Phía sau trang sách

451 độ F và khát khao tự do của con người

Như mọi tác phẩm dystopian (phản địa đàng) khác, Ray Bradbury vẽ ra một viễn cảnh nơi những nỗi sợ, khúc mắc, mâu thuẫn, bức bối của con người được đẩy đến cực điểm.

Published

on

Tự cổ chí kim, con người luôn trăn trở về hai từ TỰ-DO. Thế nào là tự do? Tự do từ đâu mà có? Ta có tự do hay không? Làm sao biết ta đang được tự do? Những nỗi đau đáu ấy dày vò chúng ta – loài homo sapien, với vị thế là loài thông minh nhất (hay chúng ta vẫn nghĩ như thế khi tự gọi mình là sapien), đến mức chúng ta mang nỗi niềm ấy vào thi ca nhạc họa, ở cả hình thức tường minh hay hàm ẩn. Nếu chọn ra một đại diện cho nhóm sau, 451 độ F (tựa gốc Fahrenheit 451) của Ray Bradbury là một lựa chọn tuyệt vời.

451 độ F lấy bối cảnh tại một thời điểm nào đó ở tương lai, khi những bức tường phòng khách trở thành bốn màn hình lớn chiếu đủ thứ trên đời, khi lính cứu hỏa từng đi dập lửa nay trở thành lính phóng hỏa triệu hồi thần lửa nhún nhảy trên đống tàng thư. Montag, một anh lính phóng hỏa, vẫn ngoan ngoãn thực hiện nhiệm vụ mà sếp mình, Beatty, giao phó: Thiêu rụi mọi cuốn sách. Sách giờ đây là man dã, là điên dại, là đồi trụy, là quá khứ lãng quên. Những thứ ướm mùi ô uế ấy phải bị tận diệt. Kẻ đọc sách là tội phạm, bởi “ai mà biết được những kẻ đọc nhiều sẽ nhắm đến ai cơ chứ?” Tuy nhiên, sống trong một xã hội nơi mọi thứ tự do ý chí và tư duy độc lập đều bị triệt tiêu, đặc biệt là sau cuộc nói chuyện đầy tính gợi mở với cô bé hàng xóm Clarisse, Montag dần hoài nghi về những việc mình làm, về đâu là chân giá trị của cuộc sống: Là sách, hay là lửa? Sau một lần đi phóng hỏa, anh đã chứng kiến cái chết huy hoàng của một người đọc sách. Cái chết rực rỡ ấy đã gieo vào đầu anh nhiều suy nghĩ. Anh đã bất chấp bí mật giấu một cuốn sách cho riêng mình. Và cuốn sách ấy đã đưa Montag đi xa hơn những gì anh có thể mường tượng.

1. Nhà tù tư tưởng

Như mọi tác phẩm dystopia (phản địa đàng) khác, Ray Bradbury vẽ ra một viễn cảnh nơi những nỗi sợ, khúc mắc, mâu thuẫn, bức bối của con người được đẩy đến cực điểm. Trong thế giới của 451 độ F, ta không biết rõ tên của xã hội mà nhân vật Montag đang phụng sự hay thời gian mà anh này sinh sống. Tất cả những gì mà ta biết chỉ mà một xã hội bị thống trị bởi truyền thông – biểu hiện bằng những chương trình truyền hình vô nghĩa chiếu trên bốn bức tường phòng ngủ, trên cửa phương tiện giao thông công cộng, trên radio mà Mildred – vợ Montag, vẫn nghe. Điều này càng được minh chứng khi thời điểm Ray Bradbury viết 451 độ F cũng là thời hoàng kim của radio và khởi đầu giai đoạn chuyển tiếp sang truyền hình. Tất cả những thứ này, cộng thêm việc thủ tiêu con chữ, là một hình thức mị dân, tận diệt tư duy độc lập. Nói cách khác, đó là cầm tù con người từ trong tư tưởng. Sách vở mang đậm tính cá biệt. Đó là tư tưởng của mỗi con người trong xã hội. Dù cho đó là sách tuyên truyền phục vụ mục đích chính trị, những quyển sách vẫn mang tư tưởng của một nhóm người nhất định. Như vậy, sách đại diện cho dòng tư tuởng chảy tự do và cũng chính là tư tưởng về TỰ DO nếu đặt trong bối cảnh của 451 độ F. Thiêu trụi sách và thủ tiêu người đọc sách cũng chính là dập tắt tự do và những người vun đắp khái niệm ấy. Những người lính phóng hỏa trở thành công cụ để thực hiện công cuộc đồng hóa của nhà cầm quyền. Một sự đồng hóa kinh tởm. Tởm hơn bất kỳ thứ gì chúng ta từng biết, vì sự đồng hóa này không hướng xã hội theo một hệ tư tưởng nào đó như người Trung Hoa khi thời Minh diệt Hồ đã áp lên dân Việt, không phải là Đức Quốc Xã bắt tất cả dân tộc khác phải tôn sùng tộc Aryan, không phải là những bộ phim ca ngợi tinh thần người hùng Mỹ cứu lấy nhân loại. Sự đồng hóa ở đây khiến cho xã hội đại đồng trong đôi mắt lạnh lẽo, trong trái tim thờ ơ, trong khối óc mông muội, không lấy một chút động lực được khai sáng. Sự đồng hóa như cơn hạn rút cạn dòng suối nguồn tư tưởng đổ ra biển lớn tự do. Nếu sự áp chế được Ray Bradbury rót vào gã sếp Beatty tàn nhẫn, thì sự tối tăm mà thứ tù túng ấy gây ra lại cô đặc thành cô vợ Mildred và những người bạn của ả (và nếu độc giả để ý, Mildred còn nghiện thuốc ngủ. Vâng, là thuốc ngủ). Tất cả tạo nên một bối cảnh không thể bức bối hơn, như “hơi kerosene phản phất” từng con chữ, từng chi tiết, từng nhân vật. Căng thẳng, ngột ngạt. Tất cả những gì mà độc giả cần chỉ là một que diêm thổi bùng tất cả.

