Trích đăng
Truyện ngắn: Thằng Lùn – trích Xứ tháng Mười
Trích truyện ngắn “Thằng lùn” trong tuyển tập “Xứ tháng Mười” của Ray Bradbury.

Trích đăng
Chương 1 “Đôi mắt trũng sâu” (Dean Koontz)

Trích từ: Đôi mắt trũng sâu
Tác giả: Dean Koontz
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 03.2022
Sáu phút đầu tiên của buổi sáng thứ Ba, trên đường về nhà sau buổi tập muộn cho chương trình biểu diễn mới, Tina Evans nhìn thấy con trai mình là Danny đang trong một chiếc xe của người lạ. Nhưng Danny chết đến nay hơn cả năm rồi.
Dự định mua một quart sữa và ổ bánh mì nguyên cám nên Tina dừng lại ở một cửa hàng mở cửa hai mươi bốn giờ cách nhà cô hai dãy phố và đậu xe trong màn bụi mờ vàng vọt của ánh sáng đèn hơi natri, bên cạnh một chiếc station wagon hiệu Chevrolet màu kem bóng loáng. Đứa bé trai ngồi ghế phía trước, đang chờ ai đó trong cửa hàng. Tina chỉ có thể nhìn thấy một bên mặt của cậu bé, đủ để cô há hốc nhận ra trong đau đớn.
Danny.
Cậu bé khoảng độ mười hai tuổi, bằng tuổi với Danny. Mái tóc đen dày như của Danny, cái mũi y hệt Danny, và một khuôn cằm khá thanh mảnh cũng giống Danny.
Tina thầm gọi tên con trai mình, như thể lo sợ nếu gọi to hơn sẽ làm dáng hình yêu dấu này tan biến.
Không biết cô đang chăm chú nhìn mình, cậu bé đưa một tay lên miệng và cắn nhẹ vào khớp đốt ngón tay cái, giống như Danny đã bắt đầu làm khoảng một năm trước khi chết. Tina đã cố gắng phá bỏ thói quen xấu đó của con nhưng không thành công.
Giờ đây khi quan sát đứa bé này, dường như sự giống nhau giữa nó và Danny còn hơn cả sự trùng hợp ngẫu nhiên. Đột nhiên Tina nghe thấy từng tiếng thình thịch của tim mình, còn miệng thì trở nên khô khốc và chua chát. Cô vẫn chưa thích nghi được với nỗi mất mát đứa con độc nhất của mình, bởi vì bản thân không bao giờ muốn – hay thử – làm quen với nó. Việc chấp nhận sự giống nhau giữa cậu bé này với Danny rất dễ khiến Tina lầm tưởng rằng nỗi mất mát từ đầu đã không tồn tại.
Có thể… có thể cậu bé này chính là Danny. Tại sao lại không nhỉ? Càng suy xét thì câu chuyện càng có vẻ ít điên rồ hơn. Xét cho cùng, cô chưa bao giờ nhìn thấy thi thể của con. Cảnh sát và những người mai táng đã khuyên rằng không nên nhìn vì cơ thể Danny đã bị rách toạc và giập nát một cách khủng khiếp. Rợn người và kiệt sức vì đau buồn nên cô đã làm theo lời khuyên của họ, tang lễ của Danny đã được cử hành với quan tài đóng kín nên những người đưa tiễn không thể nhìn mặt cậu lần cuối. Biết đâu họ đã nhầm khi nhận diện thi thể. Danny có thể đã không chết trong vụ tai nạn. Có lẽ cậu chỉ bị một chấn thương nhẹ ở đầu nhưng nghiêm trọng vừa đủ để bị… mất đi ký ức. Đúng rồi. Mất trí nhớ. Có lẽ trong vô thức Danny đã rời khỏi chiếc xe buýt vỡ nát và được tìm thấy cách xa hiện trường vụ tai nạn hàng dặm đường, không có giấy tờ tùy thân, không thể nói cho ai biết mình là ai hay từ đâu đến. Hoàn toàn có thể, đúng không? Cô đã từng xem những câu chuyện tương tự trong các bộ phim. Chắc chắn rồi. Mất trí nhớ. Và nếu quả đúng như vậy thì có thể người ta đã đưa cậu bé đến một trung tâm cứu trợ trẻ em để bắt đầu cuộc sống mới. Và rồi bây giờ Danny ngồi trong một chiếc wagon hiệu Chevrolet màu kem, đang được mang đến trước mặt cô nhờ định mệnh và nhờ…
Ý thức được cái nhìn chằm chằm nên cậu bé quay mặt về phía Tina. Cô nín thở khi khuôn mặt ấy chầm chậm hướng về phía mình. Khi nhìn nhau qua hai lớp kính cửa sổ và ánh sáng kỳ lạ của đèn huỳnh quang, Tina có cảm giác như thể họ đang giao tiếp xuyên qua một vực thẳm mênh mông của không gian, thời gian và định mệnh. Nhưng rồi sự thật không thể khác, ảo ảnh của cô tan vỡ vì cậu bé không phải là Danny.
Rời mắt khỏi cậu bé và tập trung vào đôi tay, Tina nhận ra mình đang ghì chặt vô-lăng đến mức khiến tay tê nhức.
“Chết tiệt.”
Cô giận dữ với chính mình. Thường tự cho mình là người phụ nữ có trình độ, luôn điềm tĩnh, cứng cỏi và có thể đương đầu với bất kỳ thử thách nào trong đời, thế mà cuộc sống của Tina đã bị xáo động vì vẫn mãi không thể chấp nhận cái chết của Danny.
Theo sau cú sốc ban đầu, cô đã phải bắt đầu đối phó với sang chấn tâm lý hậu tang lễ. Dần dần, ngày qua ngày, tuần nối tiếp tuần, cô đã để Danny lại phía sau với nỗi tiếc thương, với cảm giác tội lỗi, với nước mắt pha lẫn nhiều cay đắng, nhưng cũng có lòng quyết tâm và kiên định. Trong năm vừa qua cô đã đạt được nhiều bước tiến trong sự nghiệp, và nhờ cậy guồng quay công việc tất bật như một loại thuốc morphine1 để làm vơi bớt nỗi đau cho đến khi vết thương lành hẳn.
Thế rồi một vài tuần mới đây thôi, cô lại bắt đầu rơi vào lại tình trạng khủng khiếp đã từng nhấn chìm mình ngay khi vừa nhận hung tin. Sự cự tuyệt của cô cương quyết đến mức phi lý. Một lần nữa, cô lại bị chấp niệm ám ảnh rằng con mình còn sống. Thời gian đúng ra phải làm vơi bớt nỗi thống khổ của cô, nay lại kéo cô quay về với sự đau thương. Cậu bé trong chiếc station wagon này không phải người đầu tiên cô lầm tưởng là Danny; trong những tuần gần đây, Tina đã nhìn thấy đứa con trai đã mất của mình trong nhiều chiếc xe khác, ở những sân trường mà cô lái xe ngang qua, trên tuyến đường dãy phố, hay giữa một rạp chiếu phim.
Ngoài ra, gần đây một giấc mơ về chuyện Danny vẫn còn sống cứ lặp đi lặp lại làm cho cô phiền muộn. Mỗi lần như vậy, Tina không thể đối mặt với thực tại suốt vài giờ sau khi thức giấc. Cô cứ ngờ ngợ giấc mơ là điềm báo trước rằng rồi một ngày Danny sẽ trở lại với mình, bằng cách nào đó mà cậu bé đã sống sót và sẽ sớm quay về trong vòng tay của cô.
Đó là một hình ảnh tưởng tượng ấm áp tuyệt vời, nhưng cô không thể duy trì nó được lâu. Mặc dù Tina luôn chống cự, nhưng sự thật nghiệt ngã vẫn dần dần len lỏi, liên tục hạ gục cô không thương xót, buộc cô phải thừa nhận rằng giấc mơ không phải là điềm báo. Tuy nhiên, Tina biết rằng khi giấc mơ lại đến với mình, cô sẽ tìm thấy nguồn hy vọng mới như đã từng có rất nhiều lần trước đây.
