Phía sau trang sách

Những người đàn ông không có đàn bà: Haruki, ông có tiến gần hơn đến câu trả lời mà ông đang tìm kiếm?

Những cuộc đối thoại như thế cho tôi cảm giác rằng Haruki ngày nay đã vững vàng hơn rất nhiều trong niềm tin dành cho con người, ông không còn dễ dàng để mọi thứ mong manh trôi qua trong sự hoài nghi và im lặng nữa.

Published

on

Chi tiết tác phẩm

Sau Tazaki Tsukuru không màu và những năm tháng hành hương, đã một năm rồi tôi mới có dịp đọc tiếp một tác phẩm mới của Haruki ra mắt bản dịch tiếng Việt trong năm nay: Những người đàn ông không có đàn bà. Khi lật sơ lược qua toàn thể tập truyện ngay khoảnh khắc vừa cầm nó trên tay, tôi đã có một cảm giác khác lạ, một cảm giác trước đây tôi chưa từng trải qua. Tôi biết ngay được nguyên nhân nằm ở đâu: trong bảy truyện nằm trong tập truyện ngắn này thì có hai truyện tôi đã đọc trước đây trên mạng. Trong kinh nghiệm đọc sách của tôi, đây là lần đầu tiên tôi đọc một quyển sách mà nội dung của nó không hoàn toàn là thứ tôi chưa đọc. Những thứ tôi đã đọc giờ đây xuất hiện dưới một dạng thức khác và đang hòa lẫn vào thứ tôi chưa đọc. Hai truyện ngắn mà tôi đã đọc trước đó là YesterdaySamsa đang yêu. Tính trong vị trí tương quan các truyện nằm trong tập truyện thì hai truyện này vô tình nằm ở vị trí đối xứng nhau: Yesterday là truyện liền sau truyện thứ nhất và Samsa đang yêu lại là truyện liền trước truyện cuối cùng. Vậy là vô tình tôi có hai điểm neo quen thuộc trong hành trình khám phá hải cảng mới này. Cảm giác ấy khá lạ lẫm. Nó chẳng phải là cảm giác hồi hộp, háo hức khám phá một người bạn mới nhưng đồng thời cũng không phải là cuộc hội ngộ để tìm hiểu lại về nhau giữa những người bạn cũ. Bây giờ, sau khi đọc xong tập truyện ngắn này, tôi nhận ra rằng không chỉ là cảm giác khi đọc mà chính bản thân việc đọc tập truyện này với tôi cũng mang tính “lưỡng nghĩa” giống như khi Kino trầm tư về ý nghĩa việc bầy rắn bò quanh nhà anh vậy. Tôi nhận ra những thay đổi của Haruki trong suy tư (hay ít nhất là tôi nghĩ vậy), tôi nhận ra những thay đổi trong cách nghĩ của mình về lối viết của Haruki, và rồi tôi nhận ra những thay đổi của chính mình thông qua việc nhận biết chuỗi thay đổi diễn ra trước đó. Và sự thay đổi này, tôi cũng không rõ có thể định danh nó là tích cực hay tiêu cực.

Khi quay lại thì không còn chính xác là nơi cũ nữa

Trước khi tiếp tục viết cảm nhận của mình về Những người đàn ông không có đàn bà, tôi muốn viết bên lề một chút về cách tôi vẫn gọi ông trong tâm thức và khi trò chuyện với bạn bè. Như những gì tôi đã viết ở trên, tôi luôn gọi ông là Haruki, chưa bao giờ tôi gọi ông là Murakami cả. Việc này đến với tôi thật tự nhiên. Ngay từ lần đầu đọc tên ông, tôi đã nghĩ nếu có thể gọi ông bằng một cái tên ngắn gọn hơn, tôi sẽ gọi ông là Haruki. Tôi thích gọi tên một người nào đó hơn là họ của người ấy dù không có đủ sự thân thiết. Lí thuyết là ta không thể gọi tên một người Nhật trống trơn nếu không đủ thân thiết, ta chỉ có thể gọi người đó bằng họ. Nhưng trên thực tế, có những người ta sẽ không bao giờ có đủ sự thân thiết với họ để chuyển đổi xưng hô, vậy nên tôi tự cho phép bản thân mình gọi những người đó bằng tên nếu như tôi thích gọi họ như thế. Haruki. Mỗi lần gọi tên ông như thế, tôi lại liên tưởng đến cảm giác thân mật trong tâm tưởng. Tôi nghĩ những mối quan hệ chỉ thân mật trong tâm tưởng là những mối quan hệ thật đặc biệt. Ít ra đó là một trong những điều tuyệt vời mà một người có thể tận hưởng nó trong vai trò là độc giả đối với tác giả mình yêu thích. Trong vai trò của người đọc, bản thân việc được thưởng thức tác phẩm hay đã là điều tuyệt vời, nhưng sự chia sẻ mối quan hệ thân mật trong tâm tưởng với người viết mình yêu thích cũng là một điều thú vị không kém. Tuy vậy, không phải lúc nào tác giả mình yêu thích cũng đồng thời là người mang đến cho mình cảm giác thân mật đó. Ít ra, với trường hợp của tôi là như vậy và Haruki là một trong số ít tác giả đồng thời mang đến cho tôi hai cảm giác đó: vừa yêu thích, vừa thân mật. Việc gọi ông là Haruki trở thành điều hiển nhiên đến mức khi tôi gặp ai đó gọi ông là Murakami, tôi lập tức cảm thấy rất xa lạ. Từ lâu tôi vẫn luôn nghĩ rằng nếu chỉ gọi ông là Murakami thì chẳng phải sẽ dễ bị nhầm lẫn với Murakami Ryu sao? Mỗi lần nghe ai gọi ông là Murakami, tôi lại hỏi như thế. Câu trả lời tôi nhận lại luôn là sẽ không có sự nhầm lẫn đáng kể vì ở Việt Nam Murakami Haruki nổi tiếng hơn Murakami Ryu, khi nhắc đến Murakami, người ta sẽ nghĩ đến Haruki nhiều hơn Ryu. Nhưng như thế chẳng phải là có chút bất công cho Ryu sao? Về điểm này, tôi nhận thấy mình khá cực đoan. Tuy không muốn phân biệt nhưng tôi nhận ra mình dễ dàng nói chuyện về Haruki với những người cũng gọi ông là Haruki hơn những người gọi ông là Murakami dù tôi biết rằng cách gọi nào cũng đều là ông và đó không phải điều quan trọng lắm.

