Trích đăng

Chương 1&2 “Bông Hồng Cài Áo” – Thích Nhất Hạnh

“Bông hồng cài áo” là tên một đoản văn viết về Mẹ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Nhà sư viết “Thương mẹ là một cái gì rất tự nhiên… Thương mẹ không phải là một vấn đề luân lý đạo đức. Anh mà nghĩ rằng tôi viết bài này để khuyên anh về luân lý đạo đức là anh lầm. Thương mẹ là một vấn đề hưởng thụ… Một món quà như mẹ mà còn không vừa ý thì họa chăng có làm Ngọc hoàng Thượng đế mới vừa ý, mới bằng lòng, mới sung sướng. Nhưng tôi biết Ngọc hoàng không sung sướng đâu, bởi Ngọc hoàng là đấng tự sinh, không bao giờ có diễm phúc có được một bà mẹ.”

Published

on

Chi tiết tác phẩm

Trích từ: Bông hồng cài áo

Tác giả: Thích Nhất Hạnh

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Tái bản: tháng 7.2019

Mẹ và Cha được danh tặng

“Bà La Môn,” “thầy cô sớm nhất”

và xứng đáng được tôn quý

vì hết lòng thương yêu

đám nhỏ trong gia đình.

Vì thế, người khôn ngoan

ca ngợi và vinh danh cha mẹ,

tặng đồ ăn thức uống

với quần áo chăn mùng

xức dầu và tắm gội

và rửa chân mẹ cha.

Khi người khôn ngoan

phục vụ cha mẹ như thế

thì chàng được ca ngợi

bây giờ và ở đây

và được lên cõi tịnh

sau giờ phút lâm chung.

Kinh Buddha, Itivuttaka 106

Bạn còn nhớ gì về những ngày nằm trong bụng mẹ không?

Chúng ta ai cũng từng nằm ở đó khoảng chín tháng. Một khoảng thời gian khá lâu. Tôi tin chắc ai trong chúng ta cũng có cơ hội mỉm cười trong khoảng thời gian ấy. Nhưng ta mỉm cười với ai?

Khi ta vui, tự nhiên ta sẽ có xu hướng mỉm cười. Tôi đã thấy nhiều người, nhất là trẻ con, mỉm cười trong giấc ngủ.

Sau khi chào đời ta có những lúc không vừa ý, nên đa số chúng ta đều cảm thấy rằng thời gian trong bụng mẹ là một thời gian tuyệt vời. Ta khỏi phải lo lắng về thức ăn thức uống. Ta được che chở khỏi nóng và lạnh. Ta khỏi làm bài tập ở nhà và công việc bếp núc. Khi được bảo vệ trong bụng mẹ ta cảm thấy an toàn. Ta khỏi phải lo lắng gì cả. Và điều đó thật là tuyệt vời.

Tôi chắc rằng nhiều người trong chúng ta vẫn còn nhớ về khoảng thời gian đó.

Nhiều người có cảm tưởng rằng ngày trước họ từng ở trong một thiên đàng an toàn tuyệt hảo nhưng nay đã bị lạc mất thiên đàng ấy. Ta nghĩ rằng đâu đó ngoài kia có một nơi chốn xinh tươi không có gì phải lo lắng và sợ hãi, nhưng không phải, và thế là ta ao ước được trở về nơi chốn trong bụng mẹ. Trong tiếng Việt chữ “tử cung” có nghĩa là cung điện của hài nhi. Thiên đàng nằm trong lòng mẹ.

Khi nằm trong bụng mẹ, bạn được mẹ chăm sóc. Mẹ ăn và uống cho bạn. Mẹ thở vào, thở ra cho bạn. Và tôi chắc mẹ cũng nằm mơ cho bạn nữa. Bạn mơ cùng một giấc mơ với mẹ. Khi mẹ mỉm cười, bạn cũng mỉm cười. Và nếu mẹ khóc khi mơ thấy chuyện buồn khổ thì tôi chắc bạn sẽ cùng khóc với mẹ. Bạn chia sẻ với mẹ những giấc mơ đẹp và cả những cơn ác mộng, bởi vì bạn và mẹ không phải là hai người riêng biệt. Cơ thể bạn được nối liền với mẹ bằng cuống rốn. Và mẹ truyền cho bạn qua cuống rốn ấy nào thức ăn thức uống, nào dưỡng khí, đủ hết, kể cả tình thương của mẹ. Bạn nằm đấy, bạn chưa chào đời nhưng đã là đối tượng của tình thương.

Hãy nên nhớ rằng bạn đã được mẹ nuôi dưỡng ngay từ khi bạn chưa chào đời. Nếu nhìn sâu, bạn sẽ thấy rằng đồng thời bạn cũng nuôi dưỡng mẹ. Vì có con trong lòng mà cơ thể mẹ thay đổi và lớn lên. Có thể mẹ mệt mỏi hơn, kém sức hơn, nhưng đồng thời mẹ hay mỉm cười hơn và cả yêu đời nhiều hơn nữa.

Có lẽ trong khoảng thời gian ấy mẹ đã từng trò chuyện với bạn. Tôi chắc rằng bạn đã nghe mẹ nói chuyện, và bạn đã hồi âm. Có lẽ thỉnh thoảng mẹ quên rằng đang có con nằm trong bụng mẹ. Vì vậy bạn đã đá một cái để nhắc mẹ. Cái đá của bạn là một tiếng chuông chánh niệm. Nếu mẹ có thực tập tỉnh thức thì mẹ đã nói, “Con yêu quý, mẹ biết con có đó mà, và mẹ rất hạnh phúc.” Đó là câu thần chú thứ nhất. Nếu mẹ không nói như thế thì cơ thể mẹ cũng đáp lại rằng mẹ sẽ làm bất cứ điều gì cần thiết để nuôi dưỡng con.

