Phía sau trang sách

Bạn đã đọc Don Quixote chưa?

Published

on

Đối với độc giả Tây phương, một câu hỏi như vậy có thể làm họ bực mình. Nhưng số phận của Cervantes cũng giống như của Homer, Dante, hoặc Goethe: họ vừa nổi tiếng vừa bị lãng quên, như thể hào quang của tác phẩm làm cho độc giả (phải) bỏ chạy!

Đi trước Tartarin de Tarascon của Alphonse Daudet, Don Quixote đã từng võ trang đến tận răng để chiến đấu với mấy con sư tử… ở trong chuồng. Cũng may sư tử không thèm chấp nhặt mấy trò trẻ con; khi cửa chuồng mở ra, con vật hào hoa phong nhã, được “ăn học” đàng hoàng (“le noble animal, fort bien élevé”) nhìn ngang nhìn dọc rồi quay mông về phía Don Quixote, tiếp tục dỗ giấc ngủ trưa của nó. Và Don Quixote đáng yêu của chúng ta quay qua người hầu Sancho: Tới Madrid, nếu Đức Vua có hỏi tên ta, mi hãy nói, ta là Hiệp Sĩ Sư Tử, không còn là Hiệp Sĩ Mặt Buồn nữa.

Tạp chí Văn Học Pháp số tháng Mười năm 1997 đặc biệt viết về “Cervantes: Don Quixote hay là sự phát minh tiểu thuyết hiện đại”. Có Carlos Fuentès, một nhà văn lão thành người Mexico, với bài viết: “Cervantès hay là phê bình việc đọc (sách)”. Liên hệ giữa tác giả và đất nước Tây Ban Nha là đầy trăn trở, xung đột: “Họ là kẻ khác, của chính chúng tôi. Tây-ban-nha, mặt trời và bóng đêm, nửa yêu thương nửa hận thù. Gọi một tên thôi: Đam mê”. Trả lời câu hỏi: liệu Don Quixote chết cô đơn? Ông nói: Marthe Robert đã đưa ra câu trả lời chung quyết: Don Quixote chết ngay khi anh ta trở thành có lý, nhưng cuốn sách của anh ta không chết, nó tiếp tục sống, như một bảng chỉ dẫn, tham khảo về những điều khả thể. Lần đầu tiên trong lịch sử văn chương, một nhân vật biết (rằng) người ta đang viết (về anh) cùng lúc anh sống những cuộc phiêu lưu giả tưởng. Đây là một nạn nhân kép: Don Quixote mất lý trí, không phải một, mà tới hai lần; lần đầu, khi anh ta đọc, lần thứ nhì, bị đọc.

Tranh minh họa được thực hiện bởi Gustave Doré, 1863 Paris Hachette edition.

Juan Benet, một tác giả khác, trong cùng số báo cho rằng, Cervantes quyết định tự ban cho mình một huyền thoại riêng, không vay ai, không mượn lịch sử, truyền thuyết, tôn giáo, huyền thoại học… Nói ngắn gọn, ông phát minh ra cái gọi là: phát minh văn chương.

“Sự bắt chước Đức Ông Don Quixote của chúng ta” là nhan đề bài viết của Simon Leys trên tờ The New York Review số đề ngày 11 tháng Sáu 1998. Theo ông, qua những cuộc tranh luận này nọ, từ “quixotic” gần như có nghĩa một sự sỉ nhục, và điều này khiến ông ngỡ ngàng. Cung cách mọi người khi nhắc tới Don Quixote làm cho bạn tự hỏi, không hiểu người đó đã (thực sự) đọc tác phẩm hay chưa. Thật cũng thú vị, nếu có ai đó bỏ công tìm hiểu, liệu Don Quixote có được đọc một cách đại trà, đúng như tính bình dân của nhân vật này không. Nhưng chớ đụng đến những con người có học, bởi vì theo họ, có một số tác phẩm mọi người (phải) đọc – đây là một bổn phận, do bắt buộc của tri thức. Còn Leys thú nhận ông chỉ đọc vì thích thú.

