Trà chiều

Rừng Na Uy (2010)

Published

on

Nếu như mọi thứ trong cuộc sống này vụt khỏi tầm với quá nhanh thì người ta phải làm như thế nào?

Đặc biệt là khi những thứ ấy có tiến trình lướt qua chúng ta một cách chậm chạp. Chỉ khi đến điểm cuối cùng của giai đoạn biến mất chúng mới thật đột ngột.

Làm sao để nhận biết bước ngoặt?
Làm sao để giữ lại…
Hay là cứ để tất cả biến mất?

Sự biến mất thuộc về lẽ tự nhiên hay là vì ta đã không biết cách giữ nó lại?

She told me she worked in the morning and started to laugh
I told her I didn’t and crawled off to sleep in the bath
And when I awoke I was alone this bird had flown

Sự biến mất của một người trong cuộc đời ai đó lẽ nào lại có thể đơn giản như thế?

Đơn giản là thế nhưng…

Khi nghĩ về phim Norwegian Wood, điểm khác biệt với tiểu thuyết mà người ta dễ nhận ra nhất là hướng thời gian câu chuyện diễn ra. Phim bắt đầu bằng ngay thời điểm thực tại chứ không phải là sau đó nhiều năm để có điểm lùi cho nhân vật Toru hồi tưởng. Tuy nhiên, với tôi, dù bắt đầu câu chuyện một cách trực diện, kể bằng thời gian tuyến tính, Trần Anh Hùng vẫn cho tôi có cảm giác đây là câu chuyện đang diễn ra trong tâm tưởng. Lí do là vì những cảnh đầu tiên của phim, khi Kizuki, Naoko, Toru bên nhau, rất nhiều hình ảnh lướt qua nhanh và trong những hình ảnh ấy không có thoại, chỉ có tiếng độc thoại nội tâm của Toru. Làm như thế rất dễ cho người ta có cảm giác đây là sự hồi tưởng của Toru. Nhưng đạo diễn đã dùng góc quay rất khéo để lái người xem sang một cảm giác khác. Ở những hình ảnh khi ba người bên nhau, bao giờ Toru cũng cách Naoko và Kizuki một khoảng nhất định. Đặc biệt có góc máy bắt đầu xuất hiện với hình ảnh Naoko, Kizuki đứng dưới một tán cây. Góc máy đứng ở đó một vài giây khá lâu khiến tôi lầm tưởng chỉ có Naoko và Kizuki ở khung cảnh này. Nhưng rồi sau đó, máy nhẹ nhàng pan qua bên trái một chút và ta thấy Toru. Tiếng độc thoại nội tâm của Toru vẫn luôn vang lên từ lúc bắt đầu khung hình cho đến khi xuất hiện động tác máy đó. Cảm giác này rất khác với hồi tưởng. Nó cho tôi cảm giác Toru vừa chăm chú quan sát hai người bạn của mình nhưng đồng thời vẫn luôn tự tách mình ra với những dòng suy nghĩ miên man. Chỉ vài góc quay và thủ pháp V.O đơn giản thôi nhưng nó giúp ta nhanh chóng cảm nhận được sự cô đơn của Toru. Thế giới của Naoko và Kizuki dường như luôn lẩn khuất một điều gì đó mà anh không thể thâm nhập vào được.

Những cảnh khi ba người bên nhau không có thoại mãi cho đến khi cảnh Toru và Kizuki chơi bida với nhau mới xuất hiện thoại. Nhưng thêm một điều nữa ở đây lại khiến tôi lưu tâm là: hai người chơi bida nhưng đạo diễn không hề quay xuống cái bàn bida. Thông thường thì người ta cũng ít nhất quay một, hai lần góc cận cảnh cái bàn với những viên bi đang lăn. Nói một cách khái quát là quay như thế nào đó để người xem hình dung được diễn tiến của ván bida. Tôi nghĩ điều này cũng cần thiết vì đây là hôm cuối cùng Toru gặp Kizuki. Trong truyện Haruki đã miêu tả những ám ảnh của Toru về lần gặp định mệnh với người bạn thân này một cách kĩ càng. Vậy mà Trần Anh Hùng cũng chỉ lướt qua trận đấu đó một cách nhẹ nhàng. Giống như thể đó chỉ là một ngày bình thường. Nhịp sống trôi đi như nó vốn dĩ. Cảnh Kizuki tự sát cũng vậy. Một cú máy dài từ ống dẫn khí màu đỏ nằm ở dưới sàn nhà lên đến bên trong chiếc xe. Sau đó máy đổi góc và cố định góc nằm ở ngoài chiếc xe một khoảng thời gian dài. Kizuki bật máy khởi động xe, khói từ từ bốc lên. Anh nhào từ băng ghế đằng trước ra băng ghế đằng sau. Đến lúc này máy mới đổi quay một góc trung cận khuôn mặt của Kizuki. Ba góc quay duy nhất cho một cảnh như thế. Và trong suốt chiều dài của bộ phim, Trần Anh Hùng vẫn trung thành với phong cách của mình từ trước: ít đổi góc máy, ông chọn thật kĩ lưỡng một góc và giữ nó cố định. Cái hay của ông là tuy ít đổi góc nhưng không làm cho người xem cảm thấy chán nản. Vì những góc máy mà Trần Anh Hùng chọn đều đem lại cho người ta một suy nghĩ nào đó. Tôi vẫn chưa hiểu hết ý nghĩa trong cái chi tiết ông cho Kizuki chết ở băng ghế sau xe. Tại sao phải có nó? Tại sao anh không ngồi nguyên ở vị trí ngay sau vô lăng của xe và chết? Góc quay phần nào gợi mở giúp tôi một chút cảm giác mơ hồ. Ba góc máy trong cảnh đó đều là ở ngoài khung kính của xe, không có góc nào là máy quay ở ngay trong xe cả. Nó giống như sự tách biệt của Kizuki với thế giới bên ngoài vậy. Hình ảnh chiếc vô lăng và vị trí ngồi ngay sau đó cho người ta có cảm giác người đó làm chủ được cuộc sống của mình, có thể dẫn dắt nó đi theo hướng mà mình muốn. Tôi có cảm giác như ngay từ đầu khi tự sát, Kizuki cũng không có ý niệm là phải ngồi chết đằng sau xe. Hành động đó giống như đến một cách vô thức với anh khi đang trong quá trình kết liễu sự sống của mình. Vị trí ở sau xe có gì đó thật thụ động và mệt mỏi. Vì người ngồi đằng sau đã bỏ đi tất cả, mặc cho người phía trước/cuộc đời chở/đưa đẩy mình đến đâu cũng được. Ở đoạn đối thoại lần cuối cùng giữa Hatsumi và Toru cũng diễn ra ở băng ghế sau của chiếc xe hơi. Chiếc xe cứ chạy chầm chậm và ta cũng không thấy có người lái. Có một điều gì đó tương đồng ở đây. Nhất là khi Hatsumi mệt mỏi ngả đầu vào ghế và nhắm mắt lại. Đó cũng là cách mà Kizuki đã buông xuôi tất cả. Góc máy dừng lại ở vị trí ngay cổ của cô rất lâu khiến người xem cảm thấy khó hiểu một chút. Nhưng rồi cảm giác đó chuyển thành nỗi bất an khi người ta nghe lời kể của Toru rằng sau này cô cũng tự sát.