Khi bạn vừa chào đời, sẽ có người cắt cuống rốn của bạn. Và bạn ré lên khóc lần đầu tiên trong đời. Bây giờ thì bạn phải tự mình hít thở. Bạn phải làm quen với ánh sáng xung quanh. Bây giờ lần đầu tiên bạn biết đói bụng. Bạn đã ở ngoài cơ thể của mẹ, nhưng bạn vẫn còn nằm trong mẹ, vẫn còn tùy thuộc vào mẹ. Chẳng hạn như bạn phải bú vú mẹ. Và mặc dù cuống rốn giữa mẹ con đã bị cắt đứt, bạn vẫn còn liên hệ mật thiết với mẹ một cách cụ thể.

Là một em bé, bạn biết mình có liên hệ với mẹ; và khi là một người mẹ, bạn sẽ cảm thấy sự gắn kết với con mình. Nếu là mẹ, bạn có thể hình dung bạn với con là một. Nhưng nếu bạn giữ chặt con và bắt nó phải giống hệt như mình thì điều đó không nên. Thấy mình với con là một thì tốt, nhưng bé còn phải sống với nhiều ảnh hưởng khác nữa, và khi lớn lên, có thể bé sẽ có nhiều hiểu biết mới. Mỗi bà mẹ đều phải tập để thấy rằng con mình là mình, nhưng đồng thời cũng không phải là mình. Đứa con có cuộc đời riêng của nó. Bạn không thể cầm giữ đứa con và bắt nó phải đi về hướng của bạn, bạn không thể buộc nó phải làm những gì bạn thích vì bạn muốn uốn nắn nó theo khuôn đúc của bạn. Bởi vì nó không những là sự nối tiếp của bạn, mà còn là sự nối tiếp của nhiều thế hệ tổ tiên trước bạn nữa, và có thể cuộc đời bạn đã không có cơ hội được tưới tẩm những hạt giống tốt mà bạn thừa hưởng từ thế hệ tổ tiên. Do đó, bạn không được may mắn bằng con bạn. Cho nên khi con đã có nhiều hiểu biết mới, bạn phải học hỏi từ con.

Nếu mẹ không chịu để cho bạn độc lập trưởng thành, hay nếu bạn có khó khăn với mẹ, có lẽ bạn sẽ ráng tự thuyết phục rằng bạn và mẹ là hai người riêng biệt. Nhưng sự thực không hẳn thế. Bạn là sự tiếp nối của cả cha và mẹ. Khi tôi ngồi thiền, tôi có thể thấy được sợi dây rốn nối liền tôi và mẹ. Khi tôi nhìn sâu, tôi cũng thấy những dây rốn nối liền tôi với vạn vật. Bởi vì mặt trời mọc mỗi sáng mai, và nhờ có mặt trời, ta có nhiệt lượng và ánh sáng. Không có nhiệt lượng và ánh sáng thì ta không tồn tại được.

Thế thì sẽ có một dây rốn nối liền bạn với mặt trời. Và sẽ có một dây rốn khác nối liền bạn với những đám mây trên bầu trời. Bởi vì nếu không có mây thì sẽ không có mưa và không có nước để uống, nếu không có mây bạn cũng không có sữa, không có trà, không có cà phê, không có kem lạnh, không có gì hết. Và lại có một dây rốn nối liền bạn với dòng sông, một dây rốn khác nối liền bạn với rừng cây. Nếu bạn cứ tiếp tục thiền định, bạn sẽ thấy rằng bạn nối liền với mọi vật và mọi người trong vũ trụ. Cuộc đời bạn tùy thuộc vào mọi thứ khác đang có mặt như những sinh vật, cây cỏ, đất đá, không khí, nước và mọi thứ khác trên trái đất.

Giả sử bạn trồng một hạt bắp. Sau bảy ngày, hạt bắp nẩy mầm và trở thành một cây bắp. Khi cây bắp lên cao, có thể bạn sẽ không còn nhìn thấy hạt bắp mà bạn đã trồng. Nhưng bạn không thể bảo rằng hạt bắp đã chết. Với đôi mắt của Bụt, bạn vẫn có thể nhìn thấy hạt bắp giống trong cây bắp. Cây bắp là sự tiếp nối của hạt bắp giống về hướng tương lai, và hạt bắp giống là sự tiếp nối của cây bắp về hướng quá khứ. Cây bắp và hạt bắp giống không phải là một, nhưng chúng cũng không phải hoàn toàn khác biệt. Bạn và mẹ không hẳn là một người, nhưng cũng không phải là hai người riêng biệt. Đó là sự thật về sự phụ thuộc lẫn nhau. Sự thật là không ai có thể sống tách biệt một mình. Muốn sống thì bắt buộc ta phải tương tức với nhau.

Khi chúng ta còn nằm trong bụng mẹ, cơ thể ta không chịu sự căng thẳng.

Cơ thể ta lúc đó mềm mại và co dãn. Nhưng một khi ta đã chào đời, thì sự căng thẳng sẽ len vào, có khi ngay từ lần đầu tiên ta thở. Trước khi ta buông xả được sự căng thẳng trong thân thì ta phải buông xả sự căng thẳng trong hơi thở đã. Nếu thân ta không an thì hơi thở cũng không an. Khi ta chế tác được năng lượng chánh niệm và ôm lấy hơi thở thì phẩm chất của hơi thở vào và hơi thở ra sẽ được cải thiện. Khi ta thở trong chánh niệm, hơi thở của ta sẽ lắng dịu xuống và dài sâu hơn. Sự căng thẳng trong lúc thở sẽ biến mất. Và khi hơi thở đã được lắng dịu, ta có thể ôm lấy cơ thể và ta buông thư – Bụt gọi là “an tịnh”.

Có một bản kinh Pali gọi là kinh Kayagatasati,  Quán Thân Trong Thân.

Trong đó Bụt đề nghị thực tập để buông xả sự căng thẳng trong mỗi bộ phận của thân, và trong cả toàn thân. Để bắt đầu, bạn nằm dài trong một tư thế thoải mái và rọi chiếu chánh niệm lên toàn thân. Xong rồi bạn tập trung vào từng bộ phận của thân. Bắt đầu là cái đầu hay là tóc, và kết thúc với các ngón chân. Bạn có thể nói: “Khi thở vào tôi nhận biết não bộ của tôi. Khi thở ra, tôi mỉm cười với não bộ của tôi.” Và bạn tiếp tục với những phần còn lại của thân. Giống như người nông dân với một mớ hạt giống được đổ ra sàn nhà, người ấy có thể nhận ra và phân biệt rõ từng loại hạt giống. Cũng vậy, khi bạn rọi chiếu lên từng bộ phận của thân – không phải bằng tia quang tuyến X mà bằng ánh sáng chánh niệm.