2. Cánh cửa tự do

Tác phẩm mở đầu bằng một câu đơn giản mà hàm súc: “Đốt là một cái thú!” Thật vậy, bạn có thể là mọt sách, là người viết sách, nhưng bạn không thể chối bỏ bản chất bạo lực của con người1. Nhìn thấy “thứ này thứ nọ bị ngốn dần, thứ này thứ nọ bị đen đi và biến dạng” có làm bạn cảm thấy lâng lâng? Cảm giác vừa kinh tởm vừa phấn khích hẳn đã đến với Montag khi anh lấy về một quyển sách từ chỗ mình vừa thiêu trụi. Hóa ra, sự tò mò, nói cho bóng bẩy hơn là khát khao biết được sự thật, đã ăn sâu vào con người, đến mức dẫu có lúc ta nghĩ nó đã lụi tàn trong đêm đông dưới lớp tuyết khỏa lấp, khi được gửi cho vài hơi ấm, vẫn đủ sức nhen nhóm và chực bùng lên. Trong cuốn Walden, Henry David Thoreau từng viết: “Rather than love, than money, than fame, give me truth.” (“Thay vì tình yêu, tiền tài, danh vọng, hãy cho tôi sự thật.”) Trên tất cả mọi thứ tạm bợ, con người đi tìm sự thật, vì sự thật cho ta tự do. Như đã nói ở trên, dối trá không khác gì nhà tù của tư tưởng. Dối trá hiển hiện suốt 451 độ F. Rằng những căn nhà xưa nay đều chịu được lửa, rằng sách vở như súng đã nạp đạn, rằng người lính phóng hỏa đầu tiên không ai khác là Benjamin Franklin – người có công thành lập đội lính CỨU HỎA đầu tiên2, cũng thúc đẩy ngành in ấn ở nước Mỹ sơ khởi và cho mở một trong những thư viện quan trọng3 ở miền đất này (mỉa may và ghê tởm thay!). Đối với Montag, hơi ấm thổi bùng ngọn lửa chính là cô bé Clarisse. Cô bé nói gì? “Chẳng phải ngày xưa chỉ có lính chuyên ngăn lửa chứ không có lính chuyên phóng hỏa rồi mặc cho lửa cháy hay sao?” Đúng hay sai, anh chưa thể quyết ngay, nhưng ít nhất, cô bé đã gieo vào anh một chút ánh sáng dắt anh qua cánh cửa ra khỏi nhà lao u muội. Hoang mang lớn dần, sợ hãi lớn dần, kinh tởm lớn dần. Anh lấy một quyển sách từ hiện trường nơi anh đã chứng kiến một cái chết lộng lẫy. Anh đem về nhà quyển Kinh Thánh – một dấu hiệu của con đường đi tìm chân lý. Càng dấn thân qua cánh cửa sự thật, khi anh biết tin về cái chết của Clarisse, khi anh đến gặp Faber và đồng chí của ông, thì cũng là lúc anh nhìn xã hội mà mình đang sống – với Beatty và Mildred, với anh mắt khác, áp dụng một lối hành xử khác. Mâu thuẫn nội tại chồng chất trong Montag. Đỉnh điểm của mâu thuẫn này, theo thiển ý của người viết bài này, không thể hiện rõ nhất qua cuộc truy đuổi của Montag và Beatty cùng con chó máy, mà là ở lần anh lớn tiếng với Mildred. Cuộc đối thoại ấy như lần đối đầu trực tiếp giữa con người khai sáng và con người mông muội, giữa sự thật và dối trá, giữa khát khao và chịu đựng, giữa tự do và ngục tù.