Nhưng chuyện đó không ổn chút nào.
Bệnh thật, cô tự mắng mình.
Cô liếc nhìn chiếc station wagon và thấy cậu bé vẫn đang nhìn mình chòng chọc. Rồi cô trừng trừng nhìn hai bàn tay đang ghì chặt của mình và cố buông tay khỏi vô-lăng.
Đau buồn có thể khiến con người ta phát điên. Cô đã nghe nói vậy và tin điều đó, nhưng không cho phép nó xảy đến với mình. Cô sẽ đủ cứng rắn để giữ kết nối với thực tại – cho dù thực tại có phũ phàng thế nào đi nữa. Cô không thể tự cho phép mình nuôi dưỡng hy vọng.
Cô yêu Danny bằng cả tâm can, nhưng cậu đã bỏ cô mà đi. Bị rách toạc và giập nát trong một tai nạn xe buýt với mười bốn cậu bé khác, chỉ là một nạn nhân của một thảm kịch lớn hơn. Biến dạng đến mức không thể nhận ra. Chết.
Lạnh lẽo.
Thối rữa.
Trong quan tài.
Dưới mộ sâu.
Mãi mãi.
Môi run rẩy. Cô muốn khóc, cần được khóc, nhưng đã kìm được.
Đứa bé trai trong chiếc Chevy đã mất hứng thú với cô. Cậu bé lại đang chăm chú nhìn vào mặt tiền của cửa hiệu tạp hóa và chờ đợi.
Tina rời chiếc Honda của mình. Trời đêm mát mẻ một cách dễ chịu, khí hậu khô-sa-mạc. Cô hít một hơi thật sâu và bước vào cửa hàng. Không khí trong đó làm cô lạnh đến thấu xương, cộng thêm ánh đèn huỳnh quang sáng chói và không gian quá trống trải nên khó có thể khơi gợi trí tưởng tượng.
Cô mua một quart sữa không béo và ổ bánh mì còn nguyên cám cắt mỏng sẵn cho người ăn kiêng, vì mỗi lát chỉ chứa nửa lượng calorie1 của một lát bánh mì thông thường. Tuy không còn là vũ công nữa mà làm việc ở khâu sản xuất chương trình trong hậu trường, nhưng cô vẫn cảm thấy thể chất và tâm lý mình tốt nhất khi cân nặng không vượt quá thời còn là một nghệ sĩ biểu diễn.
Năm phút sau cô đã về đến nhà. Đó là căn nhà trệt nằm khiêm tốn trong một khu phố yên tĩnh. Những cây ô-liu và tràm gió uể oải lay động trong làn gió nhẹ phảng phất của hoang mạc Mojave.
Tina vào bếp nướng hai lát bánh mì, phết lên đó một lớp mỏng bơ đậu phộng, rót một ly sữa không béo và ngồi vào bàn.
Dù đặc biệt kén ăn nhưng bánh mì nướng bơ đậu phộng là một trong những món ưa thích của Danny từ khi mới chập chững biết đi. Khi còn rất nhỏ cậu đã gọi nó là “pơ dậu phọng”.
Giờ đây vừa nhắm mắt vừa nhai bánh mì nướng, Tina vẫn có thể nhìn thấy hình ảnh của Danny – mới ba tuổi đầu, miệng và cằm lấm lem bơ đậu phộng – cười toe toét bập bẹ, Bánh mì nướng pơ dậu phọng nữa, nữa đi mà.
Giật mình mở mắt vì hình ảnh của con trai trong tâm trí cô quá sống động, nó giống ảo ảnh hơn là ký ức. Ngay lúc này cô không muốn nhớ rõ ràng đến vậy.
Nhưng đã quá muộn. Trái tim se thắt lại trong lồng ngực, môi bắt đầu run rẩy, và Tina gục đầu xuống bàn. Cô khóc.
*
Đêm hôm đó Tina lại mơ thấy Danny còn sống. Bằng cách nào đó. Ở một nơi nào đó. Còn sống. Và cậu cần cô.
Trong giấc mơ, Danny đang đứng ở rìa một hẻm núi sâu không đáy, còn Tina thì ở phía bên kia, đối diện với cậu, nhìn qua vực thẳm mênh mông. Danny đang gọi cô. Cậu bé cô đơn và sợ hãi. Tina đau khổ vì không thể nghĩ ra cách nào để đến với con mình. Trong khi đó, bầu trời ngày càng tối sầm lại; những đám mây dông to lớn như nắm tay siết chặt của những người khổng lồ trên trời đã vắt cạn tia sáng cuối ngày. Tiếng khóc của Danny hòa cùng giọng của cô càng lúc càng trở nên chói tai và tuyệt vọng, vì biết rằng nếu không gặp được nhau trước khi màn đêm buông xuống thì họ sẽ chia xa mãi mãi; trong màn đêm đang đến, một cái gì đó đang rình rập Danny, một thứ đáng sợ sẽ tóm chầm lấy nếu cậu chỉ có một mình giữa đêm tối. Đột nhiên, chớp giật đảo lộn bầu trời, rồi đến một tiếng sấm nổ kinh hoàng và màn đêm bất thình lình sập xuống tối đen, bóng tối mịt mù và vô tận.
Tina Evans ngồi thẳng dậy trên giường, cô tin chắc đã nghe thấy một tiếng động trong nhà. Nó không đơn thuần là tiếng sấm đến từ giấc mơ. Âm thanh mà cô nghe thấy phát ra khi cô đã tỉnh thức, một tiếng động thật sự chứ không phải do tưởng tượng.
Cô chăm chú lắng nghe, sẵn sàng tung chăn và bước khỏi giường. Im lặng ngự trị không gian.
Dần dần sự nghi ngờ bắt đầu len lỏi. Thời gian gần đây cô vẫn hay bị giật mình. Đêm nay không phải là đêm đầu tiên cô bị huyễn hoặc về một kẻ đột nhập đang rình rập ngôi nhà của mình. Bốn hoặc năm lần trong suốt hai tuần qua, cô đã lấy khẩu súng lục ở tủ đầu giường và lục soát căn nhà, từng phòng một, nhưng không tìm thấy ai cả. Gần đây cô đã phải chịu rất nhiều áp lực cả về đời sống riêng tư lẫn nghề nghiệp. Có lẽ những gì nghe thấy đêm nay chỉ là tiếng sấm nổ ra trong giấc mơ.
Tina vẫn cảnh giác trong vài phút, nhưng đêm thật yên bình nên cuối cùng phải thừa nhận là trong nhà chỉ có mình cô. Khi nhịp tim chậm dần, cô lại nằm xuống gối.
Những lúc như vậy cô lại ước mình và Michael vẫn còn bên nhau. Cô nhắm mắt lại và tưởng tượng đang nằm bên cạnh rồi xích lại gần anh trong bóng tối, đụng chạm, vuốt ve, áp người vào và nằm trong vòng tay che chở của anh. Michael sẽ dỗ dành và trấn an cho đến khi giấc ngủ của cô quay trở lại.
Dĩ nhiên, nếu cô và Michael đang ở trên giường ngay lúc này thì tình thế lại khác hoàn toàn. Họ sẽ không làm tình. Họ sẽ cãi nhau. Anh ta sẽ cưỡng lại tình cảm của cô, xua đuổi cô bằng cách gây sự. Anh ta sẽ khơi mào từ một chuyện không đâu rồi trêu tức cô cho đến khi chuyện cãi nhau vặt vãnh leo thang thành cuộc chiến hôn nhân. Đó là những gì đã diễn ra trong mấy tháng cuối cùng họ ở bên nhau. Anh ta luôn sôi sục tâm lý thù địch và kiếm cớ trút giận lên cô.