Theo ông, người ta thường có cảm tưởng những nhà phê bình thực sự không thích văn chương: họ không “tận hưởng” (hưởng thụ, thưởng thức) cái thú đọc sách. Tệ hơn nữa, họ thường tỏ ra nghi ngờ, nếu không muốn nói là dè bỉu, những cuốn ăn khách. Dưới mắt họ, cái gì vui, gây cười thường không quan trọng hoặc không nghiêm túc. Buồn một nỗi, thái độ của họ đã tiêm nhiễm vào chúng ta một cách vô thức, đưa đến hậu quả: chúng ta quên đi rằng, cho tới nay, những đại tác phẩm đều được viết ra cho đại chúng và để mua vui cho họ: từ Rabelais, Shakespeare và Molière của thời cổ điển tới những tiểu thuyết gia khổng lồ thế kỷ 19 – Balzac, Dumas, Hugo, Dickens, Thackeray – quan tâm chính của những nhà sáng tạo văn chương không phải là để được sự chấp nhận của giới kinh viện, của những chuyên viên thưởng ngoạn (một việc làm tưởng khó tuy dễ), mà là để sờ mó tới người ngoài phố, làm cho anh ta cuời, khóc, và đây là một nhiệm vụ khó khăn vô cùng. Nhìn theo cách đó, Don Quixote đã đạt tới mức tối hảo của thể loại văn chương cổ điển: viết cho nhiều người đọc, càng nhiều bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Và nếu thu được lợi nhuận thì càng nhiều bao nhiêu, càng vui bấy nhiêu!

Tranh minh họa được thực hiện bởi Gustave Doré, 1863 Paris Hachette edition.

Bản thân Cervantes chẳng có gì làm người đọc liên tưởng tới những nhà sáng tạo đại tác phẩm. Nguyên là một anh lính quèn, bị thương và trở thành đồ bỏ; bị hải tặc tóm, đem bán làm nô lệ ở Bắc Phi, cuối cùng lê về được cố hương Tây Ban Nha, chắc chắn chỉ để chết trong nghèo khổ. Đã từng nếm mùi nhà tù vài lần, đời ông đúng là một cuộc tranh đấu để sinh tồn. Đã từng vài phen viết lách để kiếm ăn, nhưng không thành công: nào kịch, tiểu thuyết đồng quê, hầu hết đã mất dạng, chút còn lại cũng chẳng ghê gớm gì. Chỉ đến gần chót đời, khi đã 59 tuổi, với Don Quixote xuất hiện vào năm 1605, ông mới vớ trúng mỏ vàng: liền lập tức, cuốn sách là một best-seller. Tác giả của nó chết một năm sau khi phần nhì, và cũng là phần cuối của cuốn sách được xuất bản (1615).

Tìm hiểu động cơ khêu gợi trí tưởng tượng của Cervantes, chúng ta ngỡ ngàng: ông đã coi cuốn sách như bộ máy chiến tranh (“une machine de guerre”) nhằm chống lại nền văn chương hiệp sĩ, vốn thời thượng lúc đó, và đã dồn hết cả sức lực vào mục tiêu này. Như chúng ta biết, toàn thể cấu trúc của cuốn sách thật giản dị và được đề ra ở ngay vài trang đầu trong Chương Một; hàng ngàn trang tiếp theo chỉ lặp đi lặp lại những ứng dụng của nó vào trong những tình huống khác biệt. Hàng trăm biến điệu (variations), cũng một đề tài. Don Quixote, một trưởng giả nhà quê, tốt tính, khôn ngoan, có học, có ít tiền, nhưng thừa thì giờ, cho nên đã mắc nghiền văn chương hiệp sĩ lang thang, như lời ông nói: “Ông ta chẳng việc gì để làm, đành chúi mũi vào văn chương hiệp sĩ lang thang, nó làm ông say mê, quên cả việc săn bắn, chăm sóc nhà cửa, đến nỗi cứ bán dần cơ ngơi để mua sách… (cuối cùng) chết đắm chết đuối trong mớ sách vở, đọc đêm quên ăn, ngày quên ngủ, não bộ khô kiệt, mất luôn sự hiểu biết, túi khôn..  Rồi ông quyết định biến chính mình thành một hiệp sĩ lang thang, quên một điều, thời đại hiệp sĩ lang thang đã qua từ lâu rồi. Sau cùng, ông thức giấc từ cơn mộng, khám phá ra rằng, tất cả những cuộc phiêu lưu tận cùng bằng thất bại, chúng biến ông thành nạn nhân của sự độc ác; điều ông săn đuổi như một chủ nghĩa anh hùng phi lý thật sự chỉ là ảo mộng! Khám phá sau cùng là tận cùng của thất bại: ông chết vì vỡ tim”.