Mười lăm phút cũng đủ để rọi chiếu lên thân và làm xoa dịu sự căng thẳng của thân bằng năng lượng chánh niệm.

Khi tâm hoàn toàn tỉnh thức, nhận ra được một phần của thân và ôm lấy phần ấy với năng lượng của chánh niệm, thì phần cơ thể ấy được thư giãn và buông xả mọi căng thẳng. Vì vậy ta hiểu tại sao mỉm cười là một phương cách tốt để giúp cơ thể buông thư. Những nụ cười đầu tiên trong bụng mẹ là những nụ cười hoàn toàn buông thư. Có hàng trăm bắp thịt trên mặt bạn, và khi bạn nổi giận hay sợ hãi thì chúng rất căng thẳng. Nhưng nếu bạn thở vào và nhận biết chúng, thở ra và mỉm cười với chúng, bạn có thể giúp các bắp thịt ấy thư giãn. Với một hơi thở vào và một hơi thở ra là vẻ mặt của bạn đã được chuyển hóa. Một nụ cười có thể đem đến sự mầu nhiệm.

Trong kinh Quán Thân Trong Thân, Bụt khuyên ta nên nhận biết bốn yếu tố thiên nhiên trong cơ thể là nước, lửa, không khí và đất. Ở trong tử cung, bốn yếu tố này hoàn toàn cân bằng. Người mẹ giữ cân bằng trong tử cung cho con bằng cách gửi vào dưỡng khí và chất bổ dưỡng trong khi con nằm nghỉ ngơi. Một khi ta được sinh ra, nếu bốn yếu tố ấy của ta cân bằng thì ta được mạnh khỏe. Nhưng nhiều lúc bốn yếu tố ấy thiếu thăng bằng, cơ thể ta không ấm lên được hay ta không thở nổi một hơi dài. Thông thường thì một hơi thở có ý thức có thể đem bốn yếu tố ấy trở về trạng thái cân bằng một cách tự nhiên.

Bụt cũng khuyên ta nên nhận biết những tư thế và cử động của thân. Lúc ngồi thiền, điều đầu tiên ta phải nhận thức là ta đang ở trong tư thế ngồi. Rồi sau đó bạn có thể tìm cách ngồi nào đem lại cho bạn sự an ổn, sự vững chãi và thoải mái. Mỗi phút giây ta đều nhận thức tư thế của thân ta, ta đang ngồi, đang đi, đang đứng hay đang nằm. Ta có thể nhận thức những cử động của ta, ta đang đứng dậy, cúi xuống hay đang khoác áo. Sự nhận thức đem ta trở về với chính ta. Và khi ta hoàn toàn nhận thức được thân ta đang sống ngay đây và ngay bây giờ, thì ta đang ở trong mái nhà đích thực của ta.

Có những người cảm thấy không thoải mái khi ở nhà cha mẹ. Lại có những người không thoải mái khi ở xa gia đình. Nhưng mỗi người đều có một mái nhà đích thực, cũng đích thực và tinh khiết như cung điện của hài nhi. Ngay cả nếu bạn có cảm giác mình không thuộc về một vùng đất nào, một quốc gia nào, một địa điểm nào, một nền văn hóa nào, hay một dân tộc nào thì bạn vẫn có một mái nhà đích thực. Bạn cảm thấy thoải mái tự nhiên như khi còn nằm trong bụng mẹ. Và có lẽ bạn ao ước được trở về một nơi chốn cũng thanh bình và an toàn như thế. Nhưng bây giờ, ngay bên trong cơ thể bạn, bạn cũng có thể trở về nhà.

Mái nhà đích thực của bạn là ở đây và bây giờ. Nó không bị giới hạn bởi thời gian, không gian, quốc tịch hay chủng tộc. Mái nhà đích thực của bạn không phải là một ý tưởng trừu tượng, nó là một cái gì bạn có thể tiếp xúc và sống trong từng giây phút. Với chánh niệm và định lực – là những năng lượng của Bụt, bạn có thể tìm thấy mái nhà đích thực của bạn ngay trong sự buông thư hoàn toàn của tâm và thân trong giây phút này. Không ai có thể lấy nó ra khỏi bạn. Người ta có thể xâm chiếm đất nước của bạn, thậm chí có thể nhốt bạn vào tù, nhưng họ không thể cướp được mái nhà đích thực và sự tự do của bạn.

Khi ta ngưng nói năng suy nghĩ và ta thưởng thức hơi thở vào ra, là lúc ta vui thích được ở dưới mái nhà đích thực của mình, là lúc ta có thể tiếp xúc sâu sắc với những điều kỳ diệu của cuộc sống. Đó là con đường đã được Đức Thế Tôn chỉ dạy. Khi bạn thở vào, bạn đem thân và tâm bạn đến với nhau, trở thành một mối. Và khi được trang bị năng lượng của niệm và định, bạn bước tới một bước. Bạn có tuệ giác rằng đây chính là mái nhà đích thực của bạn – bạn đang sống, bạn đang có mặt thật sự, bạn đang tiếp xúc với sự sống như là một thực tại. Mái nhà đích thực của bạn là một thực tại vững chắc mà chân bạn, tay bạn và tâm của bạn có thể tiếp xúc được.

