Trà chiều

9 phim điện ảnh dựa trên cuộc đời thật của các nhà văn nổi tiếng

Published

on

Đối với người đọc, các cuốn sách có sức hút hơn cả, được phù phép từ trí tưởng tượng và những câu từ quyến rũ, lôi kéo chúng ta bước vào một thế giới mới, trải nghiệm một cuộc đời mới và những giá trị mới. Nhưng đôi khi, vượt ra ngoài bản thân cuốn sách, cuộc đời của những vị tác gia, những người đã khai sinh ra các câu chuyện, cũng có sức hấp dẫn không kém.

Những vị nghệ thuật gia bị dày vò bởi trớ trêu cuộc sống, những người kiên định vượt qua số phận, và những người dùng văn chương để lấp đầy nội tâm trống rỗng của mình. Chúng ta khao khát tìm hiểu về cuộc đời các nhà văn vì hiểu thêm về họ là tiến gần một chút đến giá trị đằng sau câu chữ; hoặc đơn giản là vì bản tính tò mò của con người mà thôi – ai mà chẳng muốn biết thêm chút ít về cuộc sống lạ thường của một vĩ nhân!

Với sự tò mò nguyên bản ấy, Bookish xin giới thiệu tới các độc giả 9 tác phẩm điện ảnh lấy cảm hứng từ chuyện đời thật – việc thật của các nhà văn nổi tiếng trên thế giới.

1. Mary Shelley (2017)

Bước vào thế giới của Mary Shelley, bạn sẽ được thưởng ngoạn một bữa tiệc thị giác: ánh nến chờn vờn và bút lông sột soạt, áo choàng thời Regency, và (tất nhiên) những thước phim đầy tính thẩm mỹ, khắc họa quá trình viết cuồng nhiệt, say mê nhưng kỷ luật khổ ải. À, thêm các quý ông quý cô xinh như hoa, diễn giải văn chương với thứ tiếng Anh nhấn âm ngân nga chuẩn mực.

Nhưng thay vì nhồi sọ chúng ta – và nhồi nhét Mary Shelley – vào trong bức nền đặc sệt chất cổ điển và quá vãng, thì phim và nhân vật trung tâm lại được tô điểm bằng các nét bút hiện đại, với lối diễn xuất tinh tế và thông minh của Elle Fanning. Cuộc đời của Mary được kể lại từ những ngày cô dành thời gian sáng tác bên cạnh mộ mẹ mình tại nghĩa trang London (mẹ của cô, Mary Wollstonecraft là một nữ tác gia nữ quyền nổi tiếng trong thế kỷ XVIII, người đã viết tác phẩm Minh chứng về Quyền của Phụ nữ); đến khi cô gặp Percy Bysshe Shelley, một trong những nhà thơ tài năng nhất Anh Quốc – một quý ông trẻ tuổi, đẹp trai và là người tình tận tụy của Chủ nghĩa Lãng mạn ong bướm. Với những vần thơ tinh tế, một đức tin mãnh liệt vào ái tình tự do, chàng đã thuyết phục Mary bỏ trốn cùng mình, sẵn sàng cho những cuộc phiêu lưu hương sắc và văn thơ lồng lộng trước mắt.

Hóa ra cuộc sống đầy những bất ngờ không ai mong muốn. Mary, lúc này mới 16 tuổi, đã mang thai. Bi kịch hôn nhân giữa Mary và Peter xuất hiện, và phim nhấn mạnh sự khác biệt giữa lý thuyết và thực tế của bình đẳng giới. Từ đó, những bất mãn, khổ đau, kiềm nén và nhất là sự qua đời của đứa con đã kết tinh lại trong tác phẩm nổi tiếng nhất của Mary Shelley: Frankenstein.

Phim là một lời khẳng định và gợi nhắc cần thiết về tài năng và di sản văn học của Mary Shelley, cũng như đưa người xem khám phá thế giới văn chương Anh Quốc thế kỷ XIX – một thời đại giàu có về mặt tinh thần, vừa quyến rũ theo lối cổ kính mà sục sôi lý tưởng hiện đại.

2. Wilde (1997)

“Sự đồi bại,” Oscar Wilde nói, “là một chuyện hoang đường do những kẻ đạo đức bịa đặt ra để lý giải cho sự quyến rũ và tò mò của người khác.” Bản thân Oscar Wilde cũng được kha khá người công nhận là người đàn ông đồi bại (và quyến rũ) nhất – một nghệ sĩ thiên bẩm, kẻ phải chịu đày đọa hi sinh vì những gông cùm lễ nghĩa trong xã hội Victorian.

Trong thời đại của Wilde, đồng tính dù trái pháp luật nhưng vẫn tương đối phổ biến. Đa số họ kiềm nén xúc cảm của mình, hoặc giữ các mối quan hệ kín tiếng và tránh xa quan tòa nhất có thể. Oscar Wilde chỉ xui xẻo khi rơi vào lưới tình với Alfred Douglas, một chàng trai trẻ phù phiếm, rỗng tuếch và bốc đồng – người lợi dụng mối quan hệ với Wilde để khiêu khích cha mình và danh tiếng của Wilde để trục lợi cá nhân. Dĩ nhiên là cha của Alfred, một hầu tước giàu có và quyền uy, đã làm mọi cách để tống Oscar Wilde vào tù rồi.

Đang đứng trên đỉnh cao danh vọng – sau khi vở kịch Tầm quan trọng của sự thành tâm (The Important of Being Earnest) mở màn thành công rực rỡ vào năm 1895, Wilde đột ngột bị kết tội “dung tục bẩn tưởi” (một sự ám chỉ bóng gió đến mối quan hệ đồng tính) và ngồi tù vài năm đến khi chết trong sự nghèo khổ và sa sút. Một thế kỷ sau, danh tiếng của ông lại lần nữa vút bay trong văn đàn nói riêng và văn hóa đại chúng nói chung, bằng chứng là tác phẩm điện ảnh tiểu sử Wilde tái hiện tại những thăng trầm trên sân khấu và trong cuộc sống của ông.

Wilde có sự tham gia của Stephen Fry – một tác giả và diễn viên hài người Anh. Ngoại hình của Fry có nhiều điểm tương đồng với Oscar Wilde, và ông cũng là người đồng tính. Stephen Fry đem đến chiều sâu và sự lịch lãm, nói lên những điều cần nói về về vị “tác gia đồi bại” kia: rằng ông là một người theo chủ nghĩa lý tưởng, với khiếu hài hước và tài năng bẩm sinh, xuất hiện trong một xã hội coi trọng đạo đức giả hơn là sự trung thực thuần túy.

3. The Hours (2002)

Ba người phụ nữ, ba thời đại, ba địa điểm. Ba lần cố tự tử, hai lần thành công. Một trong ba người ấy là nữ nhà văn Virginia Woolf.

The Hours, do Stephen Daldry đạo diễn và dựa trên cuốn tiểu thuyết đoạt giải Pulitzer của Michael Cunningham, không cố ép ba câu chuyện này thành một tuyến song song. Phim là lăng kính nghiền ngẫm về ba mảnh đời khác biệt, riêng lẻ, với mối dây liên kết duy nhất là Virginia Woolf – người đã viết một cuốn sách nhỏ có tựa đề Căn phòng của riêng ta (A Room of One’s Own), và (theo một cách nào đó) đã khởi xướng chủ nghĩa nữ quyền hiện đại. Trong sách, bà đúc kết: trong suốt tiến trình lịch sử, phụ nữ vốn không sở hữu một căn phòng riêng, mà phải liên tục di chuyển khắp căn nhà, dưới yêu cầu của người chồng và các thành viên khác trong gia đình. Qua ba mảnh đời riêng biệt, ta nhận ra sự tự do cá nhân của người phụ nữ đã mở rộng rất nhiều, nhưng trách nhiệm của con người và tội lỗi vẫn là sự thật chi phối đời sống.

Nicole Kidman, trong vai Virginia Woolf, là người phụ nữ bị bao vây bởi những cơn bệnh tâm thần dai dẳng. Bà vật lộn với ác quỷ trầm cảm, hướng cái nhìn tuyệt vọng, giận dữ vào khoảng không trống rỗng, đôi mắt thất thần, gợi lên cuộc chiến dữ dội sâu trong nội tâm: một bộ óc thông minh, lý lẽ đang chống lại hệ thống neuron mắc lỗi, tác giả của những cơn dằn vặt và đau đớn triền miên. Và đến khi cuộc chiến tới hồi kết, cũng là khi Virginia Woolf viết lá thư vĩnh biệt tới người chồng Leonard, và vươn mình vào dòng nước đục ngầu của dòng sông Ouse.