Cái chết của Don Quixote ở trang cuối là tuyệt đỉnh của không khí toàn câu chuyện. Đố bạn đọc đến đây mà không rớt nước mắt. Điều làm Leys ngạc nhiên là, một tác phẩm lớn lao như thế, tại sao lại bắt nguồn từ một thông điệp chật hẹp như vậy: viết chỉ để chống lại thứ văn chương kiếm hiệp ba xu, rẻ tiền? Và Leys nhớ đến câu chuyện về Hemingway, khi trả lời một ký giả về những thông điệp trong tác phẩm của ông: Chẳng có thông điệp nào ở trong đó. Khi cần gửi thông điệp, tôi tới Bưu Điện.

Sẽ có người bực mình thốt lên: Sao? Không có thông điệp trong những tác phẩm lớn của văn chương thế giới? Lẽ dĩ nhiên, nhiều nhà văn, thi sĩ nghĩ rằng, họ có những thông điệp để truyền đi, nhưng thường thường, sau cùng họ đều nhận ra: những thông điệp như thế chẳng quan trọng chi, như thoạt đầu họ nghĩ. Hầu hết những độc giả bây giờ chẳng thèm để ý đến thần học thời Trung Cổ khi say mê Dante. Và đây là lời khuyên của D. H. Lawrence: Đừng bao giờ tin tưởng các văn sĩ. Hãy tin câu chuyện kể. Chức năng chính hiệu của một phê bình gia, đó là cứu vớt câu chuyện ra khỏi văn sĩ – kẻ tạo ra nó.

Một trong những phê bình gia bị dội khi đọc Cervantes đó là Nabokov. Thoạt đầu, khi phải soạn giáo án, ông tính dựa vào hồi ức khi còn trẻ, ông rất mê cuốn sách. Nhưng ông thấy cần phải trở lại với bản văn. Và ông hết sức phẫn nộ về những sự độc ác, tàn nhẫn, dã man của cách kể chuyện. Ông so sánh sự độc ác dã man với sự sỉ nhục Christ, với những trò tra tấn bách hại của những mật vụ nhà thờ người Tây Ban Nha (Spanish Inquisition) với trò đấu bò hiện đại. Ông tỏ vẻ hết sức thích thú khi kể tội Cervantes, làm thịt cuốn sách trước thính giả là những sinh viên của ông; khiến đồng nghiệp bực mình và cảnh cáo: Harvard nghĩ khác. Vài năm sau, ông xin chân giảng dạy tại đây và bị bác đơn, ông cảm thấy thật cay đắng, chua chát vì cái tát gió này. Chắc còn nhiều nguyên nhân, nhưng không thể loại trừ thái độ của ông đối với Cervantes. Trong những nghiên cứu của ông về tác phẩm, có một sự thật thú vị: Nabokov chứng minh rằng, giải pháp cho từng cuộc phiêu lưu của Don Quixote, là gần như không thể tiên đoán được; ông còn so sánh những cú làm bàn và bị ghi bàn – những chiến thắng và thất bại của Don Quixote – với trò chơi quần vợt, thật nghẹt thở: 6-3, 3-6, 6-4, 5-7. Nhưng ván chót chẳng bao giờ xẩy ra: Cái chết đã xóa sạch tất cả.

Sự ghê tởm đã khiến ông nghỉ chơi với cuốn sách trong suốt thời gian dạy đại học Cornell: ông không dám đề cập tới nó nữa. Nhưng thái độ thù nghịch này, thực ra là do sự ngưỡng mộ đối với nhân vật của Cervantes, như đoạn cảm động sau đây: [Don Quixote] đã rong ruổi 350 năm xuyên qua những rừng rậm, những hoang địa khô cằn, là tư tưởng nhân loại; và anh ta đã có được sự sống động và phong thái. Chúng ta đừng cười anh ta nữa. Huy hiệu của anh ta, đáng thương, lá cờ của anh, đẹp. Anh ta là hiện thân của tất cả những gì dịu dàng, trinh nguyên, không một chút vị kỷ, và tính nịnh đầm.

Theo Kundera, Nabokov đã đưa ra một nhận định tiêu cực, đầy tính gây hấn về Don Quixote: quá lố, ngây ngô, lặp đi lặp lại, đầy những sự độc ác không thể chịu nổi, không thể tin được; cuốn sách cay đắng, chua chát, dã man nhất cho tới nay đã được viết ra. Nhưng chúng ta không ở trong thế giới của Zola, khi một hành động độc ác nào đó, được miêu tả thật tỉ mỉ, trở thành một tài liệu chính xác của thực tại xã hội.  Don Quixote bị chèn ép, trở nên không thể hiểu được, khi đụng phải tinh thần Zola, hoặc Mỹ học Lãng mạn, vốn đòi hỏi sự xác tín.