3. Vài bàn luận ngoài lề

Tác phẩm 451 độ F được Ray Bradbury cho xuất bản năm 1953, tức đỉnh cao của Chiến tranh Lạnh. Thanh gươm Damocles đang lơ lửng trên đầu nhân loại. Các nhà cầm quyền, đầu óc chìm đắm trong nghi kỵ và hoang mang. Tại Mỹ, những tác phẩm bị cho là thân Xô, thân Trung, thân Cộng đều sẽ bị tiêu diệt, chủ của chúng cũng sẽ khó mà sống yên. Con người sống trong sợ hãi, ngột ngạt, hệt như bối cảnh trong truyện. Vì vậy, khao khát vươn ra khỏi tù túng càng rõ hơn hết. Những điều ấy vẫn còn thiết thực ở thời đại chúng ta, dẫu những ngày tháng Chiến tranh Lạnh đã qua đi. Có lẽ Ray Bradbury không thể ngờ giá tác phẩm của mình lại có giá trị tiên đoán và phổ quát đối với mọi thời kỳ đến như vậy. Trong tác phẩm, cuốn sách mà Montag lấy về là Kinh Thánh – chính xác hơn là một trong những phiên bản cuối cùng của Kinh Thánh. Điều này phần nào hợp với tiến trình nhận thức của con người trong lịch sử. Con người từ khi có những nhận thức đầu tiên đã tôn thờ thiên nhiên. Về sau, khi nhu cầu tinh thần tăng lên, con người bắt đầu tìm đến đức tin, đến tín ngưỡng, và khi những niềm tin có tôn ti trật tự, ta có tôn giáo. Tư tưởng Montag vừa được giải phóng, nếu thứ cởi trói cho anh là sự thật, thì tư tưởng cho anh niềm tin đi tiếp là tôn giáo.

Năm 2018, kênh HBO cho chuyển thể cuốn sách của Ray Bradbury lên màn ảnh nhỏ. Phim không thực sự xuất sắc, cốt truyện cũng được dẫn dắt khác nguyên tác, nhưng có một chi tiết được cải thiện rõ rệt so với những gì ray Bradbury viết. Cụ thể, cuốn sách mà Montag trên phim lấy về không phải là Kinh Thánh, mà là Ghi chép dưới hầm (Notes from Underground) của văn hào Nga Fyodor Dostoyevsky. Dù nhỏ bé hơn rất nhiều so với Kinh Thánh, tác phẩm này của Dostoyevsky lại đặt ra hàng loạt vấn đề mang tính hiện sinh, đánh thức lương tri con người: Con người ở đâu trong thế giới này? Con người hành động ra sao? Liệu con người có thể đạt đến cảnh giới cao nhất của tự do – tự do ý chí? Đâu là lý luận? Đâu là lý trí? Tại sao con người phải trải qua bao khổ đau?  Nếu Kinh Thánh là nơi gửi gắm đức tin của con người, thì những suy tư hiện sinh chính là bờ bến tiếp theo để con người định nghĩa bản thân mình. Đó cũng chính là con đường Montag, hay bất kỳ ai muốn sống vì tự do, sống trong tự do, chết trong tự do, phải đi qua. Nhưng để đến được đích đến ấy, ắt anh phải phản kháng, biết vươn lên, biết đặt niềm tin vào sự thật, vào tự do. Bởi Thoreau cũng từng viết trong cuốn Civil Disobedience: “Disobedience is the true foundation of liberty. The obedient must be slaves.” (“Phản kháng là nền tảng thực sự của tự do. Những kẻ dễ bảo hẳn phải là nô lệ.”).