Nhưng tại sao tôi lại viết điều không quan trọng lắm ấy ra đây?

Bởi vì qua những truyện trong tập truyện ngắn Những người đàn ông không có đàn bà, Haruki lại một lần nữa giúp tôi nhận ra có những điều dù thoạt nhìn qua có vẻ như nó không quan trọng lắm nhưng nếu soi chiếu thật sâu, có thể ta sẽ tìm ra những ý nghĩa của nó mà ta đã vô tình bỏ sót, cũng có thể ta sẽ nhận ra đó lại chính là điều quan trọng. Drive my car, Yesterday… là những truyện soi vào các điều tưởng chừng không quan trọng ấy. Drive my car mở đầu bằng việc Kafuku muốn tìm một người lái xe thay anh trong khoảng thời gian anh không thể lái xe, Yesterday mở đầu bằng lời bài hát Yesterday trong tiếng Kansai do Kitaru viết lại lời… Những việc đó, thoạt đầu khi vừa đọc qua, ta sẽ thấy có vẻ như đó là những điều không mấy quan trọng nhưng bằng sự tỉ mỉ trong quan sát như mọi khi, Haruki dần cho người đọc cảm nhận một cách tự nhiên rằng dường như có điều gì đó quan trọng hơn vẻ bề ngoài không mấy quan trọng của những hành động này, dường như có điều gì đó ẩn giấu sau những suy nghĩ của Kafuku về việc ngồi trong xe do đàn ông lái hay phụ nữ lái, thói quen chạy xe, sử dụng xe của anh; dường như có điều gì đó khuất lấp sau Kitaru, một người vùng Kantou lại học tiếng Kansai hết sức bài bản và nhiệt thành như thế… Và cứ thế, chúng ta từ từ khám phá câu chuyện của họ, dần dần nhận ra có những khoảng trống nào đó chen vào giữa những điều tưởng chừng không quan trọng ấy, cố gắng tìm hiểu những khoảng trống đó, cùng nhân vật lấp đầy nó bằng những hồi ức được hé lộ. Thế nhưng, khoảng trống giữa các sự kiện ấy trong những truyện của Haruki không bao giờ được lấp đầy hoàn toàn.

Drive my car, Cơ quan độc lập, Scheherazade, Những người đàn ông không có đàn bà đều bắt đầu bằng một sự kiện mà người đọc không biết được nguyên nhân khởi điểm, điều này dễ khiến người đọc có cảm giác mình đột ngột bị ném vào câu chuyện này trong khi chưa nắm được điều gì đã xảy ra trước đó. Và sau đó, bằng việc tiếp tục theo dõi câu chuyện, người đọc biết được những sự kiện đã xảy ra trước đó để lấp vào khoảng trống mà mình không hiểu rõ khi câu chuyện vừa bắt đầu để rồi sau đó lại quay về điểm khởi đầu hoặc cùng nhân vật đi tiếp các sự kiện diễn ra sau sự kiện khởi đầu và kết thúc câu chuyện. Kiểu cấu trúc này gợi ra hành trình tìm hiểu bản thân bằng cách quay về quá khứ – đồng nghĩa với việc thoát khỏi bản thân ở hiện tại, rồi cuối cùng lại trở về với bản thân ở hiện tại. Nhưng vì khoảng trống không được lấp đầy hoàn toàn hoặc khi ngược về những sự kiện trước đó, ta lại thấy xuất hiện thêm những khoảng trống khác nên ta không hoàn toàn thực sự quay về khởi điểm của câu chuyện. Cảm giác này có lẽ cũng tương tự cảm giác của Kafuku khi nhận định về việc diễn xuất của anh: “Thoát khỏi bản thân, rồi lại trở về với bản thân. Nhưng khi quay lại thì không còn chính xác là nơi cũ nữa.” Tôi nghĩ đó cũng chính là điều tuyệt vời ở bốn truyện ngắn này của Haruki khi mà ở điểm kết thúc, người đọc nhận ra mình được đẩy xa hơn điểm khởi đầu của câu chuyện dù bản thân câu chuyện đang quay trở lại điểm khởi đầu của nó, ngay cả những nhận định, cảm giác về các sự kiện khởi đầu của người đọc cũng được thay đổi – không phải theo kiểu chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác mà là chuyển từ góc nhìn này sang góc nhìn khác khi biết được những sự kiện trước nó hay những sự kiện hỗ tương cho nó. Quá trình theo dõi bốn câu chuyện này cũng làm tôi nhớ đến một câu nói quen thuộc mà không nhớ là của ai nói: “Cuộc sống giống như là đến rạp chiếu phim trễ và chúng ta đang xem một bộ phim đã chiếu từ trước đó vậy. Ta không hiểu chuyện gì đang xảy ra và chỉ bằng cách xem tiếp hay sống tiếp, cố gắng kết nối những sự kiện mới lại với nhau, nhận ra cấu trúc của nó, dần dần chúng ta mới hiểu được mình hơn trong quá khứ và biết được rốt cuộc chuyện gì đang diễn ra.”