Trong những tác giả tắm đẫm văn hóa Tây Ban Nha là nhà văn Pháp Henry de Montherlant; ông sống ở đó, rành rẽ ngôn ngữ Tây Ban Nha, và đã từng học nghề đấu bò. Ông đọc đi đọc lại nguyên tác bốn lần, và rất khó chịu vì sự thô bỉ của Cervantes, khi ông đụng tới một nhân vật cao cả, kiểu thánh nữ của tiểu thuyết lãng mạn.  Ngoài ra theo ông, cuốn truyện quá dài, nhiều câu chuyện diễu vô vị và độc ác. Phản ứng của ông tương tự như của Nabokov, và điều ông bực nhất, đó là Cervantes chẳng hề đưa ra một lời cảm thông nào cho nhân vật, cũng chẳng hề kết tội về những trò độc ác nhắm vào anh. Nhưng đây chính là nghệ thuật của Cervantes: Những điều chỉ trích ông chính là sức mạnh nghệ thuật của ông: sự bí mật của cái điều giống như chính cuộc đời: Ai trong số chúng ta dám tin rằng cuộc đời vốn thiện vốn mỹ, vốn không hề có sự độc ác? Chúng ta càng thù tác giả bao nhiêu, chúng ta càng tin vào thực tại thế giới của ông, và những nhân vật ông tạo ra.

“Ông chủ hãy coi kìa,” Sancho nhắc đi nhắc lại, “những vật trông giống như những người khổng lồ ở dưới kia thực sự không phải là những người khổng lồ, nhưng mà là những cối xay gió.” Nhưng ông chủ của anh không nhìn: Don Quichotte đọc, và cái đọc của anh nói rằng, đây là những người khổng lồ. Cuốn sách đưa ra một vấn nạn về tác phẩm lớn: lớn là lớn với đời sống, hay với những cuốn sách?

Tranh minh họa được thực hiện bởi Gustave Doré, The Project Gutenberg EBook.

*

Trong những ngụ ngôn về Quixote, có một của Jorge Luis Borges: “Một Bài Toán”. Sau đây là tóm tắt:

Chúng ta hãy tưởng tượng, người ta tìm thấy ở Toledo một bản văn bằng tiếng Arabic, được coi như thủ bản của Cide Hamete Benengeli, tác phẩm của Cervantes đã thoát thai từ đó. Qua bản văn chúng ta đọc thấy vị anh hùng (vốn nổi tiếng, đã lang thang khắp xứ Tây Ban Nha, trang bị với cây gươm và ngọn giáo, gặp ai cũng thách đấu, chẳng cần lý do gì hết), vị anh hùng khám phá ra rằng, sau một trong những cuộc chiến đấu như thế, anh ta đã giết chết một người. Tới đây bản văn đứt đoạn, và bài toán đặt ra là: hãy thử đoán coi Don Quixote xử sự ra sao?

Theo như tôi được biết, có thể có ba câu trả lời. Câu đầu có tính tiêu cực, nghĩa là, chẳng xảy ra chuyện gì hết, bởi vì trong thế giới hoang tưởng của Don Quixote, cái chết cũng tầm phào như chuyện huyền hoặc, và sự kiện giết chết một người chẳng làm phiền cá nhân đang chiến đấu, hoặc tin rằng anh ta đang chiến đấu, với những quái vật huyền hoặc, và với đám phù thuỷ. Câu trả lời thứ nhì thuộc về bệnh lý.

Don Quixote không hề bao giờ quên một điều, anh ta chỉ là phóng bản của Alonso Quijano, độc giả của những chuyện huyền hoặc; sự kiện nhìn thấy cái chết, hiểu rằng giấc mơ đã đẩy anh ta tới tội ác của Cain, điều này đã đánh thức anh ta, có lẽ hoài hoài, ra khỏi cơn điên khùng.

Câu trả lời thứ ba có lý hơn cả. Một khi người đàn ông chết, Don Quixote không thể cho rằng hành động giết người ghê tởm chỉ là sản phẩm của cơn điên rồ… thế là Don Quixote không làm sao ra khỏi cơn điên của anh.


Câu trả lời chót lại đẩy chúng ta trở về điểm xuất phát: thế nào là tác phẩm lớn? Lớn là lớn với văn chương, hay với cuộc đời?


Hết.

Nguyễn Quốc Trụ

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng