Trích đăng

Truyện ngắn: Thằng Lùn – trích Xứ tháng Mười

Trích truyện ngắn “Thằng lùn” trong tuyển tập “Xứ tháng Mười” của Ray Bradbury.

Published

on

Trích từ: Xứ tháng Mười
Tác giả: Ray Bradbury
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 03.2022

THẰNG LÙN

Aimee ngắm bầu trời, lặng lẽ.

Đêm nay là một trong những đêm hè oi ả im lìm. Sân bến  tàu  bê-tông  vắng  bóng  người,  những  bóng  đèn  vàng, trắng, đỏ giăng mắc cháy sáng như bầy côn trùng lơ lửng bên trên khoảng không đông đặc. Những người quản lý đủ loại gian hàng trò chơi hội chợ đứng bất động, những xác ướp bằng sáp đang tan chảy, không nói năng, mắt nhìn đờ đẫn, không trừ một ai.

Hai khách đã đi qua đây từ một giờ trước. Hai kẻ lẻ loi ấy giờ đang ngồi trên tàu lượn cao tốc, la hét như điên khi đoàn tàu xé màn đêm chói lóa lao thẳng xuống, quay tròn, quay tròn những vòng vô nghĩa.

Aimee chầm chậm đi băng qua bãi biển, mấy vòng gỗ ném cọc bám nhớp nháp trong hai bàn tay. Cô dừng lại sau quầy bán vé trước cửa MÊ CUNG NHÀ KÍNH. Cô thấy bóng mình biến dạng  gớm  guốc  trong  ba  tấm  gương  dợn  sóng bên ngoài Mê Cung. Một ngàn bản sao mệt mỏi của bóng cô tan biến vào lối đi phía bên kia, những ảnh hình nóng hổi giữa vùng gương lạnh trong veo.

Cô bước vào trong quầy vé đứng nhìn hồi lâu cần cổ gầy guộc của Ralph Banghart. Hắn cắn giữa hai hàm răng dài ố vàng lởm chởm một điếu xì-gà chưa châm lửa trong khi bày bộ bài tơi tả ra chơi một mình trên kệ quầy.

Lúc  chiếc  tàu  lượn  quay  rú  lên  rồi  lại  lao  xuống  kinh động như núi lở, cô sực nhớ ra và lên tiếng.

“Loại người nào thích lên tàu lượn cao tốc?”

Ralph Banghart nhấm nhá điếu xì-gà cả ba mươi giây. “Những kẻ muốn chết. Tàu lượn là dễ chết nhất.” Hắn ngồi lắng nghe tiếng súng trường nổ mơ hồ vọng ra từ gian trò chơi bắn súng. “Cái nghề làm hội chợ chó chết này đúng là điên rồ. Chẳng hạn như thằng lùn kia. Cô gặp nó chưa? Tối nào cũng vậy, bỏ một đồng xu, chạy vào Mê Cung Nhà Kính ra tít đằng sau, tới buồng Khổng Lồ. Rồi cô sẽ thấy thằng lùn tịt này chạy thẳng tới đó cho coi. Thiệt tình!”

“Ờ, đúng,” Aimee thốt lên, cô đã nhớ ra. “Em luôn thắc mắc không biết làm người lùn thì cảm giác ra sao. Gặp người lùn nào em cũng thấy thương hại.”

“Tôi cứ muốn tóm lấy nó mà co kéo thun giãn chơi.” “Đừng nói thế chứ!”

“Trời đất,” Ralph đưa bàn tay rảnh rỗi vỗ đùi cô. “Lúc nào cô cũng có thái độ kỳ cục như vậy với những thằng cha thậm chí cô còn chưa gặp.” Hắn lắc đầu cười khúc khích.

“Nó với bí mật của nó. Chỉ có điều nó không biết là tôi biết đó nghe? Thế mới hay chứ!”

“Tối nay nóng.” Cô bồn chồn xóc xóc mấy vòng gỗ lớn trong những ngón tay ướt mồ hôi.

“Đừng  lái  qua  chuyện  khác.  Nó  sẽ  tới  đây,  dù  nắng hay mưa.”

Aimee dợm bước đi.

Ralph nắm lấy khuỷu tay cô. “Này! Cô khùng sao chứ? Không muốn thấy thằng lùn đó à? Suỵt!” Ralph quay lại. “Nó đến rồi kìa!”

Chỉ có mỗi bàn tay Thằng Lùn, đen đúa và lông lá, hiện ra với một đồng xu bạc khi cố với lên ô cửa quầy vé. “Một vé!” Một tiếng nói lanh lảnh như giọng trẻ con.

Bất giác, Aimee chồm tới.

Thằng Lùn ngước nhìn cô, rành rành một gã xấu xí, tóc đen, mắt đen bị lèn chặt trong máy ép, bị vắt nặn và nhồi nhét cho nhỏ choắt thêm, từng chút một, bẻ quặp lui tới, oằn oại ngược xuôi, cho đến khi chỉ còn một đống phẫn nộ nhợt nhạt, bộ mặt sưng húp không hình thù, bộ mặt mà ta phải mở căng mắt tỉnh thức lúc hai và ba và bốn giờ sáng, nằm bẹp trên giường, chỉ có cơ thể say ngủ.

Ralph xé chiếc vé màu vàng làm đôi. “Một vé!”

Dường như hoảng sợ vì cơn dông sắp đến, Thằng Lùn kéo chặt ve áo choàng đen quanh cổ rồi lắc lư hấp tấp bước đi. Một thoáng sau, mười ngàn thằng lùn lang thang lạc loài bò quằn quại giữa những mặt gương, như một đàn bọ hung đen cuống quýt, rồi biến mất.

“Mau!”

Ralph ôm cứng Aimee rồi lôi cô theo hành lang âm u đằng sau những tấm gương. Cô thấy tay hắn vỗ về cô suốt quãng đường đi ngược xuyên qua đường hầm dẫn tới một vách ngăn mỏng có lỗ nhỏ quan sát.

“Chuyện này hay,” hắn cười khúc khích. “Đó… nhìn đi.” Aimee ngần ngừ, rồi úp mặt vào vách ngăn.

“Cô… thấy… nó… không?” Ralph thì thào.

Aimee nghe tim mình đập dồn. Trọn một phút trôi qua. Trong  đó  Thằng  Lùn  đứng  giữa  căn  buồng  nhỏ  màu xanh. Mắt gã nhắm nghiền. Gã chưa sẵn sàng mở mắt nhìn. Giờ thì gã mở hai mi mắt lên rồi ngắm tấm gương lớn trước mặt. Và điều nhìn thấy được trong gương khiến gã mỉm cười. Gã nháy mắt, gã xoay tròn, gã đứng quay sang một bên, gã vẫy tay, gã cúi chào, gã lóng ngóng nhún nhảy khẽ khàng.

Và tấm gương lặp lại từng chuyển động với đôi cánh tay dài ngoằng, với một thân hình cao thêm, cao thêm, với cái nháy mắt to lớn và bóng hồi vọng khổng lồ của điệu múa, kết thúc bằng cái cúi chào vĩ đại!

“Tối nào cũng một trò đó,” Ralph thầm thì vào tai Aimee. “Hay thật đấy chứ?”

Aimee  quay  lại,  hướng  gương  mặt  bất  động  về  phía Ralph nhìn chăm chăm một hồi lâu, không nói năng gì. Rồi cứ như không tự kiềm chế được, cô từ từ quay đầu rất chậm, rất chậm trở lại lỗ quan sát căng mắt nhìn lần nữa. Cô nín thở. Cô thấy đôi mắt mình bắt đầu rướm lệ.

Ralph vừa huých nhẹ cô vừa thì thào.

“Này, thằng oắt lùn đó đang làm gì lúc này?

Nửa giờ sau, hai người cứ uống cà phê trong quầy vé mà chẳng ai nhìn ai khi Thằng Lùn từ trong những tấm gương đi ra. Gã bỏ mũ xuống và dợm bước tới quầy vé nhưng thấy Aimee lại hấp tấp bỏ đi.

“Anh ta muốn cái gì đó,” Aimee nói.