Bên cạnh những cú long-take, cho máy trượt dài theo chuyển động nhân vật vốn thường thấy trong phim của Trần Anh Hùng, ở Norwegian Wood còn có những khuôn hình tĩnh, tuy trôi qua đơn giản như nhịp sống bình dị nhưng nó luôn ẩn chứa một chi tiết nào đó. Chi tiết ấy tuy nhỏ, xuất hiện thoáng qua rất nhanh trên khuôn hình như hình ảnh con nhện giăng tơ sau khi Kizuki mất, hình ảnh những đóa xương rồng… nhưng nó có một sự sống. Sự sống ấy nằm khuất sâu bên trong chờ đợi ta hé mở.

Mark Lee Ping Bin và những chuyến đi

Trong In the Mood for Love của đạo diễn Vương Gia Vệ, tôi rất thích những góc quay hẹp và dolly theo nhân vật của Lee Ping Bin. Ở Norwegian Wood, những góc quay tương tự như thế lại xuất hiện.

Tôi thích cách ông quay cảnh đi bộ giữa Toru và Naoko, giữa Toru và Midori. Ở cảnh quay đi bộ giữa Toru và Naoko, máy chạy song song rất nhanh với hai người và thường xuyên lẩn khuất trong những tán lá cây xanh. Có những khoảnh khắc chẳng thấy Toru và Naoko đâu, chỉ có màu xanh biếc của cây. Thế rồi hai người lại bất chợt hiện ra khi hết một khoảng màu xanh nào đó. Máy quay chao rất mềm mại ở đoạn hai người từ những bụi cây đi qua một cây cầu bắc ngang, để cuối cùng từ hướng nhìn nghiêng, máy chuyển sang quay sau lưng Naoko góc hơi cao hơn khuôn mặt cô một chút và máy quay chếch xuống. Naoko ngỡ ngàng: “Đây là ở đâu?”. Tôi thật sự thích sự di chuyển của máy quay ở phân đoạn đó, nó khiến người ta cũng rơi vào tâm trạng hoang mang giống như Naoko. Cứ bước đi mà chẳng có một chút ý niệm rằng mình đang ở đâu, mình đang đi và sẽ đi đến đâu.

Toru và Midori cũng đi dạo trong công viên có những cây xanh nhưng cách quay lại khác. Máy không quay hai người theo hướng nhìn nghiêng mà quay ở phía trước. Như thế thì có cả một khoảng không gian thoáng đãng. Và lúc hai người đi cũng chẳng có những cây xanh khuất mặt.

Ngoài ra, tôi còn thích những động tác máy khác trong phim như cảnh Toru nhận được thư của Naoko và chạy trên chiếc cầu thang của kí túc xá, máy quay đảo nhiều vòng khiến người xem như được hòa vào niềm hạnh phúc của Toru; cảnh Midori gọi điện thoại cho Toru để thông báo rằng cha cô đã mất, máy quay một bên nửa khuôn mặt của cô, dường như muốn di chuyển sang nửa bên kia nhưng cuối cùng lại như… sợ và vẫn chỉ dừng lại ở nửa khuôn mặt đó. Cách quay trong Norwegian Wood có lẽ nào là một sự ẩn giấu chăng? Những cảnh người ta cần thấy góc trung và toàn để hình dung sự việc thì lại chỉ có cận (như những cảnh làm tình trong phim và một số cảnh khác), những cảnh người ta cần thấy góc cận thì lại chỉ có trung, toàn và viễn. Tôi nhớ mãi cảnh quay một buổi sáng Naoko và Toru đi dạo trong rừng. Naoko bắt đầu kể trong cái giá lạnh của bầu trời xám xanh về chuyện giữa cô và Kizuki. Rồi cô bật khóc và chạy. Toru đứng run cầm cập một đôi giây rồi vội đuổi theo cô. Tôi cứ những tưởng rằng ở đoạn ấy, sẽ là góc quay trung hay cận bám theo Toru hay Naoko. Nhưng không. Máy cứ đứng im ở đó, từ ngay vị trí mà Toru đã đứng trước khi đuổi theo Naoko. Thật lạ là chỉ một góc quay đơn giản như vậy, chỉ một việc là giữ nguyên vị trí máy như lúc đầu, để cho hai con người ấy dần dần tiến xa ra khỏi màn hình, từ góc trung thành toàn như thế, vậy mà lại khiến tôi xúc động. Tôi nhận ra cách làm này mang lại hiệu quả tốt hơn so với những góc máy mà tôi hình dung lẽ ra phải có trong đầu. Nó đã biến góc nhìn của máy quay, của một nhân vật khách quan nào đó nhìn câu chuyện cũng có cảm xúc. Cứ như thể là cả máy quay cũng sợ chạm vào những nỗi đau khuất sâu trong tâm hồn họ và nó chỉ dám đứng lặng lẽ từ xa quan sát. Đâu phải chỉ có cận cảnh rõ ràng mới cho người ta thấy được cảm xúc của nhân vật. Qua cái cách mà máy quay quan sát nhân vật rất người như thế cũng đã đủ truyền tải cảm xúc đến khán giả rồi. Tôi thật thích cách giải quyết trong tình huống này của Trần Anh Hùng hay Lee Ping Bin (tôi không biết ai trong hai người chọn giải pháp này). Không cần cận cảnh vì trung cảnh trước đó thu lại nét mặt hoang mang, giọng nói run rẩy của Naoko đã là quá đủ. Nếu lại dùng cận cảnh để tiếp tục quan sát nỗi đau ấy chẳng phải là quá tàn nhẫn hay sao?