The Hours là tác phẩm suy ngẫm về tính bền bỉ của các kết nối, khả năng hạn định của con người, giấc mơ hạnh phúc khó nắm bắt, và đôi khi là lời mời gọi khó chống cự của thần chết.

4. Tolkien (2019)

Tolkien mở màn tại chiến hào Somme, giữa khung cảnh hoành tráng và bi thương của Thế chiến thứ nhất. Chàng thiếu úy trẻ J. R. R. Tolkien đang mê sảng vì sốt cao và kiệt sức; anh lao qua những con đường đẫm máu, đầy bùn, tuyệt vọng tìm kiếm một người bạn, một đồng minh mà anh có thể tin tưởng. Giữa chiến hào tanh mùi máu ấy, đột nhiên anh nhìn thấy một ngọn lửa, một ngọn lửa giống như hơi thở của rồng. Cuối cùng anh sẽ thấy, vâng, đúng là một con rồng sừng sững trước mắt anh.

Là tác phẩm điện ảnh xoay quanh cuộc đời của nhà văn John Ronald Reuel Tolkien (tác giả của Chúa tể của những chiếc nhẫnThe Hobbit), có sự tham gia diễn xuất của Nicholas Hoult và Lily Collins, Tolkien đã cân bằng được những giai đoạn tươi sáng và khổ đau trong đời của Tolkien: từ thời niên thiếu mồ côi nhưng đầy màu sắc bên những người bạn cùng hoàn cảnh; đến trải nghiệm trong Thế chiến thứ nhất; mối tình với Edith Bratt (Lily Collins) được đắp bối từ quá khứ tương đồng; niềm đam mê dành cho âm điệu, ý nghĩa ngôn ngữ, tình yêu với thần thoại và tiểu thuyết (được truyền từ người mẹ). Tuy tác phẩm không nhận được sự tán đồng từ gia đình nhà văn, nhưng đây cũng là một phim đáng quan tâm nếu bạn là người yêu thích và muốn tìm hiểu thêm về cha đẻ của những tác phẩm huyền bí được hàng triệu độc giả trên thế giới yêu thích.

5. Thất lạc cõi người (2019)

“Các tác gia vĩ đại có thể là những con người tệ hại” – chân lý trên từng là chuyện ai ai cũng thấu hiểu. Còn thời bây giờ, những người từng là nhà văn vĩ đại, nếu vô tình phát ngôn ra những lời vi phạm tiêu chuẩn đạo đức (phân biệt giới tính hay phân biệt chủng tộc), chắc chắc sẽ được cư dân mạng tự hào mà bấm nút “cancel” trong tíc tắc.

Dazai Osamu, nếu sống trong thời nay, hẳn là một ứng cử viên “sáng giá”. Được tôn vinh là một trong những tiểu thuyết gia hậu chiến tranh vĩ đại nhất Nhật Bản, với các tác phẩm nổi bật Thất lạc cõi ngườiTà dương, Dazai đồng thời là một gã trăng hoa nghiện ngập hết thuốc chữa, với những câu chuyện tình ái gây sốc văn đàn Nhật, kết quả là đứa con ngoài giá thú với người tình Shizuko Ota, và cuối cùng tự tử đôi với người tình Tomie Yamazaki. Trong phim điện ảnh tiểu sử Thất lạc cõi người, thay vì lên án những tội lỗi của ông, phim lại ca tụng và phủ một lớp màn hào nhoáng lên cái tình sử chẳng đáng lấy làm tự hào ấy. Bộ phim tràn đầy những dấu chỉ thị giác lộng lẫy, và dành sự cảm thông cho bản thân Dazai (dù có chút sắc thái hài hước đen).