“Đúng.” Ralph dí nát điếu thuốc, vẻ bâng quơ. “Tôi còn biết nó muốn cái gì nữa kìa. Nhưng nó không dám hỏi. Có một đêm nó nói léo nhéo lí nhí, ‘Tôi chắc là mấy tấm gương đó đắt tiền lắm.’ Ôi, tôi giả ngu. Tôi nói, Ờ, đắt lắm. Coi bộ nó nhìn tôi như chờ đợi, rồi thấy tôi không nói gì nữa thì nó đi về, nhưng đêm sau nó lại hỏi. ‘Tôi chắc mấy tấm gương đó cũng phải đến cả năm chục, cả trăm đô?’ Chắc là thế, tôi nói vậy. Rồi tôi chia bài ra chơi một mình.”

“Ralph,” cô gọi.

Hắn ngước lên. “Sao cô nhìn tôi kỳ vậy?”

“Ralph,”  cô  nói,  “sao  không  bán  cho  anh  ta  một  tấm gương nào dư thừa của anh đi?”

“Này, Aimee, tôi có xía vào chuyện quản lý gian hàng ném vòng của cô không?”

“Mấy tấm gương đó bao nhiêu tiền?”

“Tôi có thể mua hàng xài rồi với giá ba mươi lăm đô.” “Thế sao anh không chỉ cho anh ta biết chỗ mua một tấm?”

“Aimee, cô khờ lắm.” Hắn đặt tay trên đầu gối cô. Cô nhích đầu gối ra. “Cho dù tôi chỉ nó chỗ mua thì cô tưởng nó sẽ mua sao? Không đời nào. Lý do? Nó mắc cỡ. Đấy, nó mà biết tôi thấy nó rửng mỡ trước tấm gương trong buồng Khổng Lồ thì nó sẽ không bao giờ quay lại đây đâu. Nó cứ làm bộ như đi vào Mê Cung cho lạc chơi, giống như mọi người. Vờ như nó chẳng quan tâm đến cái buồng đặc biệt ấy. Lúc nào cũng chờ dịp gian hàng này vắng khách, lúc tối khuya, để nó độc chiếm cái buồng cuối cùng đó. Những lúc gian hàng này đắt khách thì có trời mới biết đêm đêm nó giải khuây bằng cái trò gì. Không đâu, xin thưa, nó không dám mua gương ở bất kỳ đâu. Nó không hề có bạn bè, mà có đi chăng nữa nó cũng chẳng dám nhờ họ mua giúp một thứ như vậy. Sĩ diện mà, xin thề, sĩ diện. Lý do duy nhất khiến nó nói chuyện đó với tôi là vì tôi thực tế là người độc nhất mà nó quen biết. Hơn nữa, nhìn nó coi…, làm sao nó có đủ tiền mua tấm gương như vậy được. Nó có thể để dành, nhưng một thằng lùn thì làm đếch gì ra tiền mà để dành? Không ở trong gánh xiếc thì thứ như nó cả đống ngoài kia, đầy đường đầy chợ.

“Em thấy kỳ lạ. Em thấy buồn.” Aimee nhìn đăm đăm ra lối đi lót ván vắng ngắt. “Anh ta ở đâu vậy?”

“Dưới  khu  Flytrap  ngay  bờ  biển.  Ở  Ganghes  Arms. Mà sao?”

“Em si tình anh chàng đó mất rồi, nếu anh muốn biết.” Hắn ngoác miệng cười, răng vẫn cắn điếu xì-gà. “Aimee,”

Hắn nói. “Cô đúng là tiếu lâm hết sức.”

***

Một đêm ấm, một sáng nóng, rồi một trưa cháy bỏng. Mặt biển chói lóa kim tuyến và thủy tinh.

Aimee tản bộ tới, từ các lối đi chật hẹp trong hội chợ ra ngoài biển nóng, men theo bóng râm, tay ôm năm sáu tờ tạp chí bạc màu vì nắng. Cô mở cánh cửa bong tróc, gọi vọng vào vũng tối hầm hập. “Ralph?” Cô lần bước qua hành lang thâm u sau những tấm gương, gót giày nhấn xuống sàn gỗ. “Ralph?” Có người uể oải trở mình trên chiếc giường xếp vải bố.

“Aimee hả?”

Hắn ngồi dậy rồi vặn một bóng đèn tù mù vào đui đèn trên chiếc bàn có gương soi. Mắt nhắm mắt mở, hắn nheo nheo nhìn cô. “Kìa, trông cô hệt như con mèo vừa nuốt được con chim.”