Giọng nói của Naoko…

Naoko là một vai diễn khó vì những mâu thuẫn nội tại trong suy nghĩ của cô. Tuy nhiên, Rinko đã hoàn thành xuất sắc vai diễn này. Tôi cho rằng điểm thành công lớn nhất là nằm ở giọng nói. Rinko diễn xuất tuyệt vời đến nỗi cả giọng nói, cách nói, cách lấy hơi thở để nói, cách ngắt câu…cũng mang cả sự sống của Naoko. Chính giọng nói đã bộc lộ ra rất nhiều sự hoang mang trong tâm thức của Naoko, nỗi sợ hãi trước thế giới con người ngoài kia. Giọng cô lúc nào cũng nhỏ nhẹ, ngắt quãng, mang hơi thở nhiều hơn là âm tiết của câu chữ phát ra. Tôi đặc biệt thích diễn xuất của Rinko ở phân đoạn ngày sinh nhật của Naoko. Trong tác phẩm của Haruki, đó là một hôm mà chính Toru cũng bất ngờ vì sự mở lòng đột ngột của Naoko. Cũng không hẳn là cô có ý định mở lòng, chỉ là đột nhiên cô nói rất nhiều và không còn tự chủ được những gì mình nói nữa. Cô nói liên tục trong nhiều giờ đồng hồ liền và những câu chuyện dường như không có mối liên hệ với nhau. Trong phim đương nhiên không thể có nhiều thời gian để diễn tả trạng thái đó của cô nhưng qua cách diễn xuất và giọng nói của Rinko, dù chỉ là một vài phút, người ta vẫn hiểu và có cảm giác dường như Naoko đã nói rất nhiều trước đó đến mức mệt mỏi và bật khóc như thế kia.

Khi giọng nói trong bức thư mà Naoko gửi cho Toru vang lên tôi cảm thấy thật buồn…vì cách mà cô nói chuyện với Toru. Đã quen biết nhau ngần ấy năm trời, cô đã biết rằng Toru rất yêu thương mình, bản thân cô cũng có tình cảm với anh vậy mà cô vẫn dùng kính ngữ. Lúc nào cũng “masu”, “desu”, “kudasai”. Tại sao lại phải như thế? Tôi nhớ có đọc trong một tác phẩm nào đó, nam nhân vật chính đã hạnh phúc như thế nào khi ngày ngày, qua những cuộc điện thoại, trò chuyện, nữ nhân vật chính từ từ bỏ đi bớt kính ngữ. Điều này giống như một cách gián tiếp cô ấy cho anh ta biết rằng cô đang để anh từ từ đi vào trái tim mình. Nhưng Naoko thì không như thế. Hình như chỉ đến những giây phút cuối cùng, khi bày tỏ với Toru mong muốn rằng anh hãy luôn nhớ cô đã từng tồn tại, Naoko mới không dùng kính ngữ nữa.


Biểu cảm trong đôi mắt cũng là một thành công trong diễn xuất của Rinko. Khi Toru lần đầu tiên đến nhà nghỉ dưỡng Ami để thăm Naoko, ở góc quay cận cảnh khuôn mặt Naoko thì thầm vào tai của Toru, mắt cô lúc ấy đã chớp thật đặc biệt. Nó như theo một chu trình vòng tròn khép kín, mơ hồ, xa vắng. Khi đọc Norwegian Wood, lúc Naoko chết, tôi chỉ thấy buồn và đau nhưng không ngạc nhiên vì tôi đã nhận thức được từ trước đó rằng đây là điều tất yếu. Vậy mà khi xem phim, tôi lại không khỏi ngỡ ngàng. Có lẽ cũng chỉ vì ánh mắt của Naoko nhìn theo bóng dáng Toru dần khuất xa trong tuyết trắng ấy buồn tha thiết quá. Ánh mắt đó làm tôi nghĩ rằng cô vẫn chưa cảm thấy cuộc sống của mình đủ đầy, vẫn mong mình sẽ tiếp tục sống. Dù trước đó, bằng lí trí, tôi đã tự đặt ra cho mình vài câu trả lời về cái chết của Naoko, thế nhưng khi thấy đôi chân trần ấy lơ lửng trong tuyết, tôi vẫn không thể tránh khỏi việc tự vấn bản thân mình quắt quay rằng: “Tại sao Naoko phải chết?” Như Toru đã nói: “Không một lời an ủi nào, không một lòng nhân từ, sự dịu dàng nào có thể xoa diệu nỗi đau khi mất đi người mình yêu thương. Chúng ta chỉ còn có thể cố gắng học được một điều gì từ sự mất mát đó. Nhưng mọi bài học cũng đều là vô nghĩa rồi…”

Những thanh âm trầm mặc

Trái với dự đoán của phần lớn mọi người, Trần Anh Hùng không sử dụng nhiều bản nhạc của The Beatles như trong tác phẩm của Haruki đã đưa ra. Ông chỉ giữ lại mỗi bản nhạc chính là tên của tác phẩm: Norwegian Wood, còn lại ông hoàn toàn sử dụng nhạc mới do Johnny Greenwood sáng tác. Và cuối cùng, âm nhạc cũng là một trong những thành công của bộ phim.

