp từ chim trống. 

Vào mùa giao phối, chim trống lượm nhặt, thậm chí giành giật nhiều đồ vật bỏ rơi đủ màu sắc để trang trí nơi ở của mình để thu hút chim mái. Khi đối tượng đến, chim trống nhảy nhót, hót mừng mời vào tổ tham quan. Tổ càng đẹp con mái sẽ càng dễ xiêu lòng hơn. Hoặc có những loài chim khác lại chọn sự đồng điệu thông qua tiếng hót… Hành vi kết đôi thú vị này diễn ra trong thế giới tự nhiên giúp chúng ta thấu hiểu, loài chim cũng rất sáng tạo trong việc tán tỉnh nhau.

Điều đặc biệt của Chim chóc chưa bao giờ ngốc còn nằm ở sự pha trộn tài tình giữa những kiến thức thú vị về cuộc sống của loài chim. Óc quan sát tinh tế, sự ghi chép tỉ mẩn, dày công nghiên cứu về loài chim của tác giả Jennifer Ackerman gói gọn trong hơn 400 trang viết.

Thông điệp từ tình yêu thiên nhiên

Chim chóc chưa bao giờ ngốc còn góp phần giúp độc giả nhí lẫn người lớn hiểu thêm thực tế môi trường sống đang dần biến đổi. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con người và sự tiến hóa của loài chim. 

Jennifer Ackerman diễn giải cho chúng ta thấy, các chú chim di cư giờ đây phải đối mặt với việc thức ăn trên biển của mình không đúng mùa. Nhiệt độ môi trường tăng lên, thời gian sinh trưởng của các trật tự sinh học khác đảo loạn. Dẫn đến nhiều loài chim phải chết giữa đường do không tìm được thức ăn. Trong rừng rậm sâu, những con chim mẹ cũng phải đẻ trứng ngược với chu trình ngàn đời tự nhiên, nhằm đảm bảo nguồn sâu phong phú để nuôi nấng thế hệ sau của mình… 

Thông qua Chim chóc chưa bao giờ ngốc, tác giả Jennifer Ackerman mong muốn gửi gắm thông điệp về tình yêu thiên nhiên, góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng về vấn đề bảo tồn sự đa dạng sinh học của loài chim nói riêng, cũng như đời sống loài động vật hoang dã khác trước thềm tuyệt chủng.

“Não chim có lẽ nhỏ, nhưng rõ ràng là có võ… Chim chóc đã tồn tại trong hơn 100 triệu năm. Chúng là một trong những câu chuyện thành công vĩ đại nhất của tự nhiên…”, Jennifer Ackerman viết.

Bà Trần Nhật Hoàng Phương - Giám đốc Marketing Phương Nam Books - cho biết, nếu như thời gian trước, các dòng sách đa dạng, phong phú theo chiều rộng, thì trong năm 2023, nhiều chủ đề sách sẽ mang tính chiều sâu hơn. Theo đó, Chim chóc chưa bao giờ ngốc - giải mã bộ não thiên tài của loài chim, được trình bày với giọng văn mạch lạc. Từ đó, độc giả sẽ bước vào cuộc phiêu lưu trên từng trang sách.

Tóm lại, Chim chóc chưa bao giờ ngốc - một cuốn sách tuyệt vời dành cho bạn đọc yêu động vật, tò mò khám phá về đời sống tự nhiên. Bởi có quá nhiều điều thú vị sẽ giữ chân bạn lại lâu hơn, để tìm hiểu, để khám phá và yêu hơn những loài chim - một trong những sinh vật có trí thông minh vượt bậc nhất thế giới. 

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Sự hoàn hảo và hạnh phúc: Điều gì quan trọng hơn?

Bạn và tôi cũng chỉ là những cô gái nhỏ trên hành trình tự chữa lành tâm hồn, yêu thương chính mình.

Published

on

phu-nu-dung-kiet-suc-vi-su-hoan-hao

Gửi cậu - cô gái luôn nghĩ mình chưa đủ tốt. 

Dạo gần đây, mình lướt mạng xã hội thấy được rất nhiều những cô gái xinh đẹp, giỏi giang và tràn đầy năng lượng tích cực, mình ngưỡng mộ lắm! Nhưng mình bỗng lặng đi một chút, hàng vạn câu hỏi xuất hiện trong đầu mình: Tại sao bản thân lại không được xinh đẹp, sao bản thân mình toàn chất chứa những tiêu cực, sao mình lại không đủ tốt cơ chứ! Bạn đã từng bị những suy nghĩ ấy bủa vây chưa? Nếu câu trả lời là có, hãy để mình dành cho bạn một cái ôm thật dịu dàng nhé! 