“Ralph, em tới về chuyện gã tí hon!”

“Thằng lùn, Aimee, thằng lùn, cưng ơi. Tí hon là do tế bào, bẩm sinh đã vậy. Còn lùn dị dạng là do tuyến nội tiết…” “Ralph!  Em vừa biết được một chuyện tuyệt hay về anh ta!”

“Trời ơi là trời,” hắn nói với hai bàn tay đang chìa ra như làm chứng cho điều hắn không tin. “Cái cô này! Ai quan tâm cóc khô gì tới một thằng lùn xấu xí…”

“Ralph!” Cô chìa mấy tờ tạp chí ra, mắt sáng lên. “Anh ta là nhà văn! Ai mà nghĩ ra chứ!”

“Hôm nay nóng bức quá rồi, nghĩ ngợi làm chi.” Hắn lại ngả lưng ra rồi quan sát cô, miệng thoáng cười.

“Em tình cờ đi ngang qua Ganghes Arms, và gặp ông Greeley, ông quản lý. Ông ta bảo máy chữ gõ rào rào cả đêm trong phòng ông Lớn!”

“Thằng lùn đó mà tên là Lớn?” Ralph buột miệng cười rống lên.

“Viết truyện trinh thám đăng báo để sống qua ngày. Em tìm được một truyện của anh ta ở chỗ bán tạp chí cũ, và rồi, Ralph, biết gì không?

“Tôi đang mệt đây, Aimee.”

“Anh chàng nhỏ bé này có tâm hồn bao la như trời đất; anh ta có tất cả trong đầu!”

“Thế sao nó không viết cho các tạp chí lớn đi, cô nói tôi nghe coi?”

“Chắc là vì anh ta e ngại… Chắc anh ta không tự biết là có thể làm như thế. Chuyện thường tình. Người ta thường không tự tin vào bản thân. Nhưng nếu anh ta chỉ cần thử thôi, em dám cá anh ta có thể bán truyện ngắn cho bất kỳ đâu trên đời.”

“Thế sao nó không giàu có, tôi hỏi cô đấy?”

“Chắc là vì anh ta chưa nghĩ tới do cuộc sống khổ sở. Ai mà chẳng thế? Thân phận nhỏ nhoi thế kia? Em cho là khó lòng nghĩ tới bất cứ điều gì ngoài chuyện quá nhỏ nhoi và chuyện sống trong căn hộ một buồng rẻ tiền.”

“Xì!” Ralph cười nhạo. “Cô nói cứ như là bà trùm từ thiện.” Aimee  đưa  tờ  tạp  chí  lên.  “Để  em  đọc  anh  nghe  một đoạn truyện trinh thám của anh ta. Truyện có đủ súng ống và du côn, nhưng do một người lùn thuật lại. Em dám cá là mấy tay biên tập chẳng bao giờ đoán được tác giả này biết rõ mình đang viết cái gì. Ồ, xin anh đừng ngồi ì ra đó, Ralph! Nghe này.”

Và cô bắt đầu đọc to.

Tôi là một thằng lùn và tôi là kẻ giết người. Hai chuyện này không thể tách rời. Cái này là nguyên nhân của cái kia.

Kẻ  bị  tôi  giết  thường  chặn  tôi  giữa  đường  khi  tôi  hai mươi mốt tuổi, đưa hai tay nhấc bổng tôi lên, hôn trán tôi, hát ư ử loạn xạ những bài ru con, lôi tôi vào chợ, ném tôi lên mấy chiếc cân và quát tháo với ông hàng thịt “Cân cho đàng hoàng! Đừng có lấy ngón cái mà đè đĩa cân nghe chưa!”

Bạn có hiểu cuộc đời cả hai đã đi tới kết cục giết người ra sao không? Thằng ngu đó, kẻ hành hạ thân xác và tâm hồn tôi đó!