Những bản nhạc xuất hiện trong phim luôn với âm lượng nhỏ, lúc ẩn lúc hiện. Có những lúc cách chúng bắt đầu hay kết thúc thật đột ngột. Toàn bộ giai điệu các bản nhạc mang lại cảm giác chung là sự trầm mặc, tuy vậy thi thoảng có những nốt bất chợt vút cao lên đến nhói lòng. Trong đó bản Naoko ga shinda, sử dụng ở đoạn Toru đứng trước biển lớn khi Naoko vừa mới mất thật đặc biệt. Tự bản thân nó đã tràn ngập trong đó sóng biển vỗ trắng xóa, gió gào thét và cả nỗi đau đớn của Toru trước khi hình ảnh làm nhiệm vụ diễn tả lại những chi tiết ấy.

Trong phim còn sử dụng hai bản nhạc vào khoảng thập niên 70 của nhóm nhạc Can ở Đức: Mary, Mary, So Contrary; Bring Me Coffee or Tea. Nhiều đoạn trong hai bản nhạc được cấu thành bởi sự lặp lại tiết tấu giai điệu. Nhưng nó không hề nhàm chán mà đem lại cho người ta cảm giác bí ẩn vì sâu trong sự lặp lại đó là những chuyển điệu luôn sẵn sàng làm người nghe giật mình (nếu như có bị ru ngủ trước đó vì giai điệu quẩn quanh lặp lại).

Phim kết thúc khi bản nhạc quen thuộc của The Beatles vang lên:

I once had a girl or should I say she once had me
She showed me her room isn’t it good Norwegian wood

Có lẽ sự mất mát đôi khi thật đơn giản. Và cách để kể lại câu chuyện về chúng cũng như thế. Không cần cầu kì, phức tạp. Chỉ đơn giản thôi, nhẹ nhàng như hơi thở cuộc sống nhưng… cũng đã đủ để khiến người ta đau…

Với tôi, Trần Anh Hùng đã thành công trong việc kể lại Norwegian wood của Haruki. Không, nó không còn là của riêng Haruki nữa. Nó đã trở thành câu chuyện của ông theo như cách mà Haruki đã nhắn nhủ: “Hãy cứ làm một bộ phim của Hùng!”

Hết.

Kodaki

Trà chiều

Mặt trái của “Manifest”: Khi tư duy tích cực có thể phản tác dụng

“Manifest” – từ khóa của năm 2024 do từ điển Cambridge bình chọn, đã trở thành một cơn sốt trong giới trẻ, lan tỏa mạnh mẽ trên khắp các nền tảng mạng xã hội. Nhưng liệu manifest có thực sự là con đường thần kỳ dẫn đến hạnh phúc?

Published

on

Manifest, hay luật hấp dẫn, đại diện cho một niềm tin vào sức hút kỳ diệu của vũ trụ, vào một thế lực lớn lao và quyền năng hơn chính bản thân, có thể giúp ta đạt được mọi mong muốn. Từ ước mơ về một cuộc sống giàu sang, một tình yêu viên mãn đến khát khao thành công trong sự nghiệp, tất cả dường như đều nằm trong tầm tay chỉ với sức mạnh của suy nghĩ tích cực.

Nhằm mang đến cho bạn đọc một cái nhìn đa chiều về trào lưu này, Bookish xin giới thiệu bài viết được dịch từ tạp chí Psychology Today, phân tích những mặt trái tiềm ẩn của manifest, giúp chúng ta tránh sa vào những cạm bẫy tư duy.

***


“Manifest” đang là một trong những trào lưu thịnh hành nhất ở lĩnh vực sách self-help. Tác phẩm MANIFEST - 7 Bước Để Thay Đổi Cuộc Đời Bạn Mãi Mãi (2022) của Roxie Nafousi đã ngay lập tức trở thành hiện tượng bán chạy toàn cầu khi vừa ra mắt. Cuốn sách này từng có mặt trong danh sách bán chạy nhất của Sunday Times nhiều tuần liền, và được không ít người nổi tiếng tìm đọc.

Tuy nhiên, cuốn sách của Nafousi lại thuộc về một trường phái self-help lâu đời hơn, vốn cổ súy cho ý tưởng về “luật hấp dẫn”. Luật này cho rằng chính suy nghĩ của chúng ta quyết định những gì ta thu hút trong cuộc sống như may rủi, giàu nghèo, ốm đau hay khỏe mạnh, những mối quan hệ độc hại hay tốt đẹp. Tôi cho rằng mặc dù việc nhiều người thích những cuốn sách kiểu này là điều dễ hiểu, nhưng manifest lại là một xu hướng tiềm ẩn nhiều nguy hiểm.

Những ví dụ tiêu biểu nhất về sách self-help theo luật hấp dẫn là The Secret - Bí Mật (2006) của Rhonda Byrne và Think and Grow Rich - Nghĩ Giàu Và Làm Giàu (1937) của Napoleon Hill. Những cuốn sách này đẩy ý tưởng kiểm soát tâm trí (được ủng hộ bởi nhiều trường phái triết học cổ đại như Khắc kỷ, cũng như các chuyên gia trị liệu nhận thức hành vi – CBT) đi xa hơn. Các tác giả đưa ra quan niệm có thể tạm gọi là học thuyết “tâm trí chế ngự vật chất”, khẳng định rằng suy nghĩ của chúng ta có sức mạnh toàn năng, không chỉ quyết định cảm xúc mà còn định hình cả thế giới bên ngoài.

Đúng là có bằng chứng cho thấy rằng tư duy lạc quan tốt hơn tư duy bi quan; và ở một mức độ nào đó, tâm thế và thái độ tích cực có thể dễ khiến ta thành công hơn, ít gặp vấn đề về sức khỏe và các mối quan hệ hơn – nhìn chung là ta có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đơn cử là, cha đẻ của tâm lý học tích cực, Martin Seligman, đã viết rất nhiều về chủ đề này. Seligman cho rằng tư duy bi quan và cái mà ông gọi là “sự bất lực tự ứng nghiệm” chính là nguyên nhân gây ra nhiều vấn đề về sức khỏe, khiến ta bị giảm tuổi thọ, đạt thành tích kém cỏi hơn và gặp nhiều tai họa hơn trong cuộc đời – bởi lẽ, luôn lo sợ những điều này xảy ra có thể biến chúng thành sự thật. [i] Lợi ích của việc hình dung những mục tiêu tích cực và việc chúng ta đạt được kết quả mong muốn cũng đã được nghiên cứu rộng rãi.