Tình yêu sâu đậm khiến Tina tổn thương và đau buồn khi mối quan hệ của họ đổ vỡ. Nhưng phải thừa nhận là cô có phần cảm thấy nhẹ nhõm vì cuối cùng nó cũng chấm dứt.
Cô đã mất cả con lẫn chồng trong cùng một năm, người đàn ông rồi đến thằng bé, đứa con trai nằm dưới mộ sâu và người chồng đổi dạ thay lòng. Trong mười hai năm hôn nhân, Tina đã trở thành một con người khác và phức tạp hơn chính cô trong ngày cưới của họ, nhưng Michael thì chẳng hề thay đổi chút nào – và lại không thích con người mới của cô. Họ bắt đầu như những người tình, chia sẻ mọi chuyện trong cuộc sống thường nhật – thành công và thất bại, niềm vui và sự thất vọng – nhưng khi ly hôn xong, họ đã trở thành hai người xa lạ. Mặc dù Michael vẫn đang sống trong thành phố, chỉ cách cô không đầy một dặm (1,6km), nhưng ở một khía cạnh nào đó, anh ta cũng xa cách và không thể chạm tới giống như Danny.
Cô thở dài cam chịu và mở to đôi mắt.
Bây giờ tuy không còn buồn ngủ nữa, nhưng Tina biết mình cần phải nghỉ ngơi nhiều hơn. Cô cần phải tươi tắn và tỉnh táo vào sáng mai.
Ngày mai là một trong những ngày trọng đại nhất đời cô: 30 tháng Mười hai. Bình thường ngày đó chẳng có ý nghĩa gì đặc biệt cả. Nhưng ngày 30 tháng Mười hai này chính là dấu mốc cho toàn bộ tương lai của cô dù thế nào chăng nữa.
Trong mười lăm năm, kể từ khi cô vừa tròn mười tám tuổi, hai năm trước khi kết hôn với Michael, Tina Evans đã sống và làm việc ở Las Vegas. Cô khởi nghiệp với vai trò vũ công – không phải showgirl1 mà là một vũ công thực thụ cho Lido de Paris, một chương trình biểu diễn trên sân khấu hoành tráng tại Khách sạn Stardust. Lido là một trong những chương trình biểu diễn xa hoa và lãng phí khó tin đến mức không thể tìm thấy ở bất kỳ nơi nào trên thế giới ngoài Vegas, vì chỉ ở Vegas mới có một chương trình trị giá hàng triệu đô-la có thể được tổ chức từ năm này qua năm nọ mà chẳng quan tâm mấy đến lợi nhuận; những khoản tiền kếch xù như vậy đã được chi cho các màn dàn dựng công phu và những bộ trang phục trau chuốt, cũng như cho dàn diễn viên và ê-kíp sản xuất đông đảo, miễn là doanh thu từ bán vé và đồ uống đủ bù cho chi phí sản xuất thì khách sạn thường vẫn hài lòng. Rốt cuộc cũng chẳng có gì kỳ lạ vì chương trình chỉ là sự quyến rũ, chèo kéo với mục đích duy nhất là đưa vài ngàn người vào khách sạn mỗi đêm. Khi đến cũng như khi rời khỏi khán phòng, đám đông phải băng qua tất cả các bàn xí ngầu, bàn xì dách và cò quay roulette cũng như những dãy máy đánh bạc lấp lánh, và đó mới chính là nơi tạo ra lợi nhuận. Tina yêu thích công việc nhảy múa với Lido, và cô đã gắn bó hai năm rưỡi cho đến khi biết mình có thai. Cô đã xin nghỉ để dưỡng thai, sinh Danny và dành toàn bộ thời gian ở bên con trong những tháng đầu đời. Khi Danny được sáu tháng tuổi, Tina bắt đầu tập luyện để lấy lại vóc dáng và giành được vị trí trong dàn hợp xướng của một chương trình biểu diễn mới ở Vegas sau ba tháng miệt mài luyện tập. Cô đã xoay xở để vừa là một vũ công giỏi vừa là một người mẹ tốt, mặc dù điều đó không phải lúc nào cũng dễ dàng; thương yêu Danny và đam mê công việc của mình, cô đã chu toàn cả hai nhiệm vụ.
Tuy nhiên, cách đây năm năm, vào dịp sinh nhật lần thứ hai mươi tám của mình, cô bắt đầu nhận ra là mình chỉ còn, nếu may mắn, mười năm để làm một vũ công biểu diễn, nên cô đã quyết định lập nghiệp trong vai trò khác để tránh bị đào thải ở tuổi ba mươi tám. Cô nhận được vị trí biên đạo múa cho một chương trình kịch thời sự bèo bọt, một kiểu bắt chước rẻ tiền đầy ảm đạm so với Lido trị giá hàng triệu đô-la, và cuối cùng kiêm luôn cả phần việc của người lo trang phục. Rồi cô chuyển qua một loạt vị trí tương tự trong các rạp lớn hơn, sau đó là trong các khán phòng nhỏ với bốn hoặc năm trăm chỗ ngồi ở các khách sạn hạng hai với ngân sách chương trình hạn hẹp. Có lúc cô chỉ đạo kịch thời sự, rồi lại xoay qua sản xuất cái này chỉ đạo cái kia. Cô ngày càng được nể trọng trong thế giới giải trí dây mơ rễ má của Vegas, và tin rằng mình đang gần kề với thành công hơn bao giờ hết.
Gần một năm trước, ngay sau cái chết của Danny, Tina đã được mời chào công việc chỉ đạo và hợp tác sản xuất một chương trình khổng lồ trị giá mười triệu đô-la sẽ được dàn dựng trong khán phòng chính hai-ngàn-chỗ-ngồi của Golden Pyramid, một trong những khách sạn lớn nhất và sang trọng nhất ở Dải1. Lúc đầu, quả thật trái ngang vì một cơ hội tuyệt vời như thế lại đến trước khi cô có đủ thời gian để khâu vá vết thương của mình, như thể định mệnh thật quá hời hợt và vô cảm khi cho rằng có thể an bài và bù đắp cho cái chết của Danny chỉ bằng cách trao tặng cho cô cơ hội việc làm trong mơ. Thế nhưng, dù đang cay đắng và chán nản – hoặc cũng có thể là vì – cảm thấy hoàn toàn trống rỗng và vô dụng, cô đã nhận lời.
Chương trình mới có tên gọi là Magyck! bởi vì các tiết mục tạp kỹ xen lẫn những tiết mục nhảy múa đều là các màn ảo thuật, vả lại bản thân những tiết mục đồng diễn này tập trung vào các hiệu ứng đặc biệt công phu và được xây dựng xung quanh chủ đề siêu nhiên. Lắt léo chữ nghĩa trong tên gọi không phải là ý tưởng của Tina, nhưng hầu hết phần còn lại của chương trình là sáng tạo của riêng cô, và cô vẫn luôn hài lòng với thành quả của mình. Cũng kiệt sức nữa. Cả năm nay vụt trôi với mười hai đến mười bốn giờ làm việc mỗi ngày, chẳng có kỳ nghỉ mà cũng hiếm khi được nghỉ cuối tuần. Tuy nhiên, dù bận tâm cho Magyck! nhiều như thế, cô vẫn hết sức khó khăn trong việc chấp nhận cái chết của Danny. Cách đây một tháng, lần đầu tiên cô nghĩ rằng cuối cùng mình cũng đã bắt đầu vượt qua được nỗi đau buồn. Cô có thể nhớ đến con mà không tuôn nước mắt, đến thăm mộ con mà không còn bị mất tự chủ vì tiếc thương. Sau khi cân nhắc mọi chuyện, cô cảm thấy khá hơn, thậm chí có phần nào đó phấn khởi. Cô sẽ không bao giờ quên Danny, đứa trẻ ngọt ngào đó là một phần to lớn của cô, nhưng cô không còn phải sống cuộc đời quanh quẩn với khoảng trống mà cậu để lại. Vết thương lòng đã lành lặn tuy vẫn còn nhạy cảm với nỗi đau.