Còn thời thơ ấu của tôi: cha mẹ tôi đều nhỏ con, không hẳn là lùn, không hẳn. Của thừa kế của cha tôi đã cho cả gia đình sống trong một ngôi nhà búp bê, một thứ kỳ lạ giống như chiếc bánh cưới phủ kem xoắn ốc trắng tinh – những căn phòng nhỏ xíu, bàn ghế nhỏ xíu, tranh ảnh nhỏ xíu, cả đồ trang sức chạm đá, cả những miếng hổ phách có côn trùng mắc kẹt bên trong, tất cả đều tí tẹo, tí tẹo, tí tẹo! Thế giới Khổng Lồ xa vời quá, một tin đồn xấu xa bên kia bức tường vườn nhà. Tội nghiệp mẹ cha! Họ chỉ muốn những gì tốt đẹp nhất cho tôi. Họ giữ riết tôi như chiếc lọ sứ, nhỏ bé và quý báu, trong thế giới của kiến, trong những căn phòng tổ ong, trong thư viện li ti, trong mảnh đất có những cửa cái to bằng con bọ hung và cửa sổ to bằng con bướm mối. Mãi tới bây giờ tôi mới thấy được tầm vóc loạn tâm thần kỳ vĩ của cha mẹ tôi! Họ hẳn đã mơ tưởng sẽ sống đời đời, luôn giữ gìn tôi như con bướm khô trong hộp kính. Nhưng cha tôi chết trước, rồi một đám cháy nuốt chửng ngôi nhà tí hon, cái tổ ong bầu ấy, cùng mọi tấm gương soi bé bằng con tem và căn phòng bằng lọ muối bên trong. Mẹ cũng chết luôn! Và còn lại tôi một mình, nhìn tàn lửa rơi, bị quẳng ra ngoài thế giới của Quái Vật và Người Khổng Lồ, bị thực tế như trận đất lở cuốn phăng, quăng quật, lăn lóc, và nát bấy dưới chân vách núi!

Tôi phải mất một năm mới thích ứng được. Không thể nào nghĩ tới một nghề với chút công việc phụ thêm. Dường như đời này không có chỗ nào dành cho tôi. Và rồi, một tháng trước, Kẻ Khủng Bố đó bước vào đời tôi, ấn một cái mũ đàn bà lên mái đầu khờ khạo của tôi, và hét với đám bạn: “Tao muốn tụi bay xem con lùn này!”

Aimee ngừng đọc. Ánh mắt cô bồn chồn và tờ tạp chí run rẩy khi cô đưa cho Ralph. “Anh đọc hết đi. Phần còn lại là câu chuyện giết người. Viết được lắm. Anh thấy vậy không? Lùn mà hay! Lùn mà hay!”

Ralph quẳng tờ tạp chí qua một bên rồi uể oải châm điếu thuốc. “Tôi thích đọc truyện cao bồi hơn.”

“Ralph, anh phải đọc truyện này. Cần có người nói cho ông Lớn biết là anh ta viết tốt lắm và khuyến khích anh ta viết tiếp.”

Ralph nhìn cô, đầu nghiêng một bên. “Thế ai sẽ nói cho nó biết? Chà chà, chúng ta là cánh tay mặt của Đấng Cứu Thế đấy à?”

“Đừng nói cái giọng đó chứ!”

“Tỉnh lại đi, đồ khùng! Nếu tự nhiên cô ào ào nói ra điều đó, nó sẽ nghĩ cô đang bố thí lòng thương hại. Nó sẽ gào rống xua đuổi cô cút khỏi nhà nó.”

Aimee ngồi xuống, ngẫm nghĩ từ tốn lại, cố xoay trở vấn đề xem xét mọi góc cạnh. “Em không biết. Có lẽ anh đúng. Ồ, không phải lòng thương hại đâu, Ralph, thật đó. Nhưng có thể đối với anh ta thì giống như thế. Em phải cẩn thận hết sức.”

Hắn nắm vai cô lắc tới lắc lui, mấy ngón tay bấu nhẹ. “Trời, trời, mặc kệ nó đi, tôi chỉ yêu cầu cô điều đó; cô sẽ hao tâm tốn sức mà chỉ thêm rắc rối chứ chẳng được gì. Trời, Aimee, chưa hề thấy cô sốt sắng chuyện gì như chuyện này. Thôi, hôm nay nghỉ làm đi chơi, tôi với cô, đi ăn trưa, đổ ít xăng, rồi phóng xe dọc bờ biển đi xa hết cỡ, bơi lội, ăn chiều, xem phim gì hay hay ở thị trấn nhỏ đâu đó… bỏ mẹ cái hội chợ này đi, được không? Một ngày vui đã đời không lo toan. Tôi đã để dành được ít tiền đây rồi.”