Et par le pouvoir d’un mot
Je recommence ma vie
Je suis né pour te connaître
Pour te nommer
Liberté.
(Paul Éluard – Liberté)

Và do phép màu một tiếng – Ta làm lại cuộc đời
Ta sinh ra để biết em – Để gọi tên em
TỰ DO
(Paul Éluard  – Tự do, Tế Hanh dịch)

            

Hết.

Miên Túc

Chú thích:

  1. Gómez, J. M., Verdú, M., González-Megías, A., & Méndez, M. (2016). The phylogenetic roots of human lethal violence. Nature, 538(7624), 233.
  2. Union Fire Company, còn được gọi là Bucket Brigade, được Benjamin Franklin đồng thành lập năm 1736, trở thành cơ quan cứu hỏa tình nguyện tại các bang thuộc địa của Anh tại châu Mỹ (sau Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ 1775-1783 thì trở thành nước Mỹ sơ khởi).
  3. Library Company of Philadelphia, do Benjamin Franklin thành lập năm 1731.

Phía sau trang sách

Tư duy tích cực tạo thành công: Chìa khóa dẫn đến sự thịnh vượng

Published

on

Tác phẩm Tư duy tích cực tạo thành công của Napoleon Hill và William Clement Stone là một cẩm nang hữu ích cho bất kỳ ai muốn đạt được thành công trong cuộc sống. Cuốn sách không chỉ cung cấp những nguyên tắc và chiến lược hiệu quả để phát triển bản thân mà còn truyền cảm hứng giúp người đọc có một thái độ tích cực hơn trong cuộc sống.

Tư duy tích cực tạo thành công là một tác phẩm kinh điển về chủ đề phát triển bản thân, đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người trên khắp thế giới kể từ khi xuất bản lần đầu tiên vào năm 1959, khẳng định vị trí là một trong những tác phẩm self-help bán chạy nhất mọi thời đại. Cuốn sách vén màn bí mật về sức mạnh của tư duy tích cực, giúp người đọc khai phá tiềm năng bản thân và đạt được những thành tựu phi thường trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.

Tìm kiếm hình mẫu thành công làm ngọn đuốc soi sáng

Để có thêm động lực và định hướng rõ ràng cho bản thân, tác giả gợi ý rằng người đọc có thể xây dựng cho riêng mình một hình mẫu thành công từ những câu chuyện về người thật, việc thật trong sách báo. Khi dành thời gian tìm hiểu về hành trình của họ, những khó khăn họ đã trải qua và cách họ vượt qua những thử thách đó, ta sẽ có thể biến kinh nghiệm của họ trở thành ngọn đuốc soi sáng cho con đường của chính mình.

Bên cạnh đó, người đọc còn có thể chọn một bức ảnh có ý nghĩa đặc biệt với mình để đặt câu hỏi khi nhìn bức ảnh đó rồi lắng nghe câu trả lời từ chính tâm thức bật ra. Bức ảnh ấy có thể là hình ảnh về mục tiêu ta muốn đạt được, về một giá trị sống mà ta trân trọng, hoặc đơn giản là một khoảnh khắc đẹp trong cuộc sống. Chẳng hạn, nếu người đọc muốn mua nhà nhưng chưa có đủ tài chính thì có thể chọn bức ảnh về một mái ấm khang trang để ngắm nhìn và tự đặt câu hỏi rằng mình phải làm gì để đạt được số tiền sở hữu căn nhà đó. Không phải lúc nào câu trả lời cũng đến ngay lập tức, nhưng việc cụ thể hóa mục tiêu bằng một hình ảnh rõ ràng sẽ giúp người đọc tăng cường ý chí nỗ lực.

Ngoài ra, niềm tin chính là nguồn động lực mạnh mẽ giúp mỗi người vượt qua mọi khó khăn và chinh phục mục tiêu. Trong Tư duy tích cực tạo thành công, có một công thức thường được lặp lại nhiều lần để người đọc ghi nhớ là: “Khi con người người nghĩ đến và tin tưởng vào điều gì, họ sẽ có thể đạt được điều đó với thái độ tích cực.” Đây cũng là một biện pháp tự truyền cảm hứng.

Hai mặt của tình thế bức bách: Thành công hay tội ác?

Tư duy tích cực tạo thành công nhấn mạnh tầm quan trọng của tính lương thiện trong hành trình chinh phục thành công. Cuốn sách khẳng định rằng thành công đích thực không chỉ dựa trên kết quả mà còn phải dựa trên phương tiện đạt được kết quả đó. Một người có thể đạt được thành công bằng mưu mô, thủ đoạn, nhưng đó chỉ là thành công giả tạo, thiếu bền vững và không mang lại hạnh phúc thực sự.