Thất lạc cõi người không giành được được sự tán đồng của giới chuyên môn. Thay vì đi sâu khai thác đời sống nội tâm khổ đau, những gánh nặng tâm tưởng và sự tài tình trong văn chương của Dazai, bộ phim lại tập trung vào chuyện tình trường của ông với vợ và các người tình. Tài tử Shun Oguri thể hiện Dazai như thể ông là một tay tán gái điệu nghệ, lời lẽ tán tỉnh ngọt xớt, và lợi dụng phụ nữ để phát triển sự nghiệp văn chương của mình. Cuối cùng, Dazai Osamu thực sự – người đã chắp bút cho những tác phẩm lay động hàng triệu trái tim kể cả sau khi ông mất – biến mất hoàn toàn đằng sau những bức cliché kệch cỡm.

Một số gợi ý khác dành cho người yêu điện ảnh và văn học

Shirley (2020)

Dựa trên Shirley: A Novel (cuốn sách nổi tiếng của Susan Scarf Merrell), Shirley là câu chuyện “tương đối hư cấu” dựa trên những tình tiết thật trong cuộc đời của tiểu thuyết gia Shirley Jackson. Một tác phẩm lạ lùng, nhưng hoàn toàn phù hợp với những gì chúng ta – các độc giả hiện đại – biết về bà: một người phụ nữ cho rằng thực tế và các luật lệ đi kèm thật tẻ ngắt và vô vị.

Capote (2005)

Capote theo dấu hành trình của Truman Capote khi ông đang viết về vụ giết người tai tiếng tại Kansas và đào sâu vào tâm lý của hai tên tội phạm Perry Smith và Richard Hickock. Càng biết nhiều về vụ án đẫm máu, càng thấu hiểu về hai kẻ giết người “máu lạnh”, Capote càng lún sâu vào câu chuyện – một câu chuyện kinh thiên động địa, mang đến cho ông tiền tài và danh tiếng, cùng cuốn tiểu thuyết phi hư cấu bán chạy Máu lạnh, nhưng cũng đồng thời tàn phá tinh thần và thúc đẩy ông bước gần hơn đến cái chết.

Becoming Jane (2007)

Được chuyển thể từ cuốn sách cùng tên, Becoming Jane ra đời dựa trên các bức thư và cuốn sách Jane Austen để lại, tường thuật tuổi 20 của bà cùng mối tình chớm nở với vị luật sư trẻ tuổi Thomas Langlois Lefroy. Mối tình này là cảm hứng chính cho tiểu thuyết Kiêu hãnh và định kiến, và Lefroy cũng là hình mẫu cho nhân vật Mr. Darcy.

Colette (2018)

Colette xoay quanh cuộc hôn nhân và cán cân quyền lực giữa nữ tác gia người Pháp Colette và người chồng ích kỷ (kẻ đánh cắp các tác phẩm của bà và xuất bản chúng dưới tên mình), những thách thức của bà khi đối diện với rào cản và vòng quây nghĩa vụ, và hành trình phi thường của một người phụ nữ tìm được tiếng nói, giá trị của mình trong xã hội Paris thế kỷ XIX.  

Hết.

Mèo Heo dịch và tổng hợp.

Trà chiều

Sài Gòn – Hồi sinh từ ký ức, vươn mình đến tương lai

Từ ngày 1/7/2025, cái tên “Sài Gòn” chính thức trở lại trên bản đồ hành chính Việt Nam. Đây không phải là tên thành phố, mà là tên của một phường trung tâm thuộc TPHCM. Một sự thay đổi tưởng chừng kỹ thuật, hành chính, nhưng lại gợi lên những suy tư lớn hơn: về ký ức đô thị, về cách chúng ta gọi tên một vùng đất và về hướng đi của tương lai giữa dòng chảy đổi mới.

Published

on

Từ nay, người dân sẽ phải làm quen với những tên gọi mới, địa giới mới và cả cách quản lý mới. Nhưng giữa tất cả những đổi thay ấy, cái tên “Sài Gòn” không trở lại như một nỗi hoài niệm, mà như một sợi chỉ đỏ âm thầm nối liền ký ức và hiện tại: bền bỉ, lặng lẽ nhưng chưa từng đứt đoạn. Một cái tên chưa bao giờ mất đi trong tâm thức người dân, nay được trả về đúng vị trí của nó: chính danh và được ghi nhận.