Đó là suy nghĩ của Tina một tháng trước đây. Trong một hoặc hai tuần qua cô ngày càng tiến bộ và dần học cách chấp nhận sự thật. Thế nhưng những giấc mơ mới lại bắt đầu, hơn nữa chúng còn tồi tệ hơn hàng loạt cơn ác mộng đã đến với cô ngay sau khi Danny chết.
Có lẽ những trăn trở về phản ứng của công chúng với Magyck! khiến cô nhớ lại mối lo âu lớn hơn về Danny.
Trong chưa đầy mười bảy giờ nữa – vào lúc tám giờ đêm ngày 30 tháng Mười hai – Khách sạn Golden Pyramid sẽ trình diễn một buổi ra mắt đặc biệt dành cho khách mời VIP1 xem Magyck!, và ngay đêm sau, đêm Giao thừa, chương trình sẽ mở cửa đón công chúng. Nếu phản ứng của khán giả nhiệt tình và tích cực như Tina hy vọng, tương lai tài chính của cô sẽ được đảm bảo, vì theo hợp đồng cô sẽ nhận được hai chấm năm phần trăm trên tổng doanh thu, trừ doanh số bán rượu, sau năm triệu đầu tiên. Nếu Magyck! thành công và chiếm lĩnh sân khấu trong bốn hoặc năm năm, như đôi khi xảy ra với các chương trình thành công khác ở Vegas, cuối cùng cô sẽ lên hàng triệu phú. Tất nhiên, nếu sản phẩm là một thất bại, nếu nó không làm thỏa mãn khán giả, sự nghiệp của cô có thể sẽ xuống dốc và trở lại làm việc trong các rạp nhỏ một lần nữa. Ngành nghề biểu diễn, dù dưới bất kỳ hình thức nào, là một công việc tàn nhẫn.
Rõ ràng cô có lý do xác đáng để mà lo lắng. Nỗi sợ hãi đến ám ảnh của cô về những kẻ đột nhập vào nhà, những giấc mơ đầy bất an về Danny, sự đau buồn trở lại của cô – tất cả những điều này có thể nảy sinh từ nỗi trăn trở về Magyck!. Nếu quả đúng như vậy thì các triệu chứng đó sẽ biến mất ngay sau khi số phận của chương trình được định đoạt. Chỉ cần cố gắng vượt qua trong vài ngày tới, với tâm trạng phần nào thanh thản sau đó, cô có thể tự chữa lành vết thương cho mình.
Trước tiên cô buộc phải ngủ đôi chút. Vào lúc mười giờ sáng mai, cô có lịch hẹn gặp hai đại lý điều hành tour đang có ý định đặt trước tám ngàn vé cho Magyck! trong ba tháng đầu biểu diễn. Sau đó vào lúc một giờ, toàn bộ dàn diễn viên và ê-kíp sản xuất sẽ tập hợp lại để tổng duyệt lần cuối.
Cô giũ gối, trải lại khăn giường và tròng vào chiếc áo ngủ ngắn của mình. Cô cố gắng thư giãn bằng cách nhắm mắt lại và hình dung một cơn thủy triều đêm đang dịu dàng vỗ về bờ biển ánh màu bàng bạc.
Cạch!
Cô ngồi phắt dậy trên giường.
Có một thứ gì đã bị ngã đổ đâu đó trong nhà. Hẳn nó phải là một vật thể hình dạng to lớn bởi vì âm thanh phát ra đủ lớn để đánh thức cô dậy mặc dù đã bị các bức tường ngăn cách bao bọc.
Dù có là gì đi nữa… nó cũng không đơn giản tự ngã đổ. Nó đã bị va đụng. Những vật thể to nặng không thể tự ngã đổ trong căn phòng vắng.
Cô nghiêng đầu, chăm chú lắng nghe. Một âm thanh khác nhẹ hơn theo sau tiếng động trước. Tuy kéo dài không đủ lâu để Tina xác định được nguồn gốc nhưng nó có vẻ gì đó lén lút. Lần này mối đe dọa không phải do cô tưởng tượng ra nữa. Ai đó thực sự đang ở trong nhà.
Cô bật đèn ngay khi ngồi bật dậy trên giường. Mở ngăn kéo của chiếc tủ đầu giường. Khẩu súng lục đã được lắp đạn sẵn. Cô mở hai chốt an toàn.
Dừng lại nghe ngóng một lát.
Trong sự tĩnh mịch của đêm sa mạc, Tina tưởng như mình có thể cảm nhận được kẻ xâm nhập cũng đang lắng nghe, lắng nghe cô.
Cô bước xuống khỏi giường và xỏ chân vào đôi dép lê.
Cầm súng bằng tay phải, cô lặng lẽ đến bên cửa phòng ngủ.
Cô có cân nhắc việc gọi cảnh sát, nhưng sợ sẽ tự biến mình thành một kẻ ngốc. Mọi chuyện sẽ ra sao nếu họ đến, với đèn chớp nháy và còi hụ inh ỏi – và rồi chẳng tìm thấy ai? Suốt hai tuần qua nếu cô cứ viện đến cảnh sát mỗi khi nghĩ rằng mình nghe thấy một kẻ rình mò trong nhà, có lẽ họ chẳng mất nhiều thời gian để kết luận cô là một kẻ thần kinh có vấn đề. Vì kiêu hãnh nên Tina không thể chịu đựng nổi suy nghĩ mình xuất hiện với vẻ hoảng hốt trước mặt hai gã cớm có nụ cười nhăn nhở, để rồi sau đó trong khi nhâm nhi bánh rán và cà phê, họ sẽ đem cô ra làm trò cười. Cô phải tự mình lục soát ngôi nhà, chỉ mình cô mà thôi.
Hướng khẩu súng lên trần nhà, cô lên đạn.
Hít một hơi thật sâu, cô mở khóa cửa phòng ngủ và bước nhẹ ra hành lang.
(Còn tiếp)
Trích đăng
Hoài niệm mùi hương Sài Gòn – trích đoạn “Với ngày như lá tháng như mây”
Tập tản văn tiếp nối mạch cảm hứng và tình yêu bền bỉ mà tác giả Phạm Công Luận dành cho mảnh đất Sài thành.

Trích từ: Với ngày như lá tháng như mây
Tác giả: Phạm Công Luận
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 01.2022
Bạn đọc Việt Nam đã quen thuộc với nhà báo, tác giả Phạm Công Luận qua những tựa sách gây tiếng vang và được tái bản nhiều lần như Nếu biết trăm năm là hữu hạn, Những lối về ấu thơ, Chú bé Thất Sơn. Không chỉ nổi bật trong thể loại tản văn, ông còn là một cây bút gạo cội sở hữu sức viết dồi dào, mang đến cho độc giả nhiều tập sách chuyên khảo, hồi ký về Sài Gòn giàu giá trị như Sài Gòn – Chuyện đời của phố (5 tập), Phong vị báo xuân xưa, Sài Gòn – Ngoảnh lại trăm năm…
Tập tản văn Với ngày như lá tháng như mây tiếp nối mạch cảm hứng và tình yêu bền bỉ như nguồn nước không bao giờ cạn mà tác giả Phạm Công Luận dành cho mảnh đất Sài thành. Trải dài qua 30 bài viết, tập tản văn chứa đựng một cuộc du hành trong tâm tưởng của tác giả, đưa người đọc trôi về thời xa vắng của đất Sài Gòn – Gia Định trên dưới nửa thế kỷ trước.
MÙI HƯƠNG CŨ
Chuyện giữa những người trung niên từng học chung lớp ở trường phổ thông hồi mới lớn, quanh đi quẩn lại cũng quay về bạn cũ, thầy cô xưa. Một người nhắc lại hồi năm lớp Tám, ở góc bàn của cô bạn trong lớp luôn tỏa ra mùi thơm nhẹ. Ai đến gần mới cảm thấy nhưng không rõ từ đâu. Sau có người kể là mỗi buổi sáng đi học, bạn ấy luôn mang theo một nhánh bông dạ lý hương ngắt từ vườn nhà và bỏ vào hộc bàn.