Điều quan trọng là bạn tiếp xúc được với mái nhà đích thực của mình, và nhận thức được rằng mái nhà đích thực đó có ngay ở đây và bây giờ. Tất cả chúng ta đều có hạt giống của niệm và định. Khi thở một hơi trong chánh niệm, hay đi một bước trong chánh niệm, bạn có thể đem tâm trở về với thân. Trong đời sống hàng ngày, thân và tâm của bạn thường đi về hai hướng khác nhau. Thế là bạn bị lãng trí, tâm một đàng, thân một nẻo. Thân thì đang khoác áo lạnh nhưng tâm thì đang lơ đãng, vướng bận với những điều trong quá khứ hay tương lai. Nhưng giữa tâm và thân vẫn có một cái gì đó: đó là hơi thở của bạn. Và ngay khi bạn trở về với hơi thở, bạn thở trong tỉnh thức, thân và tâm bạn lại trở về với nhau rất nhanh chóng. Trong khi thở vào, bạn không nghĩ gì cả; bạn chỉ tập trung sự chú ý vào hơi thở vào đó. Bạn tập trung, bạn đầu tư một trăm phần trăm con người bạn vào hơi thở vào.

Bạn trở thành hơi thở vào của bạn. Sự tập trung vào hơi thở vào sẽ làm thân tâm bạn trở về một mối trong khoảnh khắc. Và ngay lúc đó bạn thấy bạn thực sự có mặt, bạn đầy sức sống. Bạn không còn ao ước trở về cung điện của hài nhi nữa, trở về nơi thiên đàng hoàn hảo nữa. Bạn đã ở đấy rồi. Bạn đã về đến ngôi nhà của mình rồi.

-Còn tiếp-

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Lancaster và York: Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng

Published

on

Trích từ: Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York - Cuộc Chiến Vương Quyền Anh Quốc

Tác giả: Alison Weir

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 12.2024

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

GIỚI THIỆU

Trong quá trình hoàn tất tác phẩm trước, cuốn The Princes in the Tower, tôi nhận ra rằng ở phương diện nào đó, tôi chỉ mới kể một nửa câu chuyện. Lúc ấy tôi đang viết về giai đoạn cuối của cuộc chiến mang cái tên hoa mỹ là Chiến tranh Hoa hồng, một cuộc xung đột kéo dài hơn ba mươi năm, từ 1455 đến 1487. Trên thực tế, có đến hai cuộc Chiến tranh Hoa hồng; lần đầu kéo dài từ 1455 đến 1471, giữa hai gia tộc Lancaster và York, và lần sau từ 1483 đến 1487, giữa nhà York và nhà Tudor. Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng vốn chỉ được đề cập sơ lược trong The Princes in the Tower, cuốn sách mô tả khá chi tiết giai đoạn thứ hai của cuộc chiến này, thế nên tôi cảm thấy phần tiền truyện ấy vốn dĩ rất thú vị để viết tiếp. Vì vậy, cuốn sách này chính là câu chuyện xoay quanh hai gia tộc Lancaster và York thuộc giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng.

Trong suốt quá trình nghiên cứu, tôi đã xem xét nhiều nguồn tài liệu, cả cổ xưa lẫn hiện đại, và tất cả những nguồn hiện đại hầu như đều chỉ tập trung vào các khía cạnh quân sự và thực tiễn về chủ đề tôi viết. Cuốn sách này đương nhiên sẽ đề cập đến những vấn đề đó, với khá nhiều đoạn đi sâu vào chi tiết, nhưng mục đích chính của tôi là khắc họa vai trò của con người trong lịch sử – những nhân vật có liên quan, những vai chính của một trong những mối hận thù kéo dài nhất và có sức hấp dẫn nhất lịch sử nước Anh.

Trung tâm của cuộc chiến phe phái đẫm máu này là hình ảnh đáng thương của nhà vua tâm thần bất ổn Henry VI, sự cai trị kém cỏi và trí lực thiểu năng của ông đã khiến chính trị rối ren, dân chúng ta thán, các đại quý tộc bất hòa với nhau, dẫn đến chiến loạn liên miên và một trận ác chiến tranh giành ngôi vua. Đối thủ chính của Henry là Richard Plantagenet, Công tước xứ York, người lẽ ra phải là vua, theo luật trưởng nam thừa kế thời đó. Sau cái chết của Công tước York, quyền thừa kế ngai vàng của ông được trao cho con trai, người về sau trở thành vua Edward IV, một bạo chúa háo sắc dẫn đến sự sụp đổ của nhà Lancaster.

Cuốn sách này cũng là câu chuyện về cuộc tranh đấu ác liệt và ngoan cường của một người phụ nữ vì quyền lợi của con trai mình. Bị kẻ thù buộc tội đã đem một đứa con hoang đặt vào chiếc nôi hoàng gia, vợ vua Henry – hoàng hậu Margaret xứ Anjou – đã đứng lên chiến đấu vì vương triều Lancaster trong suốt nhiều năm, chống lại những khó khăn dường như không thể vượt qua nổi để bảo vệ ngôi vua của chồng và con trai mình. Bản thân điều này rất đáng chú ý, vì bà là một người phụ nữ trong thế giới hung bạo của đàn ông, nơi hầu hết nữ giới đều bị coi là những món hàng hóa có thể trao tay, và không có tư cách tham chính.

Còn rất nhiều khuôn mặt người trong tấn tuồng phản trắc và xung đột sẽ diễn ra dưới đây. Con trai của Margaret, Edward xứ Lancaster, vốn tính hung bạo từ nhỏ, đã khiến những người cùng thời không khỏi bàng hoàng trước sự nhẫn tâm sớm bộc lộ của y. Richard Neville, Bá tước xứ Warwick – “Warwick Kẻ Buôn Vua” – là nguyên mẫu của dạng quyền thần hùng mạnh quá mức cuối thời Trung cổ, người đã dựng lên và phế truất các vị vua, thế nhưng lòng trung thành của ông ta, suy cho cùng, chỉ dành cho chính bản thân mình. Chiến tranh Hoa hồng không chỉ dẫn đến sự sụp đổ của một vương triều mà còn cả những đại quý tộc như Warwick.