Tuy nhiên, nhóm người ủng hộ trào lưu manifest lại đưa ra những tuyên bố cực đoan hơn nhiều. Thông thường, các tác phẩm của họ đều dựa trên những niềm tin huyền bí đáng ngờ, được cho là đúc kết từ một số nguyên lý vật lý lượng tử (mặc dù chưa từng có bằng chứng khoa học nào củng cố cho những tuyên bố này).

Truyền thống self-help này bắt nguồn từ khoảng mấy chục năm cuối thế kỷ 19, khởi đầu với phong trào “chữa lành bằng tâm trí” ở Mỹ. Những người theo phong trào này tin rằng mọi bệnh tật đều bắt nguồn từ tâm trí. Do đó, suy nghĩ lành mạnh sẽ có tác dụng chữa lành. Người thợ đồng hồ Mỹ Phineas Parkhurst Quimby (1802–1866) là một trong những người đầu tiên nêu rõ ý tưởng này. [ii] Quimby cho rằng tất cả bệnh tật chẳng qua chỉ là một niềm tin sai lầm biểu hiện ra thành các triệu chứng vật lý. Nếu chấp nhận rằng bệnh tật chỉ nằm trong tâm trí, chúng ta có thể dễ dàng tự chữa lành cho mình.

Giáo phái chữa bệnh bằng tâm trí nổi bật nhất là Giáo hội Khoa học Kitô giáo, do Mary Baker Eddy (1821–1910) sáng lập. Cuốn kinh thánh trước tác của Eddy, Science and Health with Key to the Scriptures (1875) (Tạm dịch: Khoa học và Sức khỏe với Chìa khóa giải mã Kinh Thánh), hiện đã bán được hơn 9 triệu bản. Giống như Quimby, các tín đồ Khoa học Kitô giáo tin rằng bệnh tật có thể chữa khỏi chỉ bằng cầu nguyện. Thần học của Eddy dựa trên quan niệm thần bí cổ xưa rằng thực tại thuần túy là tâm linh và thế giới vật chất chỉ là ảo ảnh. [iii] Do đó, bệnh tật không gì khác hơn là một lỗi lầm của tâm trí – hậu quả của việc sai lầm khi đặt niềm tin vào vật chất và giác quan. Những tín đồ Khoa học Kitô giáo cực đoan hoàn toàn bác bỏ mọi can thiệp y tế và phẫu thuật. Không có gì ngạc nhiên khi phương pháp chăm sóc sức khỏe này đã khiến cho nhiều thành viên giáo phái và con cái của họ phải vong mạng.

Nhà triết học và tâm lý học William James (1842–1910) cũng rất quan tâm đến ý tưởng về nguồn gốc tâm lý của bệnh tật. Trong The Varieties of Religious Experience (1902) (Tạm dịch: Muôn mặt kinh nghiệm tôn giáo), ông mô tả phong trào chữa lành bằng tâm trí là một “quan điểm sống lạc quan”:

Những người dẫn dắt phong trào này tin tưởng sâu sắc vào năng lực chữa lành của một tâm trí khỏe mạnh, vào khả năng chiến thắng của lòng can đảm, hy vọng và niềm tin, đồng thời khinh miệt sự nghi ngờ, sợ hãi, lo lắng và mọi trạng thái tinh thần căng thẳng, dè dặt thái quá.. [iv]

Chúng ta có thể thấy rõ ràng là trong các nguyên lý của phong trào chữa lành bằng tâm trí có chứa đựng hạt giống của tư duy tích cực. Tư duy tích cực lần đầu tiên được phổ biến là trong tác phẩm The Power of Positive Thinking (1952) (Tạm dịch: Sức mạnh của tư duy tích cực) của mục sư người Mỹ Norman Vincent Peale. Cuốn sách này có tầm ảnh hưởng, nhưng đồng thời cũng gây tranh cãi.

Một nhà tư tưởng “chữa lành bằng tâm trí” quan trọng khác là Prentice Mulford (1834–1892) –  ông đã đặt ra các nguyên tắc của “luật hấp dẫn”. Trong Thoughts are Things (1889) (Tạm dịch: Tư duy là Vạn vật), Mulford giải thích rằng suy nghĩ tích cực thu hút kết quả tích cực và suy nghĩ tiêu cực thu hút kết quả tiêu cực. William Walker Atkinson sau đó cũng đưa ra những tuyên bố tương tự trong Thought Vibration or the Law of Attraction in the Thought World (1906) (Tạm dịch: Sóng Tư tưởng và Luật hấp dẫn trong Thế giới Tinh thần). Tác giả self-help đầu tiên kết hợp ý tưởng tâm linh của luật hấp dẫn với khát vọng vật chất hữu hình là Napoleon Hill. Công thức này hóa ra lại cực kỳ sinh lời. Hill đã xuất bản cuốn sách bán chạy nhất của trong sự nghiệp của ông là Think and Grow Rich! vào năm 1937. Tác phẩm này đã trở thành khuôn mẫu cho một loại sách self-help mới khi tập trung vào việc theo đuổi tiền bạc.

Thông điệp của Hill rất đơn giản: Tất cả chúng ta đều có thể trở nên giàu có nếu khao khát đủ lớn. Nếu tập trung chuyên chú vào những suy nghĩ về tiền bạc và sự sung túc, vũ trụ sẽ tạo ra sự cộng hưởng kỳ diệu với tiềm thức và gửi đến vô vàn tài lộc. [v] Để trở nên giàu có, chúng ta chỉ cần nuôi dưỡng một khát khao rõ ràng. Khi đó, suy nghĩ của chúng ta, “như những thỏi nam châm, sẽ thu hút vô số nguồn lực, con người và hoàn cảnh phù hợp với bản chất của những suy nghĩ chủ đạo đó.” Nếu “từ tính hóa tâm trí” và trở nên “nhạy bén với tiền bạc”, chúng ta sẽ trở thành triệu phú ngay lập tức.

Không có gì ngạc nhiên khi một thông điệp như vậy lại an ủi những độc giả đang vật lộn với hoàn cảnh kinh tế suy thoái trong cuộc Đại khủng hoảng. Nhưng thông điệp còn nhiều mơ hồ này vẫn tiếp tục hấp dẫn cho đến tận ngày nay. The Secret của Byrne đã xào nấu lại ý tưởng này. “Bí thuật” của cô ấy, không gì xa lạ, chính là luật hấp dẫn. Các nguyên tắc của luật này cứ được nhắc đi nhắc lại. Suy nghĩ của chúng ta, rõ ràng là có tần số riêng. Chúng ta phát ra tần số này vào vũ trụ và từ đó thu hút mọi thứ cùng tần số với suy nghĩ của mình. The Secret tràn ngập những câu chuyện về việc bất ngờ nhận được séc qua thư và những biến chuyển kỳ diệu trong cuộc sống cá nhân của một người. Cuốn sách đưa ra lời hứa hẹn rằng rằng độc giả có thể dễ dàng thu hút 10 triệu đô la, bởi vì “Bí thuật có thể cho bạn bất cứ điều gì bạn muốn.” Bởi “Bạn là thỏi nam châm mạnh mẽ nhất trong Vũ trụ!… Suy nghĩ của bạn sẽ trở thành hiện thực!” [viii]

Nhiều người trong chúng ta có thể thấy những lời hứa hẹn thái quá về sự chuyển đổi dễ dàng này là đáng ngờ. Nhưng tệ hơn nữa, học thuyết của Byrne và những người ủng hộ nguyên lý “tâm trí chế ngự vật chất” lại có xu hướng đổ lỗi cho nạn nhân. Về cốt lõi, họ quan niệm rằng những người gánh chịu bất hạnh phải tự nhận trách nhiệm cho những đau khổ của mình, bao gồm cả chuyện ung thư, hiếp dâm, tai nạn xe hơi và bạo lực. Chẳng hạn như, Byrne thẳng thừng cho rằng mọi tai ương trong cuộc sống là do chúng ta không chịu suy nghĩ tích cực và không truyền tải đủ mạnh mẽ những mong muốn về vật chất xa xỉ vào vũ trụ. Byrne và nhiều chuyên gia làm giàu đã đóng góp cho cuốn sách của cô còn khẳng định chắc nịch rằng quy luật hấp dẫn cũng có thể áp dụng với 6 triệu người Do Thái bị sát hại trong thảm họa Holocaust. Rõ ràng, chính “những suy nghĩ về nỗi sợ hãi, sự chia ly và bất lực” của người Do Thái đã khiến họ “hiện diện ở nơi lầm lạc vào một thời điểm sai trái”. [ix] Tác giả của The Secret khẳng định chắc nịch: “Mọi trải nghiệm đều bắt nguồn từ những suy nghĩ dai dẳng trong chính bạn.” [x] Đây rõ ràng là những luận điệu vô cùng đáng lo ngại, và tôi ngạc nhiên rằng những tuyên bố dối trá, hoàn toàn không thể biện minh này lại không vấp phải quá nhiều chỉ trích.

Vậy tại sao những cuốn sách như Think and Grow Rich!, The Secret, và giờ là Manifest của Nafousi lại hấp dẫn nhiều người đến vậy? Tất nhiên, ai mà chẳng thích được nghe rằng mình có thể giàu sang mà không cần động tay động chân, rằng những tấm séc 10 triệu đô la sẽ tự động bay vào hộp thư chỉ cần ta nghĩ đủ nhiều về tiền. Những cuốn sách cho rằng mọi sự tự hoàn thiện bền vững đều đòi hỏi nỗ lực, kiên trì và thời gian thường ít hấp dẫn hơn – mặc dù có lẽ thông điệp đó lại thực tế hơn.

Tuy nhiên, tôi cho rằng không chỉ vì chúng ta khao khát những giải pháp nhanh chóng, dễ dàng mà những cuốn sách như thế này mới trở nên phổ biến; một yếu tố quan trọng khác là mong mỏi từ ngàn đời nay của con người về việc tự làm chủ cuộc sống. Tư duy vũ trụ kỳ diệu được cổ súy bởi những người theo trường phái “chữa bệnh bằng tâm trí” giúp chúng ta nuôi dưỡng khát vọng toàn năng, bất khả chiến bại và quyền làm chủ thế giới vật chất. Nó đánh vào mong muốn nguyên thủy của chúng ta là khả năng tự bảo vệ mình trước hai mối đe dọa là sự tổn thương và tình trạng mất kiểm soát.

Phép thuật tư duy trong những cuốn sách này cũng mang tính chất thoát ly thực tại. Nó cho phép ta mơ mộng về những cuộc đời khác, nơi ta là nhân vật chính trong truyện cổ tích – thành đạt, giàu có, quyến rũ và luôn tự tin trong giao tiếp xã hội. Ngoài ra, thời điểm những cuốn sách này được xuất bản và tạo nên tiếng vang cũng rất đáng chú ý: sách của Hill ra đời trong thời kỳ Đại khủng hoảng, sách của Byrne ra đời ngay trước khủng hoảng tài chính, còn sách của Nafousi nổi lên năm 2022 – một năm đầy biến động với những ảnh hưởng kéo dài của đại dịch Covid, bất ổn kinh tế gia tăng, khủng hoảng chi phí sinh hoạt trầm trọng và chiến tranh Ukraine kinh hoàng.

Vấn đề tôi thấy là: Mặc dù đọc những cuốn sách này có thể mang lại cảm giác hy vọng nhất thời, thậm chí là sự kỳ vọng hão huyền, nhưng thực tế cuối cùng cũng sẽ ập đến. Chúng ta sẽ cảm thấy tồi tệ hơn khi những khoản tiền hứa hẹn không xuất hiện. Không một vấn đề nào được giải quyết. Ta chẳng học được gì mới mẻ về bản thân và cũng chẳng thu được bài học hữu ích nào để thực sự tiến bộ. Hơn nữa, việc đánh giá quá cao khả năng thay đổi tâm lý và năng lực cá nhân, đồng thời đánh giá thấp bối cảnh kinh tế và xã hội mà ta đang sống, sẽ khiến ta phải trả giá. Khi mọi thứ không diễn ra như mong đợi, ta sẽ chìm trong cảm giác tội lỗi và xấu hổ.

***

Tư liệu tham khảo

[i] See Martin Seligman, Learned Optimism: How to Change Your Mind and Your Life (London, Boston: Nicholas Brealey Publishing, 2006).

[ii] Phineas Parkhurst Quimby, The Quimby Manuscripts: Containing Messages of New Thought, Mesmerism and Spiritual Healing from the Author, edited by Horatio W. Dresser (s.p.: Pantianos Classics, 1921), p. 73

[iii] Mary Baker Eddy, Science and Health With Key to the Scriptures (Boston: The Writings of Mary Baker Eddy, 2000), p. viii.

[iv] William James, The Varieties of Religious Experience (Cambridge, MA: Harvard University Press, 1985), pp. 92–3.

[v] Napoleon Hill, Think and Grow Rich!: The Original Version, Restored and Revised (Anderson, SC: The Mindpower Press, 2007), p. 9.

[vi] Ibid., p. 21.

[vii] Ibid.

[viii] Rhonda Byrne, The Secret, 10th anniversary edition (London and New York: Simon & Schuster, 2016), p. xv, 7, 9.

[ix] Ibid., p. 28.

[x] Ibid., p. 43.

***

Khi những ảo tưởng về một cuộc sống hoàn hảo nhờ manifest tan vỡ, ta thường chìm trong thất vọng và tự trách bản thân. Việc đánh giá quá cao sức mạnh của suy nghĩ mà quên đi nỗ lực thực tế chính là nguyên nhân dẫn đến thất bại. Tuy nhiên, không thể phủ nhận sức hút và sự phổ biến của manifest. Nếu biết vận dụng một cách tỉnh táo, kết hợp với hành động thiết thực và kế hoạch rõ ràng, manifest có thể trở thành một công cụ hữu ích, giúp ta củng cố niềm tin, duy trì động lực và rút ngắn con đường đến với mục tiêu. Suy cho cùng, tư duy tích cực luôn là một yếu tố quan trọng trên hành trình hoàn thiện bản thân, nhưng chìa khóa then chốt vẫn nằm ở sự cân bằng giữa giấc mơ và hiện thực, giữa niềm tin và hành động. Đó cũng chính là thông điệp mà Bookish mong muốn gửi gắm đến bạn đọc.

Nguồn: Psychology Today

Kodaki dịch

Đọc bài viết

Trà chiều

Lễ hội Đường sách Tết Ất Tỵ 2025 thu hút đông đảo bạn đọc tại TP HCM

Published

on

Ngày 27.01.2025 (tức 28 Tết), Lễ hội Đường sách Tết Ất Tỵ 2025 chính thức khai mạc. Lễ hội thu hút sự quan tâm và yêu thích của người dân cũng như khách du lịch thành phố. Đường sách được tổ chức với quy mô lớn, có nhiều không gian văn hoá, nghệ thuật đặc sắc, hứa hẹn sẽ trở thành điểm vui chơi và mua sắm náo nhiệt trong mùa Tết.

Lễ hội lần thứ 15 có chủ đề Non sông gấm hoa, vui xuân thái hòa. Năm 2011, lễ hội Đường sách Tết lần đầu được tổ chức tại đoạn đường Mạc Thị Bưởi (nối Đồng Khởi và Nguyễn Huệ, quận 1). Từ năm 2023 đến nay, hoạt động này được tổ chức trên trục đường Lê Lợi, đoạn từ giao lộ Nguyễn Huệ đến bùng binh Quách Thị Trang, dài khoảng 400 m. Lễ hội tổ chức trên khu vực có tổng diện tích 11.200 m2, thu hút nhiều đơn vị tham gia kiến tạo không gian văn hóa, nghệ thuật, nổi bật trong số đó có Công ty Cổ phần Văn hóa Phương Nam (gọi tắt là Công ty Phương Nam hoặc PNC).

Năm 2025 đánh dấu kỷ niệm 15 năm Công ty Phương Nam tham gia Lễ hội Đường sách Tết với gian hàng lớn, đẹp, giàu cảm xúc. Sau buổi lễ khai mạc, gian hàng của Phương Nam vinh dự đón tiếp các lãnh đạo Thành phố đến tham quan: ông Nguyễn Trọng Nghĩa - Uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, ông Phan Văn Mãi - Chủ tịch UBND TP.HCM, ông Nguyễn Thanh Nghị - Phó Bí thư Thường Trực Thành ủy TP.HCM, ông Lâm Đình Thắng - Giám đốc Sở TT&TT TP.HCM cùng đại diện lãnh đạo Sở, ngành. Bên cạnh đó, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư cũng ghé thăm các gian hàng của Nhà Sách Phương Nam tại Lễ hội Đường sách Tết. Đại diện Công ty Phương Nam đón tiếp đoàn lãnh đạo và các vị khách quý là ông Nguyễn Hữu Hoạt - Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Đến với các gian hàng của PNC tại Đường sách Tết, khách tham quan có thể tìm mua những đầu sách best-seller giá trị và đầy ý nghĩa do Phương Nam Book liên kết xuất bản; trải nghiệm khu vực sách nói KOMO Audio tiện lợi và hiện đại; đắm chìm trong những giai điệu bất hủ tại quầy băng đĩa Phương Nam Film; cũng như mang về nhà những món đồ chơi, quà lưu niệm đa dạng mẫu mã đến từ các thương hiệu nổi tiếng trên thế giới. Là thương hiệu có bề dày 43 năm kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, Công ty Phương Nam tự hào là đơn vị uy tín, chất lượng và luôn nỗ lực để mang lại trải nghiệm tốt nhất cho khách hàng. Lễ hội Đường sách Tết Ất Tỵ 2025 là cơ hội để PNC tiếp tục phục vụ khách hàng và bạn đọc với những sản phẩm cũng như dịch vụ chất lượng cao.