Câu chuyện dễ thương ấy bỗng dưng kéo cả đám sồn sồn gần tuổi sáu mươi về lại hơn bốn mươi năm trước. Từ câu chuyện trên, những hồi tưởng về mùi hương mở rộng ra. Họ nhắc lại mùi nước hoa thoảng nhẹ của cô giáo dạy Anh văn, mùi ban mai tinh khiết ở khu lớp phía sau sân trường, bên cạnh mấy cây cổ thụ. Một anh bảo có ai nhớ mùi sâm đại hành hồi học trường Nguyễn Thượng Hiền không, nó the the cay cay, nhất là khi lén bứt đọt non đưa lên mũi ngửi. Một anh bảo: Tao nhớ mùi tóc… mấy đứa con gái. Đi tập văn nghệ, mình ôm đàn đánh cho mấy nhỏ đó hát, tóc đứa nào cũng thơm. Tóc con gái miệt Bà Quẹo thơm mùi bồ kết, tóc con gái khu Ông Tạ xài xà bông Trầm, Lux thơm nức.
Những mùi hương cũ, sao có thể buộc ta nhớ nhiều đến vậy! Chúng đánh thức ký ức và những mộng tưởng đã mất, kéo ta về thời tuổi trẻ thần thánh không bao giờ quay lại.
Người ta cho rằng khứu giác cũng quan trọng như tất cả các giác quan nhìn, nghe, nếm và chạm. Nhưng đối với nhiều người, khứu giác quan trọng hơn cả, vì nó dựa vào tiềm thức để tồn tại, có thể dẫn chúng ta đến những điều từng không hiểu rõ, thậm chí được cho là không đáng quan tâm. Nó có thể mang lại niềm hạnh phúc, cũng có thể mang đến ký ức về một điều nguy hiểm đã từng xảy ra.
Trong tâm trí tôi, có một mùi clo trong nước hồ bơi công cộng tỏa ra vào những ngày hè ở hồ bơi Nhà văn hóa Lao động thập niên 1990. Nắng thời tuổi trẻ lung linh vàng lóa dưới mặt nước và những cô gái mặc áo tắm đi qua gợi cảm giác vui thú và nhàn tản của một mùa hè rong chơi. Cảm giác về mùi clo ấy tưởng chừng như không hề có trong tiềm thức, chợt đến đột ngột khi tôi quay lại chính hồ bơi ngày xưa lúc vừa thay nước.
Mùi nước hoa Pháp là mùi hương sâu đậm nhất về má tôi trong những ngày Tết, không phải từ mùi nhang trầm thắp đêm Giao thừa. Những sáng mùng Một, má diện áo dài màu ruốc nhạt hay nhung đen, xức chút nước hoa sau gáy, trên cườm tay… đi chùa cùng bà bạn hàng xóm, sau đó là đi chúc Tết. Tôi thường trông lúc má đứng trước gương chải lại mái tóc trước khi đi, để được ôm bà, cảm nhận mùi nước hoa với mùi vải áo dài.
Sau này, khi nhớ về người mẹ đã khuất, tôi nhớ thêm mùi hương khác, không dễ chịu cho lắm, là mùi dấm chua ngai ngái thấm vào cục bột nhão mà má nắm lấy để lăn trên lưng cho tôi khi đang trong cơn sốt. Trong cơn mệt mỏi của đứa trẻ bảy tuổi, tôi biết có giọt nước mắt má nhỏ xuống lưng mình.
Lần đầu tiên ra nước ngoài hơn hai mươi năm trước, tôi ở Nhật cả tháng trời và mùi hương tôi nhớ nhất là mùi… khoai tây chiên tỏa ra từ các trung tâm thương mại. Sau này, món khoai tây chiên ở đâu cũng có, nhưng khi trở lại Nhật, tôi nhận ra đó là một mùi rất riêng biệt. Đó là mùi thành phố của nước Nhật, có khi chỉ mình tôi nghĩ vậy. Chắc chắn mỗi thành phố, mỗi khu phố đều có một mùi riêng. Mùi của vài con phố ở Hà Nội là mùi dấm tỏi trong món phở và mùi chả cá. Mùi của Chợ Lớn là mùi thuốc Bắc khi quẹo khúc cua trên đường Hải Thượng Lãn Ông. Mùi của xóm tôi một thời là mùi bông nguyệt quế ban đêm. Mùi của ngôi nhà thời ấu thơ là mùi thuốc tẩu của ba và mùi sơn dầu của ông anh trước cái giá vẽ. Mùi của khu đường rầy xe lửa cổng số 8 cắt ngang đường Nguyễn Minh Chiếu là mùi bò nhúng dấm cộng với mùi bia tỏa ra từ quán Ánh Hồng của ông bà Tư Khá. Mùi của nhà hàng xóm sát bên là mùi chuối nếp nướng chuẩn bị cho buổi bán chiều.
Khi nhớ đến những mùi hương thoảng qua đời mình như vậy, tôi nhận lại nhiều ký ức lung linh. Những ký ức đó đẹp vì diễn ra trong thời thơ ấu, lúc không vướng bận những trách nhiệm và lo toan của tuổi trưởng thành. Có thể khi nhớ lại, chúng ta lý tưởng hóa chúng dù trải nghiệm thật sự không dễ chịu. Dầu biết vậy, tôi cảm thấy điều đó thật tốt cho một “người lớn” sau này, khi luôn trong trạng thái đối diện với cuộc sống trần trụi.
Tôi đọc được đâu đó là ở nước Mỹ, những người sinh trước năm 1930 có xu hướng nhớ lại những mùi liên quan đến thiên nhiên nhiều hơn những người sinh ra trong những thập kỷ sau đó. Điều này có thể phản ánh sự đô thị hóa ngày càng tăng sau những năm 1930 ở nước Mỹ. Ở Việt Nam, thế hệ nào còn nhớ nhiều nhất những mùi hương của thiên nhiên?
“Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình”, “Để tưởng nhớmùihương”, “Mùi của ký ức”,… những câu thơ, tên sách, tên truyện đậm cảm xúc về một mùi hương xa xưa. Những mùi hương một thuở ấy, có thể vô can vô cớ đến với ta lúc bất ngờ nhất, có thể khiến một người chai sạn mùi đời ngẩn ngơ và thả nỗi nhung nhớ đi rất xa. Tôi đọc một đoạn văn trong cuốn sách Sống và viết với, có bài phỏng vấn nhà văn Nguyễn Hiến Lê của tác giả Nguyễn Ngu Í.
Ông Nguyễn Hiến Lê giữa thập niên 1960 sống trên đường Huỳnh Tịnh Của. Một lần đi bộ đến cuối đường Pasteur gần đó, ông bắt gặp một mùi hương nhẹ khiến ông cảm thấy như “lạc vào một thế giới khác”. Đó là mùi hương của cây sao. Khi nhắc đến câu chuyện đó với nhà báo, ông kể chuyện làng Ngọc Hà ngoài Hà Nội khi ông còn nhỏ và cảnh phố Hàng Đường gần chợ Đồng Xuân những ngày rằm và mồng Một. Ngày đó người ta quý bông ngọc lan hay hoàng lan, chỉ ngắt từng đóa chứ ít khi bẻ trọn cành để chưng hay để bán. Một xu được năm sáu bông quế hay hồng, lan, sói, móng rồng,… Tất cả gói trong lá chuối, mang về chưng trong đĩa sứ. Khi vào sống ở Sài Gòn, ông trồng hoàng lan trong góc sân. Khi ngồi viết, hương hoa thoang thoảng khiến ông có cảm tưởng mùi hương đến thăm ông, an ủi hay nhắc nhở, cười cợt,… tùy lúc. Ông nói: “Sắc thì ta phải đi tìm nó để thưởng nó, hương thì nó tìm ta để làm dịu hồn ta. Nó âm thầm, kín đáo, tế nhị, chỉ cho thôi chứ không cần đáp. Nó bỗng tới rồi bỗng đi, nó phảng phất, nó phiêu diêu…”. Nguyễn Hiến Lê tự nhận mình là người không lãng mạn, nhưng khi nói lên điều này, ông thể hiện tâm hồn lãng mạn và yêu thiên nhiên sâu sắc.