Ngoài ra, tác giả cũng bàn về vai trò của tình thế bức bách: nó như một con dao hai lưỡi, có thể đưa con người đến đỉnh cao thành công hoặc vực sâu tội ác. Tình thế bức bách là phép thử cho bản lĩnh, đạo đức và thái độ của mỗi cá nhân. Khi đó, thành công hay thất bại đều tùy thuộc vào thái độ:

Thái độ tích cực: Khi đối mặt với nghịch cảnh, người có thái độ tích cực sẽ biến nó thành cơ hội để học hỏi, rèn luyện và phát triển bản thân. Họ kiên trì nỗ lực, tìm kiếm giải pháp sáng tạo và không bao giờ bỏ cuộc. Nhờ vậy, họ có thể vượt qua mọi khó khăn và gặt hái thành công.

Thái độ tiêu cực: Ngược lại, người có thái độ tiêu cực sẽ dễ dàng gục ngã trước nghịch cảnh. Họ chìm trong lo âu, sợ hãi, nghi ngờ bản thân và tìm kiếm lối thoát bằng những hành vi sai trái. Hậu quả là họ đánh mất bản thân, vướng vào vòng xoáy tội ác và tự hủy hoại cuộc đời.

Từ đó, cuốn sách đưa ra hai công thức đơn giản nhưng đầy ý nghĩa:

Tình thế bức bách + Thái độ tích cực = Thành công
Tình thế bức bách + Thái độ tiêu cực = Tội ác.

Cân bằng cảm xúc, rèn luyện tư duy và đặt mục tiêu hiệu quả

Cảm xúc và lý trí đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, mỗi người cần học cách cân bằng hai yếu tố này để đưa ra những quyết định sáng suốt. Đôi khi, ta cũng nên lắng nghe tiếng nói con tim và hành động theo những gì mình mong muốn. Chẳng hạn, khi phải lựa chọn giữa một công việc ổn định và theo đuổi đam mê, ta cần cân nhắc kỹ lưỡng cả hai yếu tố cảm xúc và lý trí: ta thường dùng lý trí để đánh giá khả năng thực tế của bản thân, nhưng cũng đừng quên lắng nghe tiếng nói con tim.

Bên cạnh đó, tác giả cho rằng mỗi ngày, chúng ta chỉ cần dành 1% thời gian để nghiên cứu, suy nghĩ, lập kế hoạch là đã có nhiều cơ may tạo ra sự khác biệt để vươn đến thành công. Theo ước tính, một ngày có 1440 phút, 1% sẽ tương ứng với 14 phút. Trong 14 phút đó, nếu ta chú tâm suy nghĩ kế hoạch cho những gì mình muốn làm, ta sẽ dần hình thành được thói quen có thể suy nghĩ sáng tạo mọi lúc, mọi nơi: khi rửa chén, lúc ngồi trên xe bus, hay thậm chí là khi đang tắm.

Ngoài ra, đặt mục tiêu là bước đầu tiên và quan trọng nhất trên kế hoạch chinh phục thành công. Mục tiêu rõ ràng sẽ giúp bạn tập trung nỗ lực, đưa ra quyết định sáng suốt và duy trì động lực để đạt được ước mơ. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách đặt mục tiêu hiệu quả. Dưới đây là bốn điều quan trọng cần ghi nhớ khi đặt mục tiêu:

1. Viết mục tiêu ra giấy: Khi viết mục tiêu ra giấy, bạn sẽ buộc bản thân phải suy nghĩ cẩn thận về những gì mình muốn đạt được. Việc này giúp bạn tập trung và ghi nhớ mục tiêu tốt hơn.

2. Đặt mốc thời gian: Mốc thời gian giúp bạn chia mục tiêu lớn thành những mục tiêu nhỏ hơn, dễ quản lý hơn. Việc này giúp bạn có động lực để hoàn thành từng bước và tiến đến mục tiêu cuối cùng.

3. Đặt tiêu chuẩn thật cao: Khi đặt tiêu chuẩn cao, bạn sẽ buộc bản thân phải nỗ lực hết mình và phát huy tiềm năng tối đa.

4. Đặt mục tiêu cao: Mục tiêu cao sẽ giúp bạn có tầm nhìn xa và thúc đẩy bạn không ngừng phát triển.