Nếu Scheherazade biến mất…

Xét ở một góc độ khác, tất cả những truyện trong tập truyện ngắn Những người đàn ông không có đàn bà (ngoại trừ truyện Samsa đang yêu vốn không nằm trong tập truyện gốc) đều được viết dưới góc nhìn của người kể lại những gì đã qua, không phải của người đang trải nghiệm những điều ấy ở thì hiện tại trong câu chuyện cùng người đọc. Vì thế, người đọc luôn ở trong biên độ hiểu biết về câu chuyện ít hơn nhân vật và chính điều này duy trì sự bí ẩn của nhân vật với người đọc. “Rõ ràng có chuyện gì đó trước đây đã xảy ra với người này, một điểm gãy đổ nào đó đã diễn ra. Liệu người đó có kể ra hết tất cả những chuyện đã xảy ra trong quá khứ để mình hiểu hơn về điểm gãy đổ đó không?” Trong quá trình đọc tập truyện ngắn này, tôi thường hay tự hỏi mình những câu tương tự như thế và nhờ đó mà nhận ra rõ ràng rằng khi người đọc tiếp xúc câu chuyện với dữ kiện thông tin ít hơn nhân vật rất nhiều thì trong vô thức, có thể người đọc sẽ cảm thấy bồn chồn, lo lắng rằng liệu khi kết thúc câu chuyện, nhân vật – cái người trên cơ ấy có chịu tiết lộ cho độc giả – những người dưới cơ biết hết những gì đã diễn ra hay không? Trong trường hợp của Haruki hay những nhân vật của Haruki thì câu trả lời không hẳn là có mà cũng không hẳn là không. Bởi lẽ có những truyện rõ ràng ông không tiết lộ hết, có những truyện dù ông tiết lộ hết nhưng chính từ góc nhìn của một người kể lại, người đọc không thể tránh khỏi việc tự chất vấn về tính toàn vẹn của câu chuyện mà truyện điển hình nhất là Cơ quan độc lập vì sự kiện quan trọng nhất trong truyện không được người kể chuyện chứng kiến mà chỉ là kể lại dựa trên lời kể lại của một người khác. Thế nhưng sự mơ hồ và lưỡng nghĩa đó ở văn phong của ông vẫn luôn là thứ thu hút người đọc. Haruki đã đưa người đọc đến gần với tâm trạng của Habara khi nghe những câu chuyện do Scheherazade kể: “Nếu Scheherazade biến mất, Habara sẽ không còn được nghe chuyện của cô nữa. Mạch chuyện bị ngắt, những câu chuyện kì lạ, bí ẩn lẽ ra được kể cứ thế biến mất mà không bao giờ được kể.” Khi đọc truyện của Haruki, tôi thường có tâm trạng sợ rằng câu chuyện sắp kết thúc, nhân vật sắp biến mất mà mình vẫn chưa kịp hiểu rõ về họ, chưa kịp biết những dữ kiện thông tin mình muốn biết. Như thế, Haruki đã thực sự trở thành Scheherazade và người đọc hạnh phúc khi thấy mình là Habara.

Bên cạnh việc duy trì khoảng cách, cảm giác bí ẩn của người đọc đối với nhân vật, tôi nghĩ rằng lối kẻ lại cũng tạo được cảm giác “bình tĩnh đến kì lạ” mà ở bìa 4 cuốn sách, Nhã Nam có viết. Bởi lẽ khi người đọc theo dõi một câu chuyện không phải từ điểm nhìn đồng hành cùng nhân vật lúc nó đang xảy ra mà nhận thức được rõ đây là câu chuyện do nhân vật đã trải qua và kể lại thì trong chính lời kể của nhân vật, trong chính tâm thức của người đọc sẽ có một lớp màng mỏng phân cách giữa thời gian việc được kể thực sự xảy ra và thời gian kể câu chuyện. Sự phân tách rạch ròi đó, sự biết rằng dù sao đó cũng là việc đã xảy ra rồi có lẽ chính là một phần tạo nên thứ cảm giác “bình tĩnh đến kì lạ” ấy.

Những cái tên, người kể chuyện, sự chắc chắn và không chắc chắn

Đọc Những người đàn ông không có đàn bà, đôi chỗ tôi không thể tránh khỏi cảm giác “biết tỏng như thế rồi” khi bắt gặp những chi tiết quen thuộc thường xuyên lặp lại trong truyện của ông. Cái tên Kafuku trong Drive my car, thoạt tiên khiến tôi liên tưởng ngay đến Kafka trong Kafka bên bờ biển. Tôi tin là ông đã nghĩ đến Kafka khi đặt cho nhân vật tên Kafuku. Chi tiết Misaki hỏi lại Kafuku rằng liệu Kafuku có phải họ thật của anh không cũng làm tôi nhớ đến truyện Tony Takitani, việc Tony Takitani luôn nhấn mạnh rằng đó là tên thật của anh. Thế nhưng, ngay chính giây phút nhân vật luôn nhấn mạnh rằng đó là tên thật của mình lại là lúc tôi cảm thấy câu chuyện trở nên mờ ảo hơn. Nếu như tất cả các nhân vật trong thế giới của Haruki đều chấp nhận một cái tên lạ so với người Nhật, chúng ta sẽ không còn quá băn khoăn về tính chất của cái tên nữa, tên lạ ấy mặc nhiên sẽ trở thành một hiện thực được chấp nhận trong thế giới hư cấu của ông. Nhưng Haruki không chỉ dừng ở việc gán cho nhân vật một cái tên lạ, ông còn ném vào cái tên ấy giả thuyết đó có thể là tên không thật cùng với lời khẳng định đó chính là tên thật như bất cứ tên thật nào. Có lẽ ông không muốn người đọc dễ dàng chấp nhận tên lạ như một điều hiển nhiên, người ta phải tự vấn trong một khoảnh khắc và rồi sau đó lại nhận ra thật giả cũng không quan trọng vì trong thật có giả, trong giả có thật, hệt như cách các nhân vật của Haruki trao đổi thông tin cho nhau vậy: luôn có một điều gì đó không chắc chắn trong thái độ chắc chắn và một điều gì đó chắc chắn trong thái độ không chắc chắn.