Chỉ cần quan tâm cảm xúc bản thân một chút, bạn sẽ thấy tinh thần tốt hơn. Nguồn ảnh: @Unsplash

Phải là một cô gái đoan trang, một người vợ tào khang, một người mẹ giỏi giang - những tiêu chuẩn hoàn hảo, những áp lực vô hình ấy đã gắn lên người phụ nữ qua bao thế hệ. Ở đây, mình không phủ nhận những tiêu chuẩn ấy là sai trái, mình chỉ nói đến việc phụ nữ chúng mình luôn trong tình trạng thấy quá tải và kiệt sức với mọi việc mình phải làm, nhưng vẫn cứ lo là mình làm chưa “đủ” và luôn trong trạng thái "sức cùng lực kiệt". 

Mình cũng chỉ là cô gái nhỏ trên hành trình tự chữa lành tâm hồn, yêu thương chính mình để thoát khỏi "peer pressure" (Áp lực đồng trang lứa) hay "burn out" (luôn cảm thấy bản thân mình mệt mỏi và vô cùng áp lực). Người bạn đồng hành cùng mình ở hành trình này chính là quyển sách Phụ nữ đừng kiệt sức vì sự hoàn hảo (Emily Nagoski, PhD và Amelia Nagoski Peterson, DMA)

Quyển sách Phụ nữ đừng kiệt sức vì sự hoàn hảo - tác giả Emily Nagoski, PhD và Amelia Nagoski Peterson, DMA

Quyển sách cung cấp độc giả những thông tin khoa học về sức khỏe tâm lý, vừa là người bạn cùng san sẻ những vấn đề xung quanh "cuộc sống phải hoàn hảo" của người phụ nữ. Và chắc chắn bạn sẽ như mình khi bắt gặp chính mình trong quyển sách qua những câu chuyện về cuộc đời, những nỗi đau tâm lý và những lần ngã gục của những người phụ nữ. 

Ba phần của quyển sách Phụ nữ đừng kiệt sức vì sự hoàn hảo tương ứng với ba giai đoạn của sự chữa lành: 

  • Phần 1 - Những điều bạn mang theo: Với mình, đây là chương sách mình phải chạnh lòng và nghiền ngẫm lâu nhất, khi mình phải tự đối mặt với những đám mây tiêu cực - những vấn đề vẫn hằng đeo bám tâm trí người phụ nữ: sự căng thẳng, cạn kiệt cảm xúc, nhìn nhận sai về "ý nghĩa cuộc sống"... qua góc nhìn tâm lý học và khoa học xã hội. Nhưng mình chắc chắn rằng chúng sẽ không hề khô khan mà lại dễ hiểu và gần gũi qua cách dẫn chuyện lôi cuốn của tác giả. 
  • Phần 2 - Kẻ thù thật sự: Phần hai của quyển sách đào sâu vào "chế độ phụ quyền", “hội-chứng-người-biết-cho-đi” và "vẻ đẹp lý tưởng" - vạch trần những kẻ thù đã gây ra những thương tổn trong tâm lý người phụ nữ. Mình cũng rất thích cách tác giả lồng ghép bộ phim Gaslight một cách đầy tinh tế để dẫn chuyện. Cùng với đó, tư tưởng của tác giả không lý thuyết suông rằng kêu gọi phụ nữ hãy yêu thương và chấp nhận bản thân, mà là "kiên nhẫn với cơ thể cũng như cảm giác của bạn về cơ thể mình."
  • Phần 3 - Những điều cần làm: Phần này sẽ trang bị cho bạn những kiến thức để đánh bại "những kẻ thù thật sự", để bạn ngày một trở nên mạnh mẽ hơn và chiến thắng được chúng. Bạn sẽ bất ngờ nhận ra đó là những việc bạn có thể thực hiện hằng ngày, để bạn kết nối, tin tưởng, nghỉ ngơi và bao dung với bản thân mình hơn. 

Cuối mỗi chương, nhóm tác giả đều có tóm tắt ngắn gọn nội dung, giúp mình thống kê lại kiến thức và các "bài tập" thực hành. Khép lại quyển sách chưa đầy 400 trang, mình đã xóa đi được những góc nhìn đầy phiến diện về cuộc sống và cả về chính mình nữa.

Khi ta từ bỏ sự áp lực hoàn hảo là ta đang hạnh phúc. Nguồn ảnh: @Unsplash

Mình không dám nói rằng mình trưởng thành hơn hay hoàn thành chữa lành sau khi đọc xong quyển sách. Nhưng mình đã tự mở ra cho mình một lăng kính mới, một cánh cửa mới cho chiếc tủ eo hẹp nơi tâm trí. Lăng kính của sự tự do và cánh cửa của sự bao dung cho bản thân. Bất cứ sự trưởng thành nào cũng phải đánh đổi bằng tổn thương. Điều quan trọng, cách ta chiến đấu và chữa lành cho đứa trẻ bên trong sau cuộc chiến hay để những đớn đau ấy mãi tuần hoàn.

"Hãy tin tưởng cơ thể của bạn. 
Hãy tử tế với chính mình. 
Bạn như hiện tại là đủ. 
Niềm vui của bạn là quan trọng. 
Hãy nói cho mọi người mà bạn biết."
Mỗi cô gái đều là phiên bản độc nhất và xứng đáng được yêu thương!"

Đọc bài viết

Cafe sáng