Tôi đã cố gắng mô tả sâu sát các thành viên của hai gia tộc Lancaster và York như những con người thực sự, có thể nhận diện qua cá tính và điểm yếu của từng người, chứ không chỉ qua những cái tên trên cây gia phả rối rắm. Nhà Beaufort, những đứa con hoang của John xứ Gaunt, hống hách hệt như những ông hoàng trước triều đình và, theo một số người, trên chiếc giường của hoàng hậu. Nhà Tudor cũng là dòng dõi hoàng tộc đáng ngờ, và – giống như nhà Beaufort – trung thành hết mực với nhà Lancaster, gia tộc mà sau này họ nhận quyền thừa kế từ đó. Cuốn sách nhắc đến những vị vua – như Richard II loạn thần và ngông cuồng, kẻ soán ngôi Henry IV, triều đại của ông ta bị hủy hoại bởi các cuộc nổi loạn và bản thân ông thì bị bệnh tật hành hạ; hay chiến binh lạnh lùng Henry V, người hùng của dân chúng, người đã phán đoán sai chính sách đối ngoại dẫn đến đại họa cho con trai mình, Henry VI. Và những vị hoàng hậu: Katherine xứ Valois kiêu sa và vô luân, người tìm kiếm tình yêu với một cận vệ xứ Wales sau cái chết của chồng là vua Henry V; hay Elizabeth Wydville, với nhan sắc lạnh lùng che giấu lòng tham và sự tàn bạo. Bên cạnh những nhân vật này, câu chuyện của chúng ta còn tràn ngập những con người sinh động, bí ẩn hoặc bi thảm, từ Jack Cade khét tiếng, kẻ cầm đầu một cuộc dấy loạn, đến John Tiptoft tàn ác, Bá tước xứ Worcester; và từ rất nhiều lãnh chúa hùng mạnh cho đến hai cô con gái yếu đuối và xấu số của Warwick, Isabel và Anne Neville. Tất cả đều liên quan, bằng cách này hay cách khác, đến cuộc xung đột dữ dội này. Đây quả thực là trường đoạn lịch sử của các phe phái, nhưng chính những người tạo nên các phe phái đó đã khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn đến vậy.

Lịch sử Chiến tranh Hoa hồng đã được thuật lại vô số lần bởi nhiều sử gia, nhưng ngày nay, hẳn sẽ không còn hợp thời nếu nhìn theo quan điểm của nhà Tudor mà cho rằng nguồn gốc của Chiến tranh Hoa hồng nằm ở việc phế truất Richard II, sự kiện xảy ra từ hơn năm mươi năm trước khi cuộc chiến này bùng nổ. Tuy nhiên, thực sự thì nguồn gốc của cuộc xung đột có thể truy ngược đến tận thời điểm đó; để hiểu được các nguyên nhân dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng và di sản triều đại của các nhân vật chính, ta cần ngược lại xa hơn nữa, đến thời kỳ dòng dõi đại quý tộc mang dòng máu hoàng gia được sáng lập bởi vị vua nhiều con cái nhất của vương triều Plantagenet, Edward III. Do đó, cuốn sách này không chỉ thuật lại câu chuyện về Chiến tranh Hoa hồng mà còn bàn về hai nhà Lancaster và York cho đến năm 1471.

Những nguồn sử liệu về thời kỳ này rất ít ỏi và thường không mấy rõ ràng, tuy nhiên, chừng đó nghiên cứu đã được thực hiện trong hàng trăm năm qua cũng đủ để soi sáng đôi chút cho chúng ta về giai đoạn thường được gọi là thời chạng vạng của thế kỷ 15. Nhiều ngộ nhận đã bị loại bỏ, nhưng dù vậy cuộc xung đột vương triều phức tạp này vẫn khiến nhiều người nhầm lẫn. Mục đích xuyên suốt của tôi là loại bỏ sự nhầm lẫn đó và cố gắng trình bày câu chuyện theo trình tự thời gian, nhằm làm rõ các vấn đề về việc kế vị ngai vàng vào thời đại mà không có quy tắc thừa kế nhất định nào được áp dụng triệt để. Tôi cũng cố gắng khiến cho giai đoạn thế kỷ 15 này trở nên sống động bằng cách đưa vào càng nhiều càng tốt những chi tiết về đời sống đương thời trong chừng mực khuôn khổ số trang cho phép, nhằm khiến cho chủ đề này phù hợp với mọi độc giả, dù có chuyên môn học thuật hay không. Nhưng chủ yếu là tôi cố gắng thuật lại một câu chuyện phi thường và tàn khốc về những cuộc tranh giành quyền lực ngôi cao có can dự đến một số nhân vật lôi cuốn nhất trong lịch sử nước Anh.

Câu chuyện này bắt đầu vào năm 1400 với vụ sát hại một vị vua và kết thúc vào năm 1471 với vụ sát hại một vị vua khác. Vụ giết người được cho là kết quả trực tiếp từ vụ kia. Câu chuyện về những gì đã xảy ra từ năm 1400 đến năm 1471, vốn được thuật lại trong cuốn sách này, sẽ là lời hồi đáp cho câu hỏi: Như thế nào?

Alison Weir

Surrey

tháng Hai 1995

Đọc bài viết

Trích đăng

Vào bếp nấu chè trôi nước ngũ sắc đưa ông Táo về trời – Trích “Thơm thảo xôi chè”

Published

on

Vào ngày 23 tháng Chạp hằng năm, ông Công ông Táo sẽ cưỡi cá chép lên Trời để báo cáo với Ngọc Hoàng Thượng đế tất cả những điều tai nghe mắt thấy ở trần gian cả việc tốt lẫn việc xấu và những gì chưa làm được. Từ đó, Thiên đình sẽ đưa ra thưởng phạt rõ ràng cho từng gia đình. Xuất phát từ tín ngưỡng đó, lễ đưa ông Công ông Táo về trời (hoặc gọi ngắn gọn là đưa ông Táo về trời) luôn được tiến hành trọng thể.

Trong ngày này, các gia đình thường làm lễ tiễn ông Táo về trời bằng cách thả cá chép. Ngoài ra, mọi người cũng làm mâm cỗ cúng để bày tỏ lòng thành kính với Táo Quân. Trong Thơm Thảo Xôi Chè, nghệ nhân bánh dân gian Trần Thị Hiền Minh đã khéo léo chia sẻ công thức nấu chè trôi nước ngũ sắc, một món ăn vừa đẹp mắt, vừa ngon miệng và rất thích hợp để bày mâm cỗ cúng ông Táo. Cùng Phương Nam Book tìm hiểu cách làm món này nhé!