Nhìn chung, Tư duy tích cực tạo thành công đã mang đến cho người đọc những bài học quý giá về sức mạnh của tư duy tích cực trong việc gặt hái thành công và hạnh phúc. Hãy nhớ rằng, thành công không phải là đích đến mà là hành trình. Hành trình chinh phục thành công bắt đầu từ việc nuôi dưỡng tư duy tích cực. Ta cần tin tưởng vào bản thân và những điều kỳ diệu mà cuộc sống có thể mang lại. Từ đó, ước mơ sẽ thành hiện thực bằng chính những hành động mà ta lựa chọn ngay từ hôm nay.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tình yêu đích thực từ góc nhìn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Trong vô vàn những định nghĩa về tình yêu, quan điểm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về “tình yêu đích thực” được trình bày trong cuốn tiểu luận True Love đã mang đến một sự giản dị, mộc mạc nhưng lại ẩn chứa sức mạnh lay động tâm hồn sâu sắc.

Tình yêu là một trong những chủ đề muôn thuở của nhân loại, luôn ẩn chứa sức hút mãnh liệt và khơi gợi những cảm xúc dạt dào. Nhưng không phải ai cũng hiểu được bản chất của tình yêu. Trong True Love, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã kể lại câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương, rồi từ đó rút ra một kết luận mà thoạt nghe sẽ có vẻ vô cùng đơn giản nhưng càng ngẫm nghĩ thì ta càng thấy sự đơn giản ấy chính là vẻ đẹp của minh triết.

Thông điệp ý nghĩa từ ba câu khẳng định trong tình yêu

Đối với thầy, câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương có kết cuộc đau lòng là vì người chồng đã không chịu lắng nghe người vợ, anh cứ gạt phăng lời vợ nói, cơn nóng giận đã che mờ tình yêu và cả lí trí. Vợ anh cũng đã không cố gắng hơn để giải thích rõ ràng cho anh hiểu. Chính vì vậy, cả hai người đều không thực sự hiện diện khi ở trước mặt đối phương, họ ở đó nhưng không thực sự ở đó, mà ở trong khoảnh khắc khác, trong những chiều không gian khác. Bi kịch của họ đơn giản chỉ là như thế.

Từ đó, Thiền sư Thích Nhất Hạnh rút ra kết luận là tình yêu thực sự chỉ đơn giản nằm gói gọn trong ba câu sau đây: “Anh ở đây. Em ở đây. Và anh ở đây vì em.” (I’m here. You’re here. And I’m here for you.)

Câu khẳng định đầu tiên mang hàm ý rằng anh đang ở đây ngay giây phút này khi đối diện với em, bằng trăm phần trăm con người anh, không hề có sự tản mác, phân mảnh đi bất cứ nơi đâu. Một điều tưởng chừng đơn giản nhưng thực ra trong cuộc sống bộn bề lo toan này, việc một người có thể tập trung hoàn toàn tinh lực của mình khi đối diện trước một người mà không bị vướng bận tâm trí bởi điều gì khác cũng thật khó khăn.

Câu khẳng định thứ hai là sự tiếp nối ý từ câu đầu tiên. Anh ở đây, và em cũng đang ở đây. Anh ghi nhận sự tồn tại của em, em ghi nhận sự tồn tại của anh. Vì em cũng đang ở đây cùng anh trong giây phút này nên em không cô đơn, em không tản mác, em không phân mảnh.

Câu khẳng định cuối cùng là một sự quả quyết mạnh mẽ: Anh ở đây, anh dành hết trăm phần trăm sự tồn tại của mình ở đây là vì chính em, không vì ai khác cả. Vậy nên, em có thể yên tâm mà thổ lộ tất cả mọi điều với anh, vì trong giây phút này, hai ta đều cùng hiện diện.

Thông qua đó, ba câu khẳng định này có thể diễn dịch lại thành thông điệp phổ quát như sau:

“I’m here”: Khẳng định sự hiện diện trọn vẹn của bản thân, tập trung toàn bộ sự chú ý và tinh thần vào người mình yêu thương. Trong cuộc sống bận rộn, việc dành trọn vẹn tâm trí cho đối phương là điều không dễ dàng, nhưng lại vô cùng quan trọng để xây dựng một mối quan hệ bền vững.

“You’re here”: Ghi nhận sự tồn tại của đối phương, trân trọng và thấu hiểu cảm xúc, suy nghĩ của họ. Khi cả hai cùng “ở đây”, họ sẽ cảm nhận được sự kết nối sâu sắc, chia sẻ và đồng hành trong từng khoảnh khắc.