Nhớ mấy chục năm trước, sau hai tháng đi công tác xa, tôi về tới nhà vào buổi tối và chìm ngay vào giấc ngủ. Sáng sớm, thoang thoảng hương cà phê lan tỏa từ cái phòng nhỏ bên cạnh bếp, nơi ba tôi ngồi pha cà phê uống mỗi sáng sớm. Lúc đó, cảm giác bình yên ập tới khiến tôi thấy yêu gia đình biết bao nhiêu. Mùi cà phê quen thuộc giúp tôi định vị được cái ổ an toàn và thân thuộc từ hồi tấm bé của mình. Sau này, khi lập gia đình, loại mùi hương quan trọng với tôi đó là mùi thịt nướng dưới bếp, mùi xoài chín từ Cam Ranh gửi vào, mùi nắng trên sân thượng ấm nồng trên chồng quần áo vừa khô… và mùi hương tóc, hương da thân thuộc của những người thân yêu trong gia đình nhỏ.
- Còn tiếp -
Trích đăng
Phụ nữ và trẻ em sẽ điều khiển thế giới? – trích “2030: Những xu hướng lớn sẽ định hình thế giới tương lai”
Dân số thế giới có vẻ tăng với tốc độ kinh hoàng. Tuy nhiên, đến năm 2030, chúng ta sẽ phải đối mặt với thực tế khan hiếm trẻ sơ sinh.

Trích từ: 2030: Những xu hướng lớn sẽ định hình thế giới tương lai
Tác giả: Mauro F. Guillén
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 12.2021
Được viết bằng văn phong hấp dẫn đan xen các dẫn chứng khoa học, 2030: Những xu hướng lớn sẽ định hình thế giới tương lai là một bản phân tích sâu rộng, chặt chẽ và đầy thuyết phục về xã hội loài người trong tương lai gần, trải dài trên nhiều lĩnh vực từ nhân khẩu học, kinh tế, đô thị hóa cho đến những cách tân công nghệ mới nhất như tiền điện tử và trí tuệ nhân tạo.
Tác giả sách Mauro F. Guillén là diễn giả, nhà tư vấn uy tín cho nhiều doanh nghiệp, một chuyên gia hàng đầu về xu hướng toàn cầu. Ông từng tốt nghiệp Xã hội học ở Đại học Yale và Kinh tế học ở Tây Ban Nha. Ông đồng thời cũng là một nhà tư tưởng, học giả và giáo viên đoạt giải thưởng tại Trường Wharton, nơi ông giữ chức Giáo sư Zandman về Quản lý Quốc tế và giảng dạy trong Chương trình Quản lý Nâng cao hàng đầu cùng nhiều khóa học khác cho giám đốc điều hành, MBAs và sinh viên đại học.
Hiện nay, ông là Giám đốc kiêm Hiệu trưởng của Trường Kinh doanh Cambridge Judge và là thành viên của Queen's College tại Đại học Cambridge.
***
Dân số thế giới có vẻ tăng với tốc độ kinh hoàng. Năm 1820 chỉ có 1 tỷ người trên trái đất. Một thế kỷ sau, đã có hơn 2 tỷ. Gián đoạn một thời gian ngắn sau cuộc Đại suy thoái và Thế chiến thứ II, tỷ lệ tăng dân số quay trở lại với tốc độ ngoạn mục: 3 tỷ năm 1960, 4 tỷ năm 1975, 5 tỷ năm 1987, 6 tỷ năm 2000, và 7 tỷ năm 2010. “Kiểm soát dân số, hay chạy đua tới diệt vong?”– là tiêu đề nổi bật trên trang bìa cuốn sách gây chấn động The Population Bomb (Tạm dịch Bùng nổ dân số) xuất bản năm 1968 của các giáo sư Đại học Stanford Paul và Anne Ehrlich. Kể từ đó, các chính phủ và tổ chức xã hội lớn trên toàn thế giới phải nghiêm túc quan tâm đến hiện thực không thể tránh khỏi này: Chúng ta sẽ tràn ngập hành tinh và hủy diệt chính mình (cùng hàng triệu loài động thực vật).
Tuy nhiên, đến năm 2030, chúng ta sẽ phải đối mặt với thực tế khan hiếm trẻ sơ sinh.
Trong vài thập niên tới, dân số thế giới sẽ tăng với tỷ lệ chưa đến một nửa so với tỷ lệ của những năm từ 1960 đến 1990. Ở một số quốc gia, dân số thậm chí còn giảm (vì không có nhiều người nhập cư). Một ví dụ cụ thể, kể từ đầu thập niên 1970, phụ nữ Mỹ trong độ tuổi sinh sản trung bình có ít hơn hai con – một tỷ lệ không đủ để thay thế cho thế hệ già. Nhiều nơi khác trên thế giới cũng thế. Người dân ở các quốc gia như Brazil, Canada, Thụy Điển, Trung Quốc, và Nhật Bản bắt đầu lo lắng ai sẽ chăm sóc người già và trả lương hưu.
Tỷ lệ sinh ở Đông Á, châu Âu và châu Mỹ suy giảm trong khi ở châu Phi, Trung Đông và Nam Á, tỷ lệ này giảm chậm, dẫn đến sự thay đổi trong thế cân bằng quyền lực kinh tế và địa chính trị trên toàn cầu. Hãy xem: Hiện nay khi một trẻ sinh ra ở các nước phát triển thì có hơn chín trẻ được sinh ra ở các quốc gia đang phát triển và thị trường mới nổi. Nói cách khác, cứ mỗi trẻ được sinh ra ở Mỹ thì có 4,4 trẻ được sinh ra ở Trung Quốc; 6,5 trẻ ở Ấn Độ và 10,2 trẻ ở châu Phi. Thêm vào đó, điều kiện dinh dưỡng và y tế ở các nước nghèo nhất thế giới ngày càng được cải thiện, làm tăng số lượng trẻ sơ sinh sống được đến tuổi trưởng thành và bước vào tuổi sinh sản. Nửa thế kỷ trước, ở các nước châu Phi như Kenya và Ghana, cứ 4 trẻ thì có 1 trẻ chết dưới 14 tuổi, nhưng hiện nay tỷ lệ này còn thấp hơn 1/10.
Những thay đổi nhanh chóng về dân số thế giới xuất phát không chỉ từ các nước có tỷ lệ sinh cao hơn, mà còn từ các quốc gia có tuổi thọ tăng nhanh. Ví dụ, trong những năm 1950, tuổi thọ trung bình của dân số ở những nơi kém phát triển nhất thế giới thấp hơn 30 năm so với tuổi thọ ở các quốc gia phát triển nhất. Ngày nay khoảng cách này chỉ còn là 17 năm. Thời gian từ năm 1950 đến 2015, tỷ lệ tử vong ở châu Âu giảm chỉ 3% trong khi ở châu Phi giảm đến 65%. Các nước nghèo hơn đang bắt kịp xu thế tuổi thọ cao nhờ giảm tỷ lệ tử vong ở tất cả các độ tuổi.

Hãy xem Hình 3 để đánh giá tác động của thay đổi nhân khẩu học đối với toàn thế giới, thể hiện qua tỷ lệ phần trăm tổng dân số các khu vực trên thế giới từ năm 1950 đến 2017 cùng với con số dự báo cho đến năm 2100 của Liên Hiệp Quốc.