Trong suốt thời gian diễn ra Lễ hội Đường sách Tết Ất Tỵ 2025, khách tham quan sẽ có cơ hội gặp gỡ, giao lưu với nhiều tên tuổi nổi tiếng trong làng sách, tham gia các chương trình thú vị để nhận nhiều lì xì hấp dẫn, và tận hưởng không khí du xuân tràn đầy niềm vui. Tết này, đừng quên ghé chơi với Nhà Sách Phương Nam nha!

Thời gian: Từ 27/01/2025 – 02/02/2025

Địa điểm: Đường Lê Lợi, Quận 1, TP HCM

Một số hình ảnh trong ngày khai mạc Lễ hội Đường sách Tết Ất Tỵ 2025:

Đọc bài viết

Trà chiều

Vũ Đằng kết đôi cùng “nàng Kiều” Trình Mỹ Duyên trong Chợ Tết Tình Quê

Published

on

By

Nam diễn viên Vũ Đằng sẽ sánh đôi cùng “nàng Kiều” Trình Mỹ Duyên trong bộ phim phát sóng vào ngày mùng một Tết nguyên đán Ất Tỵ.

Chợ Tết Tình Quê là câu chuyện tình cảm của một đôi bạn trẻ diễn ra trong những ngày giáp Tết Ất Tỵ ở cù lao An Bình (tỉnh Vĩnh Long). Gia Bảo (Vũ Đằng đóng) là một chàng công tử chính hiệu, chán chường cuộc sống xa hoa, xô bồ nơi phố thị cũng như muốn thoát khỏi sự kìm kẹp của mẹ, Bảo bỏ nhà đi bụi vào một buổi chiều tháng chạp. Anh xuôi về miền Tây sông nước, nơi có làng nghề gốm đỏ, làm nhang, trồng trái cây, hoa kiểng để tìm lại những ký ức thời thơ ấu, khi gia đình còn trọn vẹn. Tình cờ gặp được Vũ Nghi (Trình Mỹ Duyên), Bảo choáng váng và thậm chí ghét bỏ, nhiều lần cản trở, gây tai họa cho cô vì hiểu lầm cô là người thực dụng, lợi dụng tình nghĩa của bà con dưới quê để kiếm danh.

Vũ Nghi vốn là người sinh ra ở cù lao An Bình. Cô mồ côi cha mẹ, sống với người cậu từ bé nên tính cách cứng cỏi, đạt giải một hoa khôi nhưng từ chối mọi sự săn đón của các đại gia mà muốn đi lên từ thực lực. Vũ Nghi hoạt động như một hot streamer trên mạng xã hội, sở hữu những trang cá nhân có lượt theo dõi khủng. Chương trình thực tế 100 nghề của cô nhận được nhiều sự quan tâm của công chúng, trong đó có những tập quảng bá về ngành nghề truyền thống cũng như du lịch sinh thái ở quê hương Vĩnh Long. Hoàn cảnh đưa đẩy cả hai thành cặp đôi “oan gia ngõ hẹn”, ban đầu là ghét nhau, sau dần dần cảm mến rồi tiến tới tình yêu.

Bên cạnh chuyện tình của cặp trai tài gái sắc Gia Bảo – Vũ Nghi, đạo diễn Quách Khoa Nam và biên kịch Phan Ngọc Diễm Hân còn dẫn dắt khán giả màn ảnh nhỏ tham quan cù lao An Bình cũng như những miền quê xinh đẹp, trù phú của tỉnh Vĩnh Long. Người xem sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp bình dị của làng nghề gốm đỏ, làm nhang, những làng hoa Tết sum suê, vườn trái cây trĩu quả… Không khí của phim diễn ra trong những ngày giáp Tết, thời khắc mùa Xuân hiện hữu đẹp nhất với những màu sắc, mùi vị đặc trưng của xứ Nam Bộ.

Khi nhận được kịch bản Chợ Tết Tình Quê, diễn viên Vũ Đằng  cảm thấy rất lo lắng vì nhân vật không có chút gì giống mình ở ngoài đời. “Với một thanh niên 28 tuổi thì ai lại không muốn thành công và được nhiều cô gái vây quanh nhưng Gia Bảo thì ngược lại, anh trốn tránh hết tất cả. Tuy nhiên, tôi đọc kỹ kịch bản, tìm cách thấu hiểu và cảm thông với nhân vật. Tôi đặt ra những câu hỏi “Tại sao?” và tìm cách giải đáp để làm dày lý lịch  để khi ra bối cảnh không còn khúc mắc với nhân vật” – anh chia sẻ. Tuy nhiên, đây không phải là điều làm khó Vũ Đằng mà chính việc hóa trang mới tạo cho anh nhiều trở ngại nhất trong quá trình thực hiện phim. Trước đó ít lâu, anh vừa hoàn thành một phim cổ trang, phải cạo đầu ba vá cho phù hợp nên sang Chợ Tết Tình Quê, Vũ Đằng không kịp để tóc trở lại bình thường, vậy nên ekip thực hiện quyết định cho anh đội tóc giả. Việc hóa trang tóc cho anh trước khi vào cảnh quay mất hơn một giờ, thêm nữa, thời tiết cũng khá nóng nên Vũ Đằng cũng không thực sự thoải mái với bộ tóc khi diễn. “Nó có thể rớt ra bất cứ lúc nào hoặc sai phom dáng nếu mình xoay đầu quá nhiều. Có một số cảnh nặng về tâm lý hay cần động tác hình thể nhiều thì buộc mình phải quên đi chuyện đội tóc giả để nhập tâm hơn. Nếu đội quá lâu thì bộ tóc cũng làm tôi cảm thấy đau đầu. Khi diễn những cảnh cuối cùng của phim, tôi thực sự thở phào nhẹ nhõm vì… được cởi hẳn và tạm biệt bộ tóc giả từ đây!”- anh dí dỏm.

Ngoài ra, phim còn có sự tham gia của các diễn viên: Quang Thái, Hoài An, Thanh Bình, Lê Trang…

Bộ phim do PNF sản xuất kéo dài 20 tập, phát sóng lúc 20h từ thứ hai đến thứ bảy hàng tuần trên kênh THVL1, khởi chiếu từ mùng 1 Tết nguyên đán Ất Tỵ (tức 29.01.2025)

Đọc bài viết

Cafe sáng