“And I’m here for you”: Thể hiện sự cam kết, dành trọn vẹn tình yêu và sự quan tâm cho người mình yêu thương. Lời khẳng định này mang đến sự an toàn, tin tưởng và là động lực để cả hai cùng vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Ba câu khẳng định tưởng chừng đơn giản nhưng lại là chìa khóa cho một tình yêu đích thực. Khi cả hai cùng thực hiện được điều này, họ sẽ tạo dựng được một mối quan hệ bền chặt, hạnh phúc và viên mãn.

Chìa khóa cho một mối quan hệ tốt đẹp

Để thực sự “ở đây”, mỗi người cần học cách chánh niệm, tập trung vào hiện tại, gạt bỏ những lo toan, phiền muộn và dành trọn vẹn sự chú ý cho đối phương. Khi ta thực sự “ở đây”, ta sẽ cảm nhận được trọn vẹn vẻ đẹp của người mình yêu thương, thấu hiểu những cảm xúc và suy nghĩ của họ. Tình yêu đích thực không chỉ là những khoảnh khắc lãng mạn, mà còn là sự cam kết và hy sinh cho nhau. Khi yêu thương ai đó, ta sẵn sàng dành thời gian, tâm sức và cả những hy sinh để cùng nhau xây dựng hạnh phúc.

Giao tiếp là yếu tố quan trọng trong bất kỳ mối quan hệ nào. Lắng nghe cởi mở và thấu hiểu là cách để hai người kết nối tâm hồn, chia sẻ những cảm xúc, suy nghĩ và vun đắp tình cảm ngày càng sâu sắc.

Tình yêu đích thực không phải là điều viển vông hay khó kiếm tìm. Nó ẩn chứa trong chính những khoảnh khắc bình dị của cuộc sống, chỉ cần ta biết trân trọng và gìn giữ. Ba câu khẳng định của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về cách để vun đắp và nuôi dưỡng một tình yêu thương bền chặt, viên mãn.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Cuộc gặp của những dòng chảy

Published

on

By

Trong tập truyện Trôi, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đã kéo những số phận riêng lại gần với nhau, từ đó cho thấy con người dẫu có ở đâu, sống đời thế nào… cũng là một phần của dòng trôi nổi.

Vừa quen vừa lạ

Là tác giả nổi tiếng với các truyện ngắn, tiểu thuyết có bối cảnh miền Tây Nam Bộ, Nguyễn Ngọc Tư đến với người đọc bằng sự giản dị, chân phương hệt như tính cách người dân nơi đây. Tác phẩm của chị thường mang tâm trạng trầm buồn, khi mà số phận buộc những nhân vật - thường là phụ nữ phải trải qua nhiều biến cố có phần ngang trái.

Gồm 13 truyện ngắn, Trôi đánh dấu cho hành trình mới của Nguyễn Ngọc Tư khỏi vùng châu thổ mà chị quen thuộc. Cuốn sách lướt qua câu chuyện của rất nhiều người ở nhiều cảnh ngộ khác nhau, từ nông thôn đến thành thị, từ mặt đất đến trên không, từ hiện thực đến siêu thực... thoạt nhìn có vẻ phi lý, thế nhưng càng đào sâu thêm vào từng dòng chữ, ta đều sẽ thấy mọi thứ trong cuộc đời này đều được liên kết, tương tác với nhau.

Nhân vật của nữ nhà văn trong tập sách này không còn ở trong vùng đất Thổ Sầu đậm tính sông nước, mà đã chuyển sang những khu phố thị hoặc là vô danh. Việc bỏ lai lịch của các nhân vật cho ta thấy rằng Nguyễn Ngọc Tư đã dám mạnh mẽ bước ra “cái kén” từ trước đến nay, để nói về những câu chuyện và những số phận mang tính phổ quát, có thể xảy ra với bất cứ ai và không ngừng lại.

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư

Sở hữu cách viết điềm tĩnh, thận trọng, Nguyễn Ngọc Tư cho thấy tài năng quan sát và khắc họa nó lên trên trang viết. Các truyện trong tuyển tập này không hề cường điệu hay có chủ đích tạo sự kịch tính, mà lại êm đềm như một dòng chảy. Các tình huống được tác giả hóa giải một cách hợp lý, có khi theo đúng logic cơ học, nhưng cũng đôi lúc ẩn sâu là những liên kết buộc các độc giả tự mình tìm cách giải đáp…

Hiểu theo một nghĩa nào đó, Trôi đưa người đọc đến sự thấu hiểu chính bản thân mình. Như cách các nhà triết học của chủ nghĩa khắc kỷ đã từng bảo rằng, bởi ta không thể kiểm soát những gì xảy đến với bản thân mình, nên hãy thay đổi góc nhìn để thấu hiểu nó. Tập truyện ngắn này hướng đến những thứ tích cực, để ta thấy đời vẫn còn những màu đẹp đẽ trong mỗi ngày qua.

Đó cũng đồng thời chính là chữ “duyên” vốn thường xuất hiện trong văn hóa phương Đông, để ta biết rằng cái gì cũng có lý do, và khi thay đổi được suy nghĩ đó, những điều trôi qua đều có giá trị. Chính bởi điều này mà cuốn tiểu thuyết cũng đến rất gần Hành lý hư vô, Hong tay khói lạnh… vốn dĩ là những tản văn cũng có thông điệp tương tự như thế mà nữ nhà văn đã cho ra mắt trong các năm qua.

“Trôi là tin mừng”

Trở lại sau tập truyện ngắn Cố định một đám mây và cuốn tiểu thuyết Biên sử nước, có thể thấy rằng những đặc trưng cũ vẫn còn hiện diện trong tác phẩm này. Đó là những cuộc gặp gỡ cũng như cơ duyên như từ trên trời rớt xuống. Trong dòng chảy của số phận ấy, tất cả nhân vật gắn bó với nhau theo một cung cách hết sức lạ kỳ, thế nhưng ẩn chứa đâu đó họ vẫn có một sợi dây liên hệ và không thoát được khỏi tầm ảnh hưởng của nhau.

Sự trôi của Nguyễn Ngọc Tư cũng đã hiện diện ở nhiều chi tiết. Nó có thể mang nghĩa vật lý – như lục bình trôi, như dòng đời trôi; nhưng cũng có khi vô cùng tượng hình – như sự dịch chuyển của vũ trụ này, trong tình cảm con người và mối nối gắn họ với chính cuộc sống. Tác giả như đã trả lời câu hỏi: tồn tại hay không tồn tại để ta hiểu rằng: “Những cái vé xe đò, tàu hỏa hoặc máy bay đều có mùi của nơi chốn mà chúng đưa con người ta tới”.


Trong đây có chàng trai trẻ thích nghìn người khác nằm ngủ, có người đàn ông mà cả đời mình không bước khỏi cửa, có người mà võng là thứ “vật bất ly thân”… Ngoài ra cũng có một cặp vợ chồng “thắp lửa giữa trời”, có cả những cuộc gặp gỡ gần như không tưởng, xoay quanh chỉ một món nợ mà người trong cuộc cũng không thể biết mình nợ thứ gì…

Những tưởng họ vốn bất động trong cuộc đời mình, những tưởng những hành động ấy gần như phi lý, xác suất xảy ra gần như bằng không… Thế nhưng ở một giao điểm nào đó của số phận, họ đã gặp nhau và cùng vẽ nên bức tranh đời người. Xét cho đến cùng, tất cả chúng ta đều đang trôi nổi trên một dòng chảy – dòng chảy cuộc đời – theo chiều không ngừng mở rộng của cả không gian cũng như thời gian.


Nhà văn Ba Lan đoạt giải Nobel Văn chương 2019 - Olga Tokarczuk mà Nguyễn Ngọc Tư cũng đã nhắc đến trong một truyện ngắn, đã từng viết rằng: “Năng lượng của tôi sinh ra từ chuyển động – từ rung chuyển của ô tô buýt, từ tiếng gầm của động cơ máy bay, từ sự chòng chành của phà và tàu hỏa”. Dù muốn dù không thì sự xê dịch luôn luôn ở đó, đòi hỏi con người cứ thế tiến lên, cũng như nhìn nhận một cách tích cực về những điều mà bản thân gặp phải.

Như một câu văn trong truyện cùng tên: “Chẳng có cuộc trôi nào là vô tình hết, bản thân sự nổi trôi là thông điệp, tín hiệu, thư mời của chân trời”. Qua tác phẩm này, người đọc bỗng chốc nhận ra mình thuộc về “xứ không đâu”, nơi người với người cùng nhau tương tác, mỗi một cá thể sẽ lại tác động lên ai đó khác. Từ đó kêu gọi một sự sẻ chia cũng như đồng cảm trong cuộc đời này.

Đọc bài viết

Cafe sáng