Ở tập truyện ngắn này, một lần nữa người đọc lại có thể thấy hình bóng Haruki rõ ràng qua hai truyện ngắn: Yesterday, Cơ quan độc lập. Trong hai truyện ngắn này đều có chung một nhân vật là nhà văn Tanimura. Ngay từ cái tên, Tanimura cũng dễ khiến người đọc liên tưởng đến ông – Murakami do cùng có điểm tương đồng là ‘Mura’. Điều này cũng tương tự với lối chơi chữ mà ông từng xây dựng cho nhân vật nhà văn Makimura Hiraku (gần giống với Murakami Haruki) trong Nhảy Nhảy Nhảy. Trong cả hai truyện mà Tanimura xuất hiện, nhân vật này đều đóng vai trò là người kể chuyện ngôi thứ nhất nhưng dường như lại nằm bên lề câu chuyện (Cơ quan độc lập), hoặc chỉ là người đóng vai trò trung gian để làm nổi bật nhân vật khác (Yesterday). Điều này khiến tôi nhớ đến cách kể chuyện của Haruki trong Người tình Sputnik. Người tình Sputnik, nhân vật tôi cũng không phải là nhân vật chính và chỉ đơn thuần đóng vai trò kể chuyện lại. Lối kể chuyện này không phải là hiếm hay mới mẻ nhưng trong trường hợp của Haruki, tôi nhận thấy ông ít khi kể chuyện theo lối này. Ông thường kể theo ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba, có thể đơn tuyến hay đa tuyến. Việc chọn ngôi thứ nhất để kể lại câu chuyện của những nhân vật ở ngôi thứ ba khiến tôi tự hỏi liệu việc này có phải là biểu hiện cho sự tương tác nhiều hơn giữa ông và những người xung quanh không? Ông đã tìm được mối liên kết vững chắc hơn với họ và bây giờ ông cúi mình xuống, lắng nghe những câu chuyện của họ. Đó là điều mà tôi chỉ mới nhận thấy trong tập truyện ngắn Những người đàn ông không có đàn bà, là điều mà tôi nghĩ rằng đó là sự thay đổi nơi ông.

Cuộc đối thoại ấm áp trong thế giới còn nhiều điều phải học

Ngoài ra, các truyện ngắn trong Những người đàn ông không có đàn bà còn có một điểm chung khiến tôi lưu ý: mật độ đối thoại. Ngoại trừ Kino, Những người đàn ông không có đàn bà có ít đối thoại, sáu truyện ngắn còn lại đều dành rất nhiều dung lượng cho đối thoại giữa các nhân vật với nhau (Yesterday, Drive my car, Cơ quan độc lập) hoặc đôi khi người đọc còn có thể nhận thấy chính mong muốn được đối thoại lại là thứ thúc đẩy câu chuyện diễn tiến (Scheherazade, Samsa đang yêu). Điều này không làm tôi thấy khó chịu, ngược lại tôi còn thấy vui. Trong nhiều tác phẩm trước đây của Haruki, các nhân vật cô đơn thường hay chọn sự im lặng; những khi đối thoại với nhau, họ ít nói ra điều mình hoang mang; những khi gặp biến cố lớn, phản ứng của họ thường là im lặng hoặc biến mất. Nhưng trong Những người đàn ông không có đàn bà, tôi nhận thấy các nhân vật của Haruki bây giờ dù vẫn cô đơn nhưng họ đã chịu cởi mở hơn với số ít những người gắn bó trong thế giới của họ. Cuộc đối thoại giữa Kafuku và Misaki, giữa Tokai và Tanimura, giữa Samsa và cô gái lưng gù là những cuộc đối thoại khiến tôi cảm thấy vui và ấm áp nhiều nhất trong tập truyện ngắn này. Bởi lẽ tôi nghĩ đó là những cuộc đối thoại không phải lúc nào cũng có thể dễ dàng bắt gặp trong các tác phẩm của Haruki, đó là những cuộc đối thoại giữa hai con người tưởng chừng không có chút điểm nào chung nhưng thông qua việc trò chuyện cùng nhau, họ trở nên cởi mở với nhau hơn, chân tình với nhau hơn và dù ít, dù nhiều, họ nhận lại được sự đồng cảm nơi người kia. Những cuộc đối thoại như thế cho tôi cảm giác rằng Haruki ngày nay đã vững vàng hơn rất nhiều trong niềm tin dành cho con người, ông không còn dễ dàng để mọi thứ mong manh trôi qua trong sự hoài nghi và im lặng nữa. Samsa đã rất mạnh mẽ bày tỏ mong muốn được gặp lại cô gái lưng gù dù còn nhiều điều trong thế giới này anh chưa hiểu và cần phải học nhưng anh đã biết rõ điều mình mong muốn. Tôi tin rằng anh sẽ có thể gặp lại cô gái ấy. Và tôi tin rằng Haruki cũng đang tiến gần hơn đến những câu trả lời mà ông luôn tìm kiếm. Nhưng kể cả không tìm được, có lẽ bây giờ ở khía cạnh nào đó ngay cả chính những câu hỏi cũng khiến ông hạnh phúc với tâm thế như một người vẫn còn đang học hỏi về thế giới. Có lẽ giống như Samsa vậy. Có lẽ đó không còn là sự đau khổ và tạm chấp nhận giống Toru ngày xưa nữa. Tôi tin là như thế. Có lẽ.

Hết.