Tập trung vào năm 2030, ta thấy Nam Á (bao gồm cả Ấn Độ) sẽ vẫn dẫn đầu về số dân. Châu Phi trở thành khu vực dân số lớn thứ hai, trong khi Đông Á (bao gồm cả Trung Quốc) sẽ rớt xuống hạng ba. Châu Âu, từng xếp thứ hai trong thập niên 1950, nhưng sẽ rơi xuống vị trí thứ sáu, đứng sau Đông Nam Á (bao gồm Campuchia, Indonesia, Philippines, và Thái Lan, cùng với một số quốc gia khác) và châu Mỹ Latinh.
Dòng di cư quốc tế có thể phần nào làm dịu bớt tác động tiêu cực của biến động lớn này vì các nước có nhiều trẻ em sẽ bù đắp cho những nơi thiếu hụt trên thế giới. Thực chất, hiện tượng này đã xảy ra nhiều lần trong lịch sử, chẳng hạn trong những năm 1950 và 1960 có rất nhiều người ở khu vực Nam Âu di cư đến Bắc Âu. Tuy nhiên, thời nay, dòng di cư sẽ không đủ lớn để xoay đổi các xu hướng dân số (xem dữ liệu trong Hình 3). Tôi phải nhấn mạnh điểm này vì có vẻ quá nhiều chính phủ đang muốn tăng cường bức tường biên giới, dù là theo cách truyền thống (với gạch và vữa), hay sử dụng công nghệ laser, máy dò, hay cả hai.
Nhưng ngay cả khi không tăng cường kiểm soát biên giới, tôi vẫn cho rằng dòng di cư không thể tác động quá lớn đến xu hướng dân số. Với mức độ di cư và gia tăng dân số hiện tại, Tiểu vùng Sahara châu Phi – gồm 50 quốc gia châu Phi không giáp với biển Địa Trung Hải – sẽ trở thành khu vực đông dân thứ hai trên thế giới vào năm 2030. Giả sử cứ cho là số dân di cư sẽ tăng gấp đôi trong 20 năm tới thì cũng chỉ làm chậm dự đoán trên cho đến năm 2033. Như vậy cũng không thể làm chệch xu hướng chủ yếu dẫn đến sự thay đổi dân số thế giới hiện tại mà chỉ làm chậm lại ba năm.
PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM ĐIỀU KHIỂN THẾ GIỚI
Vậy đâu là vấn đề đằng sau hiện tượng giảm sinh trên toàn cầu? Câu hỏi không dễ trả lời, dù nói chung, việc thụ thai một em bé không có gì khó với nhiều phương pháp dễ sử dụng và phổ biến. Tôi xin bắt đầu trả lời bằng câu chuyện của một trong những cụ kỵ nhà tôi ở Tây Ban Nha, người mang thai 21 lần và sinh được 19 người con. Bà sinh con đầu khi 21 tuổi và sinh con út khi đã 42. Đất nước phát triển và phụ nữ có điều kiện tốt hơn để học hành, gia đình trở nên nhỏ dần cho đến mức một phụ nữ chỉ có một hoặc hai con.

Thực tế ở các nơi khác trên thế giới như châu Phi, Trung Đông và Nam Á, hàng triệu phụ nữ hiện nay vẫn có năm, mười, hoặc thậm chí nhiều con hơn trong đời. Tuy nhiên, theo thời gian, số trẻ sơ sinh trung bình trên mỗi phụ nữ ở các nước đang phát triển đang giảm dần, cũng như ở các nước phát triển con số này suy giảm mạnh kể từ hai thế hệ trước. Phụ nữ bây giờ có cơ hội tận hưởng nhiều thứ bên ngoài gia đình. Để nắm bắt cơ hội, họ chú trọng việc học hành và nhiều trường hợp muốn tiếp tục học lên cao hơn. Điều này có nghĩa họ sẽ có con chậm hơn. Sự thay đổi vai trò của người phụ nữ trong nền kinh tế nói riêng và trong xã hội nói chung chính là yếu tố quan trọng nhất dẫn đến hiện tượng giảm sinh trên toàn thế giới. Phụ nữ đang ngày càng ảnh hưởng nhiều hơn đến những gì xảy ra trên toàn cầu.
Hãy xem phụ nữ Mỹ thay đổi thứ tự ưu tiên trong đời mình nhanh chóng như thế nào. Và những năm 1950, phụ nữ Mỹ kết hôn trung bình ở tuổi 20; ở nam giới là 22 tuổi. Ngày nay con số đó là 27 cho nữ và 29 cho nam. Độ tuổi sinh con lần đầu trung bình cũng tăng thành 28 tuổi. Có sự thay đổi này phần lớn là do thời gian dành cho học hành dài hơn. Hiện nay, rất nhiều phụ nữ tốt nghiệp trung học, và không ít người tiếp tục lên đại học. Những năm 1950, có khoảng 7% phụ nữ trong độ tuổi từ 25 đến 29 có bằng đại học, chỉ bằng một nửa so với đàn ông. Ngày nay, tỷ lệ phụ nữ có bằng đại học đạt gần 40%, trong khi nam giới chỉ đạt 32%.
TÌNH TRẠNG SUY GIẢM HAM MUỐN TÌNH DỤC
Chiều hướng tiến hóa dân số có vẻ đã thay đổi. Trong nhiều thiên niên kỷ, sự tăng trưởng dân số chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố quyết định như lương thực, chiến tranh, bệnh tật, và thiên tai. Các nhà triết học, thần học, và khoa học đã vất vả hàng thế kỷ để trả lời câu hỏi Trái đất có thể nuôi sống bao nhiêu con người. Năm 1798, nhà kinh tế học, nhân khẩu học người Anh – Đức Cha Thomas Robert Malthus, đã cảnh báo về hiện tượng mà sau này được biết đến là “bẫy Malthus” – tức xu hướng sinh sản tràn lan làm cạn kiệt nguồn sinh sống của con người. Vào thời của Malthus, dân số thế giới chưa đến 1 tỷ người (so với 7,5 tỷ người ngày nay). Ông cho rằng con người là kẻ thù xấu xa nhất của chính mình vì sinh hoạt tình dục bừa bãi. Theo ông, dân số tăng vọt sẽ dẫn đến nạn đói và bệnh tật vì nguồn cung cấp lương thực không thể theo kịp. Malthus và nhiều người cùng thời đã lo ngại đến nguy cơ tuyệt chủng của loài người do sinh sản tràn lan. Ông viết: “Với vấn nạn gia tăng dân số vượt hơn khả năng trái đất có thể nuôi sống, nhân loại sẽ phải chịu tình trạng chết yểu theo cách này hay cách khác”.

Với lợi thế của hậu bối, ngày nay chúng ta có thể nói rằng Malthus đã đánh giá thấp vai trò phi thường của các phát minh cải tiến nhằm gia tăng sản lượng nông nghiệp. Ông cũng không thấy hết tiềm năng mở rộng nguồn cung lương thực thông qua thương mại quốc tế nhờ vận chuyển đường biển vừa nhanh vừa rẻ. Tuy nhiên, ông đã đúng khi nhấn mạnh dân số và thực phẩm là hai mặt của một vấn đề.
Không chỉ đánh giá thấp vai trò to lớn của tiến bộ khoa học trong sản xuất và phân phối lương thực, Malthus còn hoàn toàn bỏ qua thực tế công nghệ hiện đại có thể làm suy giảm ham muốn tình dục của con người. Lý do rất đơn giản: Càng có nhiều hình thức giải trí thì người ta càng giảm sinh hoạt tình dục. Xã hội hiện đại cho chúng ta mọi loại hình giải trí, từ phát thanh, truyền hình cho đến trò chơi điện tử hay phương tiện truyền thông. Ở một số nước phát triển, kể cả Mỹ, tỷ lệ sinh hoạt tình dục đã suy giảm trong vài thập niên qua. Một nghiên cứu toàn diện được đăng trên tạp chí Archives of Sexual Behavior cho thấy “người Mỹ trưởng thành quan hệ tình dục ít hơn khoảng chín lần trong đầu thập niên 2010 so với cuối thập niên 1990”, sự suy giảm này chủ yếu xảy ra ở những cặp vợ chồng hoặc cặp đôi sống chung đã lâu. Nếu dựa trên độ tuổi, thì “những người sinh trong thập niên 1930 (Thế hệ Im lặng) sinh hoạt tình dục thường xuyên nhất, trong khi những người sinh trong thập niên 1990 (Thế hệ Millennials và iGen) lại quan hệ tình dục ít nhất”. Nghiên cứu đưa ra kết luận: “Người Mỹ giảm sinh hoạt tình dục vì… số lượng cá nhân độc thân hoặc không có bạn tình ngày càng tăng, đi đôi với sự suy giảm tần suất sinh hoạt tình dục ở các cặp đôi phối ngẫu lâu dài”.