Tên cũ hồi sinh, đô thị vươn mình

Không chỉ hiện diện trong ký ức của hàng triệu người dân, Sài Gòn còn là mạch nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều thế hệ người viết, người sáng tác. Trong đó, có thể kể đến tác giả Phạm Công Luận - một cây bút gắn bó lâu năm với Phương Nam Book và được xem là người dành trọn tâm huyết để viết về Sài Gòn. Gần như mỗi năm, ông lại cho ra đời một tác phẩm mới, nhưng điều đặc biệt là dù đã viết rất nhiều năm, rất nhiều sách, ông vẫn luôn tìm ra được những góc nhìn mới, tinh tế và giàu cảm xúc về vùng đất này.

Từ Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, Hồi ức Phú Nhuận,đến Có một thời ở Chợ LớnMade in Sài Gòn - hai tác phẩm vừa được phát hành đầu năm nay, những trang viết của ông như một hành trình gom nhặt lại những ký ức xưa cũ về Sài Gòn. Chính những tác phẩm ấy là bằng chứng cho thấy: Sài Gòn không chỉ tồn tại trên bản đồ, mà sống động trong văn hóa, tâm tưởng và cả trong từng chi tiết đời sống hàng ngày của người dân.

Bởi vậy, khi cái tên “Sài Gòn” trở lại trong một vị trí hành chính cụ thể, đó không đơn thuần là sự phục dựng danh xưng, mà là sự thừa nhận giá trị văn hóa, tinh thần mà vùng đất này đã và đang mang trong mình. Nhưng câu chuyện không chỉ dừng ở ký ức hay bản sắc. Việc sáp nhập, thay đổi đơn vị hành chính lần này còn là một phần trong chiến lược cải tổ toàn diện, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, tinh gọn bộ máy và hướng đến một đô thị hiện đại.

Bởi vậy, mô hình hành chính mới không đơn thuần là tinh gọn bộ máy, mà còn là cơ hội để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, hiện đại hóa quản lý, nâng cao chất lượng dịch vụ công và cuộc sống người dân. Đây là một phần trong chiến lược phát triển bền vững, toàn diện và hội nhập sâu rộng mà Việt Nam đang theo đuổi. Và để chiến lược đó đi vào thực tế, không thể thiếu sự góp sức của mỗi cá nhân - những người đang sống, làm việc, học tập và trực tiếp cảm nhận từng thay đổi nhỏ nhất trong đời sống hàng ngày.

Đổi mới không chỉ đến từ chính sách, mà bắt đầu từ chính chúng ta - những người kiến tạo nên diện mạo mới cho đô thị mỗi ngày.

Thế hệ trẻ giữ vai trò tiên phong trong hành trình đổi mới

Đổi mới không phải là khẩu hiệu treo tường, mà là từng hành động cụ thể mỗi ngày: một sinh viên chọn học thêm kỹ năng mềm; một kỹ sư chủ động cập nhật công nghệ mới; một giáo viên thay đổi cách giảng dạy để học sinh dễ tiếp cận tri thức hơn. Con đường học vấn không chỉ là hành trang cá nhân, mà còn là cách mỗi người góp phần xây dựng quốc gia trong thời đại tri thức. Như lời Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói: “Mỗi ngày làm việc là một ngày kiến tạo”. Và với người trẻ hôm nay, sự kiến tạo ấy chính là học tập, là tư duy phản biện, là sự dấn thân vào hành trình đổi mới - không chỉ để thay đổi bản thân, mà còn để thay đổi xã hội.

Những thay đổi ấy đang diễn ra ở khắp nơi: từ miền núi, hải đảo xa xôi đến các đô thị trung tâm hay những vùng sáp nhập mới. Và câu chuyện của Sài Gòn hôm nay - một địa danh cũ trở lại trong hình hài hành chính mới chỉ là một lát cắt trong bức tranh cải tổ rộng lớn mà cả nước đang cùng nhau vẽ nên.

Tên gọi có thể đổi. Địa giới có thể gộp. Nhưng khát vọng vươn lên, ý chí tự cường và tinh thần làm chủ vận mệnh thì vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Sài Gòn hôm nay đang bước vào một hành trình mới: hành trình của hiện đại, của tinh gọn, của đổi mới. Nhưng trên hết, đó là hành trình mà trong đó, người dân không chỉ là đối tượng của thay đổi, mà là chủ thể kiến tạo.

Một cái tên trở lại. Và cả một thời đại mới - bắt đầu.

Thùy Dương

Đọc bài viết

Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Cafe sáng