Kodaki


Muôn màu của Haruki Murakami




Phía sau trang sách

Thế giới nội tâm u uẩn của những người phụ nữ dưới ngòi bút Dazai Osamu

Published

on

Thường người ta vẫn nghĩ rằng có phụ nữ mới hiểu nhau. Ít khi nào mà một người đàn ông có thể hiểu rõ chân tơ kẽ tóc người phụ nữ, đặc biệt là những rung động thầm kín tế vi hay những khát khao mãnh liệt. Trong chừng mực nào đó, một Don Juan hay Casanova có thể trở thành bậc thầy trong việc am hiểu tâm lý người phụ nữ để chinh phục, ghi dấu tình trường. Nhưng đặt mình vào thế đứng, vị trí của những người phụ nữ để cùng họ đồng cảm, đấu tranh vượt lên trên số phận đến mức viết được những tác phẩm kinh điển thì những văn hào đó chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Ta có thể kể đến Nguyễn Du khi sáng tác “Đoạn trường tân thanh” (Truyện Kiều), Tào Tuyết Cần viết “Hồng lâu mộng”, Gustave Flaubert viết “Bà Bovary”, Tolstoy viết “Anna Karenina” và Dazai Osamu khi viết “Tà dương” hay “Nữ sinh”.

Dazai Osamu (1909-1948) là một nhà văn nổi tiếng của văn học Nhật Bản hiện đại. Kiệt tác “Thất lạc cõi người” của ông đã trở thành tác phẩm bán chạy nhất trong lịch sử văn học Nhật Bản với hơn mười triệu bản in. Tuy cuộc đời 39 năm ngắn ngủi của Dazai trải qua nhiều nỗi bi kịch với năm lần tự sát, nghiện thuốc giảm đau, ly dị vợ…nhưng tác phẩm của ông luôn chan chứa cái nhìn ấm áp trân trọng về những người phụ nữ. Những tác phẩm xuất sắc của Dazai như “Thất lạc cõi người”, “Tà dương”, “Người vợ Villon” mà chúng tôi dịch là “Vợ gã hoang đàng” đều được dựng thành phim. Trong đó “Nhân gian thất cách” (Thất lạc cõi người) đã được nhiều lần chuyển thể điện ảnh. Vì đây là tiểu thuyết tự thuật về cuộc đời Dazai nên thường cuộc đời Dazai được lồng ghép vào trong phim. Mới đây nhất bộ phim “Nhân gian thất cách và 3 người đàn bà trong cuộc đời Dazai” (人間失格 太宰治と3人の女たち) do nam diễn viên Oguri Shun đóng vai chính mới được công chiếu vào tháng 9 năm 2019 đã gây một làn sóng đồng cảm với Dazai trên toàn cõi Á Châu.

Như chúng tôi đã nhận định trong bài “Mưa trên thánh giá” (Lời tựa cho “Nữ sinh” lần tái bản thứ sáu, Nxb Hội nhà văn và Công ty Sách Phương Nam, trang 9):

“Con chim trước khi bay vào khu rừng sâu âm u hoang phế trong ánh chiều tà sắp tắt còn để lại một tiếng kêu thương ngân dài. Dazai đúng là như vậy. Từ mảnh tàn dư của văn chương vô mệnh (“Độc tiểu thanh ký” của Nguyễn Du “chi phấn hữu thần liên tử hậu, văn chương vô mệnh lụy phần dư”), cả một thế giới nội tâm u uẩn hiện ra không riêng gì Dazai mà của cả tinh thần Nhật Bản. Những người phụ nữ trong tác phẩm của ông từ thiếu nữ mười bốn tuổi nhẫn nhục cam chịu rồi phản kháng đến những người phụ nữ trung niên vẫy vùng giữa buổi tà dương đều không thoát ly khỏi dòng lịch sử với những buộc ràng thân phận gần như đến mức phi nhân. Với chính bản thân Dazai nữa, công cuộc sinh tồn đã là một trường đấu tranh mà để sống còn được đã là một chiến công hiển hách. Nhưng niềm trân trọng cùng sự xót xa thương cảm của Dazai đưa vào văn chương đã làm cho những dáng hình bé nhỏ kia và chính mình trở nên bất tử. Đó cũng chính là ân sủng của đau thương dành cho một đời văn ngắn ngủi. Nỗ lực âm thầm và đầy đau đớn của Dazai đã làm chúng ta nhận ra cả tiếng dế hắt hiu vọng lên từ xương cốt, những tiếng thét gào nhẫn nhục trong đêm câm, những giọt rượu mềm môi chát đắng và những giọt lệ nhỏ trên máu xương đều là lời ru ngọt của đoạn trường”.

Ngoài tiểu viết tiểu thuyết tự thuật (tư tiểu thuyết – 私小説) miêu tả trải nghiệm cá nhân, Dazai còn nổi tiếng về những tác phẩm xuất sắc miêu tả tâm lý và khắc họa tâm tình thời đại của người phụ nữ, từ một cô bé nữ sinh đến một người vợ đảm của nhà thơ nghèo. Tất nhiên không có một tác phẩm hư cấu nào gây đồng cảm và kinh ngạc cho độc giả mà không dựa vào trải nghiệm có thật. Như tác phẩm “Nữ sinh” được sáng tác dựa trên nhật ký của một độc giả nữ tên là Ariake Shizu (lúc bấy giờ 19 tuổi) gửi cho Dazai vào tháng 9 năm 1938, Dazai đã viết lại thành một truyện vừa nói về biến chuyển nội tâm của một nữ sinh 14 tuổi gói gọn trong vòng một ngày từ lúc thức dậy đến khi đi ngủ. Tâm lý bi quan trầm uất của một thiếu nữ tuổi dậy thì được ngòi bút xuất sắc của Dazai khắc họa bằng một văn phong vô cùng tinh tế. Ngay cả văn hào Kawabata Yasunari (người được giải thưởng Nobel văn chương đầu tiên của Nhật Bản với các kiệt tác “Xứ tuyết”, “Ngàn cánh hạc”, “Cố đô”…) cũng không tiếc lời khen ngợi. Và chính nhật ký của Ariake cũng đã trở thành một tư liệu văn học quý và được trưng bày tại bảo tàng văn học cận đại Aomori vào tháng 2 năm 2000. Cô bé nữ sinh trong tác phẩm vẫn mơ ước sống một cuộc đời đẹp đẽ mặc dù bắt đầu dần dần nhận thấy cuộc đời có nhiều cảnh trái ngang. “Cái lối giáo dục đạo đức ở trường lớp với những luật lệ của cuộc đời này vốn khác nhau quá xa, mà tôi biết rằng dần dần sự khác biệt này còn trở nên rộng lớn hơn nữa. Nếu như tuyệt đối tuân thủ theo những bài học đạo đức ở trường người đó sẽ bị xem là kẻ ngu ngốc lập dị, không thể thành đạt và trở nên bần cùng…Tôi muốn cái thứ đạo đức này nhanh chóng thay đổi. Nếu được vậy thì tôi sẽ không còn phải đê tiện và sống nhỏ giọt từ ngày này qua tháng khác không phải vì mình mà để chiều lòng người”…Đến tận bây giờ câu nói này vẫn gợi cho chúng ta suy ngẫm nhiều điều về giáo dục, nơi cách biệt giữa giáo điều và thực tiễn ngày càng sâu xa hơn.