CHUẨN BỊ NGUYÊN LIỆU
500g bột nếp
100g khoai lang tím
150g bí đỏ
300g khoai lang trắng
Nước cốt lá dứa, nước lá cẩm
400g đậu xanh bóc vỏ
150g đường cát
10g muối
100ml nước cốt dừa
Phần nước cốt dừa:
300ml nước cốt dừa
700ml nước dão dừa
20g bột gạo
20g bột bắp
5g hành lá
800g đường cát (nấu chè)
150g đường cát (nấu nước cốt dừa)
100g mè trắng
3g muối
100g gừng sẻ

THỰC HIỆN

Sơ chế:
• Mè rửa sạch, rang hoặc nướng trong lò nướng nhiệt 150 độ C đến khi vàng thơm.
• Gừng gọt vỏ, rửa sạch, xắt khoanh mỏng.
• Khoai lang, bí đỏ luộc chín, giã nhuyễn, để riêng từng phần. Chia bột thành 5 phần bằng nhau. Mỗi phần nhồi khoai lang và màu tương ứng cho hòa quyện.
• Dùng nước ấm nhồi với bột nếp đã trộn kỹ theo từng màu, nhồi nhanh tay để bột dẻo. Khi bột gần mịn đều, thêm nước từ từ tránh làm nhão bột, rồi để bột nghỉ 30 phút.
• Đậu xanh vo sạch, ngâm nở 2 giờ, vo lại cho hết nước chua rồi nấu chín, giã nhuyễn. Xào đậu xanh với 100ml nước cốt dừa và 100g đường trên lửa vừa, thêm 10g muối vào cho đậu béo bùi, đậm vị hơn. Khi đậu xanh không dính tay thì tắt bếp, cho hành lá cắt nhuyễn vào trộn đều. Vo viên đậu bằng cỡ trái chanh nhỏ.

Gói viên chè:
• Chia đều bột nếp, mỗi viên khoảng 30g, gói nhân đã chuẩn bị sẵn.
• Bắc nồi nước sôi luộc các viên chè. Khi chín viên chè sẽ nổi lên mặt nước, nấu thêm 2 phút cho viên chè chín kỹ rồi vớt ra ngâm vào nước lạnh.

Nấu chè:
• Cho 2 lít nước vào nồi cùng với 600g đường và vài lát gừng, bắc lên bếp nấu sôi.
• Cho các viên chè vào nồi nấu sôi chừng 5 phút để viên chè thấm đường và vị gừng, nhắc xuống.

Nấu nước cốt dừa:
• Cho nước dão dừa, đường cát, bột gạo, bột bắp, muối và vài cọng lá dứa vào nồi khuấy đều rồi mở bếp ở mức lửa nhỏ, nấu đến khi sôi, khuấy đều tay.
• Tiếp theo chế thêm nước cốt dừa, để hỗn hợp sôi lại, tắt bếp liền.

YÊU CẦU THÀNH PHẨM
• Nước đường trong, ngọt thanh, thơm dịu mùi lá dứa.
• Các viên chè dẻo mềm, không bị nứt hay nhão bề mặt.

Khi ăn, múc chè ra chén, chan nước cốt dừa vào, rắc thêm ít mè rang.

Chè trôi nước ngũ sắc không chỉ đẹp mắt mà còn mang ý nghĩa tượng trưng cho sự đầy đủ, may mắn và sự hòa hợp của năm mới. Khi thưởng thức, bạn sẽ cảm nhận được vị ngọt thanh của đường, vị béo của nước cốt dừa và độ dẻo dai của vỏ bánh trôi kết hợp hài hòa với nhân đậu xanh thơm ngon.

Thơm Thảo Xôi Chè là món quà dễ thương dành tặng những ai đam mê nấu nướng bởi nó không chỉ đẹp về hình thức mà còn hấp dẫn về nội dung. Ngoài việc hướng dẫn tỉ mỉ các công thức nấu, tác giả còn khéo léo thuật lại cuộc phiêu lưu ẩm thực qua hành trình tìm kiếm các sản vật quý địa phương. Cuốn sách dù đơn sơ, mộc mạc nhưng đã phần nào truyền tải thành công tình yêu nghề của người đầu bếp và trên tất cả là sự tinh tế của nền ẩm thực nước nhà.

Mời bạn tìm mua sách tại đây. Nếu có làm theo các công thức trong sách thì bạn nhớ chia sẻ cho Bookish biết với nha!

Chúc bạn một mùa Tết bình an và sung túc bên gia đình.

Đọc bài viết

Trích đăng

Trích đăng “Hành trình người viết” – Christopher Vogler

Published

on

Trích từ: Hành Trình Người Viết
Tác giả: Christopher Vogler
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2024
Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH

“Loài người thật ra chỉ có tầm hai hay ba câu chuyện thôi,

và chúng được lặp đi lặp lại mải miết cứ như lần đầu được kể.”

— Willa Cather, trong O Pioneers!

Về lâu dài mà nói, Người Hùng Mang Ngàn Gương Mặt của Joseph Campbell là một trong những quyển sách có sức ảnh hưởng lớn nhất thế kỷ 20.

Những tư tưởng mà quyển sách truyền tải đang ảnh hưởng to lớn tới cách thức kể chuyện. Các tay viết đang dần nhận thức rõ hơn về các hình mẫu trường tồn mà Campbell đã đưa ra, và góp phần làm giàu thêm bằng chính công sức của họ.

Hiển nhiên Hollywood cũng đã nhận ra công trình của Campbell hữu ích thế nào. Những nhà làm phim như George Lucas và George Miller đều bày tỏ lòng biết ơn tới Campbell, tầm ảnh hưởng của ông còn được thể hiện trong các phim của Steven Spielberg, John Boorman, Francis Coppola, Darren Aronofsky, Jon Favreau, và nhiều người khác.