Một ví dụ thú vị chứng minh tác động của giải trí đến ham muốn tình dục của chúng ta, liên quan đến một vụ mất điện. Năm 2008, trên đảo Zanzibar, ngoài khơi bờ biển Đông Phi, xảy ra một vụ mất điện cực kỳ khó chịu, kéo dài hết cả tháng. Vụ việc chỉ ảnh hưởng đến khu vực có điện lưới trên đảo; những nhà còn lại vẫn tiếp tục sử dụng máy phát điện. Đây là cơ hội hiếm có cho các nhà nghiên cứu có thể tiến hành “thử nghiệm” về hoạt động sinh sản của người dân, thông qua “nhóm thử nghiệm” bao gồm các gia đình không có điện và “nhóm đối chứng” bao gồm những hộ sử dụng máy phát điện trong tháng mất điện đó. Chín tháng sau, tỷ lệ sinh sản của nhóm thử nghiệm tăng khoảng 20%, trong khi tỷ lệ của nhóm đối chứng vẫn không đổi.
ĐỒNG TIỀN XOAY VÒNG THẾ GIỚI
Tiền dĩ nhiên cũng đóng vai trò lớn trong quyết định sinh con của chúng ta. Năm 2018, tờ New York Times tiến hành một cuộc khảo sát để tìm hiểu lý do tại sao người Mỹ ngày càng có ít con hoặc thậm chí không có con. Bốn trong năm lý do hàng đầu có liên quan đến tiền bạc. “Tiền lương không tăng kịp với chi phí sinh hoạt, cộng với khoản vay sinh viên nên khó mà ổn định tài chính – cho dù có bằng đại học, có việc làm và hai nguồn thu nhập”, chia sẻ của anh David Carlson, 29 tuổi, có vợ cũng đi làm. Thanh niên từ các gia đình có thu nhập thấp cũng ngại có con vì họ buộc phải lựa chọn giữa xây dựng gia đình hay để dành tiền cho những điều có giá trị khác.
Như trường hợp của Brittany Butler, người gốc Baton Rouge, Louisiana, cô là người đầu tiên trong gia đình tốt nghiệp đại học. Ở tuổi 22, cô ưu tiên lấy bằng thạc sĩ về công tác xã hội trước rồi trả các khoản vay sinh viên, và ổn định cuộc sống ở một nơi an toàn. Còn chuyện con cái tính sau.
Trở lại những năm 1960, nhà kinh tế học Trường Đại học Chicago Gary Becker đã đưa ra luận điểm quan trọng về cơ sở quyết định sinh con của các bậc cha mẹ: Họ cân nhắc đánh đổi giữa chất lượng và số lượng con họ mong muốn. Thông thường, khi thu nhập tăng, họ có thể mua thêm một hoặc hai chiếc xe nhưng sẽ không mua hàng chục cái cho dù có nhiều tiền đến đâu. Họ cũng không mua hàng chục cái tủ lạnh hay máy giặt. Becker lý luận rằng khi thu nhập tăng cao người ta sẽ chú trọng về chất lượng thay vì số lượng; nghĩa là, họ sẽ thay những chiếc xe cũ tàn tạ bằng một chiếc sedan hoặc SUV mới hơn, lớn hơn, và sang trọng hơn. Đối với con cái, điều này có nghĩa là họ dành nhiều sự quan tâm và tiền bạc hơn cho một số ít con hơn. Ông viết: “Cân nhắc giữa số lượng và chất lượng con cái là lý do quan trọng nhất khiến các bậc phụ huynh quyết định tập trung nhiều hơn cho con khi thu nhập gia tăng”, nghĩa là khi có thêm thu nhập, họ muốn đầu tư nhiều hơn cho từng đứa để chúng có nhiều cơ hội tốt hơn trong cuộc sống.

Luận điểm về hành vi con người của Becker đã mang lại cho ông giải Nobel Kinh tế Khoa học năm 1992. Đối với một vấn đề phức tạp như tỷ lệ sinh sản, ý tưởng của ông đã bỏ sót vai trò của sở thích cũng như các tiêu chuẩn văn hóa và giá trị, tuy nhiên ông đã khởi xướng một xu hướng xã hội quan trọng. Ngày nay, nhiều phụ huynh chú trọng đầu tư thêm thời gian và tiền bạc cho ít con hơn để chúng có được những cơ hội thành công nhất có thể, từ tiền đóng học phí đại học cho đến tham gia các hoạt động ngoại khóa.
Như nhà xã hội học Trường Đại học Maryland Philip Cohen giải thích: “Chúng ta muốn đầu tư cho con nhiều hơn để chúng có những cơ hội tốt nhất khi cạnh tranh trong một môi trường ngày càng bất bình đẳng”. Theo nghĩa đó, con cái được xem như là dự án đầu tư, với giá trị hiện tại ròng (NPV) và tỷ suất hoàn vốn (ROI).
Để biết các cặp vợ chồng dựa vào đâu mà quyết định sẽ có bao nhiêu con, chúng ta hãy xem số tiền họ cần chi tiêu cho mỗi đứa. Năm 2015, chính phủ liên bang tính được để nuôi dạy một đứa trẻ cho đến năm 17 tuổi, một gia đình trung bình ở Mỹ sẽ phải chi một số tiền đáng kinh ngạc là 233.610 USD, chưa kể nếu bao gồm cả học phí đại học thì số tiền đó sẽ gấp đôi. Trong máy tính xách tay, tôi có một bảng liệt kê mọi thu nhập và chi phí gia đình mỗi năm. Quả là sửng sốt khi biết một gia đình trung bình ở Mỹ có thể sẽ phải chi hơn nửa triệu đô la cho mỗi đứa con, nhất là khi chúng tốt nghiệp từ trường đại học đắt tiền. Tôi làm một bảng tính khác với các hạng mục tương tự nhưng trừ ra mọi chi phí liên quan đến con cái. Kết quả là nếu không đầu tư cho con cái ăn học, chúng ta có thể mua một chiếc xe hơi sang trọng hay một nhà nghỉ bên bờ biển.
- Còn tiếp -
-
KOMOaudio3 năm ago
10 cuốn sách xanh biếc về môi trường và thiên nhiên
-
Cafe sáng2 năm ago
Khai trương Phương Nam Book City Saigon Center, điểm hẹn văn hóa mới của người Sài Thành
-
Trà chiều2 năm ago
Truyện cổ tích và sự khác biệt trong cách các nền văn hóa nhìn nhận thế giới
-
Phía sau trang sách3 năm ago
Rừng Na Uy, về Murakami và những kẻ cứ nghĩ là mình cô đơn lắm
-
Phía sau trang sách1 năm ago
Khi các nhà văn đá xéo nhau: Tận cùng của sự đanh đá (phần 1)
-
Cafe sáng2 năm ago
Học Chất Hết Nấc với Lớp học Mật Ngữ: Tập đẹp, ba lô xinh và phụ kiện cá tính
-
Trà chiều3 năm ago
Tại sao ta không nên đọc mọi thứ và không nên tin mọi thứ ta đọc?
-
Book trailer3 năm ago
Đồi gió hú: Một tình yêu đi ngược với chuẩn mực đạo đức đương thời