Tà dương” được bình chọn là tác phẩm hay nhất của văn học Nhật Bản viết về thời hậu chiến nói về một gia đình quý tộc sa sút và sự can đảm đấu tranh để sống còn. Người mẹ quý tộc chết đi như chấm dứt tất cả sự đẹp đẽ của thời vàng son dĩ vãng. Chỉ còn lại Naoji ngập ngụa trong sự tự hủy lưu đày để cố gắng xóa nhòa đi cốt cách quý tộc nơi mình nhưng cuối cùng cũng phải tự sát vì “cuối cùng em vẫn là quý tộc”. Chỉ riêng Kazuko khi thức tỉnh rằng “con người được sinh ra vì tình yêu và cách mạng” mới quyết tâm sinh con với nhà văn Uehara, can đảm sống tiếp dù chỉ là một “nạn nhân” trong thời đại mới. Trong bức thư cuối cùng gửi Uehara, Kazuko đã viết: “Cuối cùng em đã hiểu tại sao có hòa bình, chiến tranh, các nghiệp đoàn, thương mại, chính trị trong cuộc đời này. Chắc là ông không biết đâu, phải không? Vì thế mà ông cứ bất hạnh mãi. Để em nói cho ông biết nhé. Đó là vì phụ nữ đẻ ra những đứa con ngoan”.

(Tất cả những trích dẫn được lấy từ tác phẩm “Tà dương” và “Nữ sinh” của Dazai Osamu, Hoàng Long dịch, nxb Phương Nam tái bản năm 2023 và 2024.)

Những đứa con ngoan đó chăm chỉ học hành trở thành những người con ưu tú của gia đình và dân tộc. Chính người con ngoan đó mới trở thành chính trị gia, nhà kinh doanh lỗi lạc và rồi từ đó chiến tranh, các cuộc chiến thương mại châm ngòi cho máu xương và hoang tàn đổ nát trên mặt đất này. Từ đó mặt đất chỉ còn đầy “nạn nhân”. Những người như Uehara tuy phóng đãng mà vô hại. Một đứa con ngoan nào đó có thể trở thành tội đồ cho cả nhân gian. Biết làm sao mà nói. Cuối cùng như nữ nhà văn Kakuta Mitsuyo trong bài cảm nhận về tác phẩm “Tà dương” đã phải thở than “đúng là cuộc đời này không có đạo lý nào cả”. Câu nói của Kazuko thật táng đởm kinh hồn, đủ khiến cho bao nhiêu tư tưởng gia phải ôm đầu xiểng liểng. Cái niềm kiêu hãnh ngất trời đó thật đúng là một bài ca nữ quyền chói lọi.

Bộ phim “Tà dương” với nữ diễn viên Miyamoto Mayu đóng vai Kazuko

Độc giả lúc mới đọc tác phẩm của Dazai thường cảm thấy sự suy sụp tự hủy và nhu nhược ủy mị. Có lẽ vì cái bóng quá lớn của đời tư được phản ánh trong “Thất lạc cõi người” đã khiến chúng ta trở nên thiên kiến. Nhưng khi đã đủ trải nghiệm cuộc đời để bình tâm đọc lại chúng ta sẽ nhận ra được hai điều cốt tủy.

Thứ nhất là tuy cuộc đời đầy đau thương và nhiều lần tìm đến cái chết nhưng tác phẩm của Dazai luôn mạnh mẽ đến mức ngạc nhiên. Như nhà văn Kakuta Mitsuyo đã nhận ra lúc mới đọc thì thấy có vẻ ủy mị yếu đuối nhưng khi đã từng trải đọc lại đều thấy tê người. Như câu kết truyện “Vợ gã hoang đàng”: “Nửa người nửa ngợm cũng không sao. Miễn mình còn sống là được rồi anh ạ”*. Câu nói này phải chăng hàm nghĩa dù bị đày đọa đau thương, dù nhân gian chối bỏ thì cuối cùng sự sống còn luôn là một chiến công hiển hách, đầy kiêu hãnh phẩm giá mà những con người yếu đuối tuyệt đối không thể hình dung.

(*Nguyên văn “人非人でもいいじゃないの。私たちは、生きていさえすればいいのよ”. Từ “nhân phi nhân” (人非人) nghĩa là tuy mang hình dáng con người nhưng đi chệch khỏi con đường làm người, nửa người nửa ngợm, không có phẩm giá con người)

Phim “Vợ gã hoang đàng” với nữ diễn viên Takako Matsu đóng vai chính

Như câu thơ của Ibaraki Noriko, một nhà thơ nữ Nhật Bản:

Cho dù vấp ngã bao lần

Tôi cũng phải tiếp tục sống

Dù không biết vì sao

Nhưng sống mới có thể bênh vực loài đang sống

この失敗にもかかわらず
私もまた生きてゆかねばならない
なぜかは知らず
生きている以上 生きものの味方をして

Thứ hai là tác phẩm của Dazai luôn khắc họa vẻ đẹp tâm hồn những người phụ nữ Nhật Bản với lòng trân trọng cảm thông. Điều lạ lùng là tất cả những nhân vật nhà thơ, họa sĩ, nhà văn trong tác phẩm Dazai vốn là những kẻ được trời ban cho khả năng thiên phú tìm kiếm cái đẹp và sống vì nó thì lại hết sức tầm thường dung tục, ham luyến hư danh còn những người phụ nữ của họ thì lại vô cùng đẹp đẽ dù trong hoàn cảnh giản dị hay cao sang. Trong “Tà dương” Naoji đã nhìn thấy nét đẹp dịu dàng đời thường của vị phu nhân họa sĩ “Bầu trời chiều mùa đông Tokyo xanh ngắt, nàng ôm con gái ngồi bên cửa sổ như chẳng để làm gì. Cái gương mặt nghiêng nghiêng đoan chính với những đường nét thanh tú nổi bật lên nền trời, đẹp như một bức tranh chân dung thời Phục Hưng”. Ngoài ra cung cách hành xử của người vợ của nhà thơ Otani trong truyện “Vợ gã hoang đàng” lúc nghe tin chủ quán rượu đến đòi nợ, khi đút khoai cho con ăn nơi chiếc ghế đá sứt mẻ bên bờ ao công viên Inokashira cho đến khi trả hết nợ và chờ chồng mình trở về hay phu nhân của nhà văn trong tác phẩm “Một ngày trọng đại”, vợ của ký giả trong truyện “Người vợ”…đều được khắc họa cao quý vô song. Đặc biệt là người vợ họa sĩ trong tác phẩm “Tiếng dế nỉ non” đã không chịu nổi sự thay đổi biến chất vì hư vinh của chồng mình đã quyết tâm chia tay “Vì em cảm thấy rằng tự sát chính là thứ tội lỗi ghê gớm nhất cho nên em nghĩ sau khi chia tay anh mình sẽ cố gắng sống thử cách sống mà mình cho là đúng đắn một thời gian xem sao. Anh làm cho em hãi sợ. Có lẽ trên thế gian này, cách sống của anh là đúng đắn đấy. Tuy nhiên em không thể nào tiếp tục sống như vậy được nữa”.

Tại sao những người phụ nữ trong tác phẩm của Dazai lại đẹp đến thế? Có lẽ vì trong sâu thẳm tim mình họ luôn có một thứ ánh sáng dù hiu hắt chiếu soi, trong tâm tư mình có một tiếng lòng đẹp đẽ không bao giờ tắt đi bất chấp hoàn cảnh, thời đại. Như câu kết của tác phẩm “Tiếng dế nỉ non”:

Khi em tắt đèn nằm ngửa nhìn lên trần nhà thì nghe dưới lưng em có tiếng dế kêu rền rĩ. Tiếng dế kêu ở dưới hành lang bên ngoài nhưng nghe vang vọng ngay từ dưới lưng em khiến em cảm thấy tiếng dế như nỉ non từ trong xương sống của em vậy. Em định sẽ sống cả đời với tiếng kêu hiu hắt nhỏ bé kia cất giữ mãi trong xương cốt. Có lẽ trên thế gian này, anh đã làm đúng còn em mới là người sai chăng? Thế nhưng em lại không biết mình sai ở đâu, sai như thế nào và tại sao mình sai nữa”.

Có lẽ cuộc đời này không có đúng sai. Chỉ có những gã đàn ông dung tục, những đứa con ngoan và những người phụ nữ đẹp đẽ đang cùng nhau tranh đấu và sống theo kiểu của riêng mình thôi chăng? Không có một đáp án chung cho tất cả mọi người. Như thế chúng ta phải dùng chính đôi mắt của mình để phân biệt giá trị xem điều gì là phù hợp hay không phù hợp. Từ đó mà tiếp tục hiên ngang sống. Sự mạnh mẽ quyết đoán đó ngạc nhiên thay lại toát ra từ những con người nhỏ bé, yếu đuối, “dù biết thua cuộc nhưng vẫn không ngừng đấu tranh”.

Đó có lẽ là điều Dazai Osamu muốn gửi gắm qua tác phẩm.

Và độc giả chúng ta cũng cần đọc kỹ để tìm ra những câu văn ngời sáng chứa đựng tiếng lòng đẹp đẽ của những người phụ nữ nói riêng và thân phận con người nói chung để khích lệ chính mình bước tiếp. Ý chí sống truyền đời đó sẽ không bao giờ tắt nghỉ và chỉ duy nhất văn chương mới có thể gọi tên. Ngay cả trong thời đại công nghệ thay đổi chóng mặt, thách thức và cải hoán các giá trị cũ hôm nay, khi con thuyền cuộc đời chới với biển sâu thì chúng ta vẫn luôn có thể tìm thấy ánh sáng niềm tin nơi ngọn hải đăng từ những tác phẩm văn học chân chính.

Sài Gòn, ngày 6/3/2025

Hoàng Long

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Có một thời ở Chợ Lớn: Những gam màu ký ức

Published

on

Có một thời ở Chợ Lớn là một trong hai tác phẩm mới nhất của nhà báo Phạm Công Luận do Phương Nam Book liên kết xuất bản dịp năm mới Ất Tỵ 2025. Chỉ một thời gian ngắn sau khi phát hành, sách sớm nhận được tình cảm của độc giả và lọt vào top sách bán chạy trong tuần tại Nhà Sách Phương Nam. Bên cạnh bản thân tác giả Phạm Công Luận, góp phần vào sự thành công của Có một thời ở Chợ Lớn không thể không kể đến họa sĩ Phạm Công Tâm với nhiều hình ảnh minh họa đẹp và đầy tinh tế, cũng như đội ngũ Phương Nam Book đã biên tập, thiết kế nhằm đưa tác phẩm đến tay độc giả theo cách chỉn chu nhất.

Chịu trách nhiệm thiết kế bìa và trình bày sách Có một thời ở Chợ Lớn là họa sĩ t.hờ. Trong bài phỏng vấn hôm nay, Bookish sẽ cùng anh t.hờ chia sẻ với bạn đọc về quá trình "lên đồ" cho Có một thời ở Chợ Lớn cũng như những câu chuyện bên lề thú vị trong quá trình sản xuất cuốn sách này.

  • Bookish: Anh có thể chia sẻ điều gì đã dẫn đến quyết định lựa chọn hình ảnh chùa Ôn Lăng và chợ Bình Tây làm ảnh bìa sách ở 2 phiên bản bìa mềm và bìa cứng?

Họa sĩ t.hờ: Nhắc đến Chợ Lớn, chắc hẳn 9 trên 10 người trong chúng ta sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh của chùa bà Ôn Lăng và chợ Bình Tây – hai công trình kiến trúc đặc trưng nhất của mảnh đất Chợ Lớn Sài Thành.

Đối với chùa bà Ôn Lăng, đây có thể coi là công trình mang đậm nét đặc trưng của kiến trúc Trung Hoa nhất giữa lòng Sài Gòn. Không chỉ là nơi chiêm bái của người dân địa phương và du khách gần xa, chùa bà Ôn Lăng còn là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa và tôn giáo như lễ hội Đoan Ngọ, lễ hội Trung Thu, lễ hội Thanh Minh, lễ hội Tết Nguyên Đán,… Chùa bà Ôn Lăng là một trong những ngôi chùa có ý nghĩa lịch sử và văn hóa quan trọng của Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và mảnh đất Chợ Lớn nói riêng.

Còn về chợ Bình Tây, đây không chỉ là một ngôi chợ sở hữu lối kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ấn văn hoá Á Đông của người châu Á ở đất Sài Thành, mà còn là nơi được biết tới là nơi trao đổi đồ cổ và buôn bán sỉ lớn nhất của người dân gốc Hoa ở Chợ Lớn. Dù hiện tại chợ Bình Tây đã có nhiều sự thay đổi về cơ sở hạ tầng nhưng những giá trị tinh thần, lịch sử và văn hoá vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay.

Chính vì lẽ đó, chùa bà Ông Lăng và chợ Bình Tây đã được mình chọn lựa để đưa lên 2 phiên bản bìa của Có một thời ở Chợ Lớn.

  • 2 ấn bản bìa mềm và bìa cứng có sự khác biệt gì về hình ảnh minh họa trong sách không?

Để đảm bảo sự chính xác về thông tin của các bài viết thì phần hình ảnh và nội dung bên trong của 2 phiên bản không có gì thay đổi.

  • Liệu có ẩn ý nào phía sau việc sử dụng 2 tông màu nóng - lạnh cho 2 phiên bản bìa sách?

Nhắc đến Chợ Lớn, người ta sẽ nghĩ ngay đến những tone màu rực rỡ như chính sắc màu chủ đạo trong cuộc sống của người dân nơi này – màu đỏ rực của những chiếc đèn lồng gốc Hoa, màu đỏ thẫm của những lớp mái ngói vươn màu thời gian hay màu đỏ tươi của những chú lân trong các lễ hội,… Bên cạnh đó, ta không thể không nhắc tới sắc vàng của những bức tường vững chải chạy dọc các con phố, của những món đồ trang trí bóng bẩy mỗi dịp Tết đến xuân về.

Thế nhưng, không vì thế mà Chợ Lớn vắng đi những phút giây lắng đọng. Dạo quanh Chợ Lớn, người ta vẫn có thể dễ dàng bắt gặp những tòa chung cư lâu đời trên đại lộ Trần Hưng Đạo hay từ chính trong nét kiến trúc phương Đông được tạo nên từ kỹ thuật xây dựng của Tây phương trong lối kiến trúc độc đáo của ngôi chợ Bình Tây xuất hiện trên bản bìa mềm.

  • Có câu chuyện ngoài lề nào thú vị trong quá trình thiết kế cho cuốn sách này mà anh ấn tượng không?

Mình cho rằng đó là một “bài học” thú vị nhiều hơn.

Như các bạn cũng biết, trước khi “Có một thời ở Chợ Lớn” ra đời, tác giả Phạm Công Luận đã từng cho ra mắt một quyển sách cùng chủ đề đó là “Hồi ức Phú Nhuận”. Do cả 2 quyển một chủ đề nên với vai trò là người thiết kế bìa cho cả hai, mình mong muốn tạo được nét tương đồng trên bìa khi 2 quyển sách được đặt cạnh nhau để nhấn mạnh “tính chất văn hóa” của 2 quyển sách này. Chính vì vậy, mình đã chủ đích đem cái gần gũi, thân thương nhưng cũng mang trong mình những lắt cắt lịch sử mà mình từng thể hiện trong bìa của”Hồi ức Phú Nhuận” mang vào quyển “Có một thời ở Chợ Lớn” lần này.

Nhưng rồi mình nhận ra, mỗi vùng đất sẽ mang trong mình một vẻ đẹp riêng. Nếu như Phú Nhuận là mảnh đất của những ký ức tuổi thơ thân thương, của những giai kỳ hào nhoáng của một Sài Thành hoa lệ, thì Chợ Lớn sẽ là những đất của những khu mua sắm xa hoa, của những quán ăn nức tiếng, và của sự hào sảng, phóng khoáng của người dân Chợ Lớn Sài Gòn.

Vậy nên, mình cho rằng đó là bài học mình của bản thân mình: Để nhấn mạnh, nếu không thể tương-đồng thì chúng ta có thể chọn tương-phản.

Bookish xin cảm ơn họa sĩ t.hờ vì đã dành thời gian chia sẻ. Chúc anh nhiều sức khỏe và đạt được thành công trong năm mới Ất Tỵ 2025.

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Cafe sáng