Không có gì ngạc nhiên khi Hollywood rất ưng các tư tưởng mà Campbell trình bày trong tác phẩm của mình. Những khái niệm ông đưa ra như hộp dụng cụ vào nghề cho biên kịch, nhà sản xuất, nhà thiết kế… Chúng ẩn chứa đầy đủ các công cụ chắc chắn để phục vụ hoàn hảo cho mục đích sáng tác. Những công cụ này cho phép người dùng dựng nên câu chuyện đáp ứng đủ loại tình huống, một câu chuyện vừa có thể ẩn chứa bi kịch, lại vừa mang tính giải trí, và còn chuẩn xác về mặt tâm lý. Chúng cho phép người dùng chẩn đoán mọi vấn đề ẩn chứa trong các kịch bản khó nhằn, cũng như cung cấp giải pháp chỉnh sửa để đưa kịch bản lên tới tầm khả thi đỉnh cao của nó.

Thời gian là bảo chứng rõ ràng nhất cho tác dụng của hộp đồ nghề này. Chúng tồn tại lâu đời hơn cả những kim tự tháp, vòng tròn đá Stonehenge hay những hình vẽ sơ khai trên vách hang động.

Bộ công cụ này được Joseph Campbell hoàn thành khi ông bỏ công sức góp nhặt và quy mọi nhánh tư tưởng về một mối, sau đó nhìn nhận, diễn giải, đặt tên, và sắp xếp lại toàn bộ. Chính ông là người đầu tiên đem những hình mẫu chứa đựng trong các câu chuyện ra ánh sáng.

Người Hùng Mang Ngàn Gương Mặt là bản báo cáo của Campbell về cấu trúc bền vững nhất trong văn học, xét cả văn nói lẫn văn viết: thần thoại về người anh hùng. Trong nghiên cứu của mình về thế giới thần thoại, Campbell nhận ra rằng về bản chất mọi câu chuyện đều y hệt nhau, một cấu trúc lặp đi lặp lại bất tận với vô hạn biến thể.

Ông nhận ra rằng trong mọi cách kể chuyện, dù vô tình hay hữu ý, thì cũng theo các khuôn mẫu cổ đại từ thần thoại. Và mọi câu chuyện, từ những chuyện đùa thô thiển nhất cho tới đỉnh cao văn học, đều có thể diễn giải dựa trên Hành Trình Anh Hùng: vòng lặp hành trình cùng các nguyên tắc của nó.

Các hình mẫu trong Hành Trình Anh Hùng mang tính chung nhất, áp dụng ở bất kỳ nền văn hóa, bất kỳ thời điểm nào. Hệt như chính loài người chúng ta, khả năng biến thể tái lặp của các hình mẫu là vô hạn, dẫu cho bản chất nguyên thủy không hề thay đổi. Hành Trình Anh Hùng là một chuỗi các yếu tố bền bỉ bật lên từ sâu thẳm nhất trong tâm trí con người, có khác biệt qua các nền văn hóa, nhưng về bản chất vẫn là một.

Suy nghĩ của Campbell cũng song hành với nhà tâm lý học người Thụy Sỹ Carl G. Jung, người từng viết về các cổ mẫu (hoặc nguyên mẫu) như sau: chúng là những nhân vật hoặc nguồn năng lượng được lặp lại, liên tiếp, xuất hiện trong giấc mơ của mọi người và các câu chuyện thần thoại trong mọi nền văn hóa. Jung cũng gợi ý rằng những nguyên mẫu trên phản ánh những khía cạnh khác nhau của tâm trí con người, rằng bản dạng của chúng ta được phân thành nhiều tính cách để đối ứng với những thăng trầm khác nhau của cuộc đời. Ông nhận ra có sự tương thích mạnh mẽ giữa các hình ảnh trong giấc mơ của bệnh nhân mình chăm sóc với các cổ mẫu trong thần thoại. Ông cho rằng cả hai đều xuất phát từ những nguồn sâu thẳm hơn: vô thức tập thể (collective unconscious) của loài người.

Những nhân vật được lặp đi lặp lại trong thế giới thần thoại cũng chính là những thứ thường xuyên xuất hiện trong giấc mơ và tưởng tượng của chúng ta: các anh hùng trẻ tuổi, những bô lão thông thái, người biến hình, và các nhân vật phản diện núp trong bóng tối. Điều đó lý giải tại sao thần thoại và các câu chuyện được dựng nên từ hình mẫu của chúng đều chứa đựng triết lý về tâm lý.

Các câu chuyện như thế là những hình mẫu chính xác cho việc khai thác tâm trí con người, bản đồ chân thực của tâm hồn. Chúng chính xác về mặt tâm lý, và đưa ra cảm xúc chân thật ngay cả khi được dùng để diễn giải các sự kiện siêu phàm, phi thường, phi thực tế.

Vì lẽ đó, các câu chuyện trên đều sở hữu tính phổ quát. Bất cứ ai cũng có thể cảm thụ được sức hấp dẫn của những câu chuyện dựa trên mô hình Hành Trình Anh Hùng, chính bởi nguồn gốc phổ quát và phản ánh được vạn vật tự nhiên.

Chúng giải thích những câu hỏi phổ biến thuở còn trẻ thơ của mọi người: Tôi là ai? Tôi đến từ đâu? Khi chết rồi tôi sẽ tới đâu? Thiện ác là gì? Tôi phải đối phó với chúng ra sao? Ngày mai sẽ thế nào? Ngày hôm qua đã trôi về đâu? Bên ngoài kia còn ai không?

Những tư tưởng được lồng vào trong thần thoại, sau đó được Campbell định dạng lại trong tác phẩm Người Hùng Mang Ngàn Gương Mặt có thể được dùng để thấu hiểu hầu hết vấn đề nhân sinh. Chúng là chìa khóa hữu ích cho cuộc sống, cũng như công cụ hiệu quả để lôi cuốn đám đông khán giả.

Nếu bạn muốn hiểu rõ các tư tưởng đằng sau Hành Trình Anh Hùng, chẳng có cách nào khác ngoài việc tìm đọc tác phẩm của Campbell. Đó sẽ là trải nghiệm thay đổi đời người.

Đọc nhiều thần thoại cũng là ý hay, nhưng đọc sách của Campbell thì hiệu quả cũng chẳng khác là bao bởi lối kể chuyện bậc thầy, và ông cũng thích minh họa những luận điểm bằng ví dụ lấy từ chính kho tàng thần thoại đồ sộ.

Trong Chương 4 của Người Hùng Mang Ngàn Gương Mặt có tên “Những Chiếc Chìa Khóa”, Campbell đã đưa ra dàn bài cho Hành Trình Anh Hùng. Tôi đã mạn phép thay đổi dàn bài một chút, cố gắng phản ánh thêm về các chủ đề phổ biến trong điện ảnh bằng các minh họa trích từ các bộ phim đương đại, và cả một vài phim cổ điển khác. Độc giả có thể so sánh hai dàn bài và các thuật ngữ thông qua Bảng 1 ngay dưới đây.

HÀNH TRÌNH NGƯỜI VIẾTNGƯỜI HÙNG MANG NGÀN GƯƠNG MẶT
HỒI MỘTKHỞI HÀNH, LY BIỆT
Thế Giới Bình Phàm
Tiếng Gọi Phiêu Lưu
Lời Từ Chối
Gặp Gỡ Sư Phụ
Vượt Ải Đầu Tiên
Thế Giới Thường Nhật
Tiếng Gọi Phiêu Lưu
Lời Từ Chối
Sự Trợ Giúp Siêu Nhiên
Vượt Ải Đầu Tiên
Bụng Cá Voi
HỒI HAIDẤN THÂN, KHỞI ĐẦU, VƯỢT QUA
Thử Thách, Đồng Minh, Kẻ Thù
Tiếp Cận Hang Động Trong Cùng
Khổ Hình   



Phần Thưởng
Con Đường Thử Thách 

Gặp Gỡ Nữ Thần
Ải Mỹ Nhân
Chuộc Tội Cùng Thánh Thần
Sự Sùng Bái
Ân Huệ Tối Thượng
HỒI BATRỞ VỀ
Con Đường Trở Về




Hồi Sinh
Quay Về Cùng Thần Dược
Từ Chối Trở Về
Hành Trình Kì Diệu
Sự Giải Cứu
Vượt Qua Thử Thách
Trở Về
Bậc Thầy Ở Hai Thế Giới
Tự Do Để Sống
BẢNG 1
So sánh dàn bài và thuật ngữ

Tôi sẽ kể lại giai thoại Anh Hùng theo cách riêng mình, và độc giả cũng nên làm tương tự. Mọi tay viết đều có thể nhào nặn các hình mẫu thần thoại theo mục đích riêng, hoặc theo nhu cầu của một nền văn hóa cụ thể nào đó.

Đó là lý do tại sao người hùng lại có muôn vàn gương mặt.

Một chú thích về thuật ngữ “anh hùng” được dùng ở đây, cũng tương tự như “bác sĩ”, hay “nhà thơ”, hoàn toàn có thể chỉ bất kỳ giới tính nào.

HÀNH TRÌNH ANH HÙNG

Dẫu cho có muôn vàn biến thể, bản chất câu chuyện về Anh Hùng luôn là một hành trình. Họ từ bỏ cuộc sống dễ chịu quen thuộc cố hữu để dấn thân vào thế giới xa lạ đầy thử thách. Đó có thể là một hành trình hướng ngoại đến một địa điểm cụ thể nào đó: một mê cung, một khu rừng, hay một hang động, một thành phố, một quốc gia xa lạ, một địa điểm mới toanh, nơi sẽ trở thành võ đài cho chính họ chiến đấu với những thế lực phản diện khó nhằn.

Nhưng cũng có nhiều câu chuyện đưa ra hành trình hướng nội, tìm về tâm trí, trái tim, linh hồn của con người. Trong bất kỳ câu chuyện hấp dẫn nào cũng chứa đựng hành trình trưởng thành và thay đổi của nhân vật chính: từ tuyệt vọng đến hy vọng, từ yếu ớt đến mạnh mẽ, từ điên cuồng đến khôn ngoan, từ yêu thành hận, và ngược lại. Những hành trình đầy cảm xúc này mê hoặc khán giả và tăng cường giá trị theo dõi của chính câu chuyện.

Có thể nhận ra các chặng đường trên Hành Trình Anh Hùng ở khắp mọi câu chuyện, không chỉ gói gọn trong các phiên bản phiêu lưu hành động nảy lửa. Nhân vật chính luôn là người hùng trong mọi hành trình, dù cho con đường phiêu lưu kia chỉ xoay quanh tâm lý hay những mảng quan hệ của họ.

Các chặng trong Hành Trình Anh Hùng xuất hiện và liên kết theo một lẽ tự nhiên, ngay cả khi người viết chẳng hề để ý tới, nhưng những kiến thức góp nhặt từ kho tàng xa xưa này vẫn chứng tỏ độ hữu dụng trong việc nhìn nhận vấn đề và cải thiện cách kể chuyện. Hãy xem 12 chặng đường này như một địa đồ cho Hành Trình Anh Hùng, không chỉ để soi rọi đường đi, mà còn là con đường bền bỉ, linh hoạt, và đáng tin cậy bậc nhất.

CÁC CHẶNG ĐƯỜNG TRONG HÀNH TRÌNH ANH HÙNG

1. THẾ GIỚI BÌNH PHÀM

2. TIẾNG GỌI PHIÊU LƯU

3. LỜI TỪ CHỐI

4. GẶP GỠ SƯ PHỤ

5. VƯỢT ẢI ĐẦU TIÊN

6. THỬ THÁCH, ĐỒNG MINH, KẺ THÙ

7. TIẾP CẬN HANG ĐỘNG TRONG CÙNG

8. KHỔ HÌNH

9. PHẦN THƯỞNG (ĐOẠT LẤY GƯƠM BÁU)

10. CON ĐƯỜNG TRỞ VỀ

11. HỒI SINH

12. QUAY VỀ CÙNG THẦN DƯỢC

Đọc bài viết

Cafe sáng