“Đó là vì em thấy anh ta khác biệt,” cô nói, mắt nhìn sâu vào bóng tối. “Đó là vì anh ta là người đáng nể mà tụi mình không thể nào bằng được…, anh và em và tất cả lũ chúng ta ở bến tàu này. Ngộ thật, ngộ thật đó. Cuộc đời đã định cho anh ta chẳng được tích sự gì ngoài những gánh xiếc rong, thế mà anh ta lại ở cái xứ này. Và cuộc đời đã định cho tụi mình không phải làm trong gánh xiếc rong, nhưng tụi mình cũng lại ở đây, thế đấy, ở tít tận đây trên cái cầu tàu ngoài biển này. Nhiều lúc tưởng chừng xa bờ đến cả triệu dặm. Ralph, làm sao tụi mình có thân xác này nhưng anh ta lại có được trí óc và có thể nghĩ ra nhiều điều mà tụi mình thậm chí không bao giờ ngờ tới?”

“Nãy giờ tôi nói gì cô đâu có nghe!” Ralph nói.

Cô ngồi còn hắn đứng bên trên, tiếng nói xa vắng. Mắt cô khép hờ và hai bàn tay cô đặt trên đùi, run rẩy.

“Tôi không thích vẻ mặt tinh ranh của cô lúc này,” cuối cùng hắn lên tiếng.

Aimee từ từ mở ví lấy ra một cuộn giấy bạc rồi bắt đầu đếm. “Ba mươi lăm, bốn mươi đô la. Đủ. Em sẽ điện thoại cho Billie Fine nhờ ông ta gửi một tấm gương biến dạng loại cao tới nhà ông Lớn nhỏ con ở Ganghes Arms. Đấy, em sẽ làm thế!”

“Cái gì?”

“Thử nghĩ xem, Ralph, anh ta sẽ sung sướng biết bao khi có tấm gương đó trong phòng riêng bất cứ khi nào anh ta cần tới. Em mượn điện thoại anh nhé?”

“Cứ việc, đúng là khùng.”

Ralph quay lưng thật nhanh rồi bỏ đi về cuối đường hầm. Tiếng cửa đóng sầm.

Aimee chờ một lúc rồi đưa tay nhấc điện thoại, bắt đầu quay số, chậm chạp đến đau khổ. Cô ngừng lại giữa những con số, nín thở, nhắm mắt, tự hỏi thầm nếu trót mang phận nhỏ nhoi trên đời này, và nếu một ngày có người gửi cho một tấm gương đặc biệt thì sẽ như thế nào. Một tấm gương trong phòng riêng nơi ta có thể ẩn náu cùng chiếc bóng phản chiếu to lớn của bản thân, chói sáng, và viết hết truyện này đến truyện khác, không cần phải bước ra thế gian nếu không cần thiết. Khi đó, một mình, cùng ảo ảnh tuyệt diệu toàn vẹn hình hài trong căn phòng ấy thì sẽ như thế nào. Điều này sẽ khiến ta buồn hay vui, nó sẽ giúp ích hay là phá hoại chuyện văn chương? Cô hết ngẩng lại cúi đầu, suy nghĩ, suy nghĩ mãi. Ít ra thì như thế sẽ chẳng có ai khinh thường ta. Đêm đêm, có thể lén thức giấc lúc ba giờ sáng lạnh lẽo, ta có thể nháy mắt rồi nhảy múa vòng quanh rồi mỉm cười rồi vẫy tay với chính mình, vụt lớn, vụt lớn, cao đẹp ngời ngời trong tấm gương rực rỡ.

Tiếng nói vang trong điện thoại, “Billie Fine đây.” “Ôi, Billie!” cô thổn thức.

Đêm tràn lấp cầu tàu. Biển đen gầm gừ dưới những tấm ván. Ralph ngồi lạnh tái trong chiếc quan tài bằng kính của mình,  tay  chia  bài,  mắt  nhìn  đăm  đăm,  môi  mím  chặt.  Ở khuỷu tay hắn, một kim tự tháp tàn thuốc cứ cao dần. Khi Aimee đi men dưới hàng bóng đèn màu xanh và đỏ rực, tươi cười, vẫy chào, hắn vẫn cứ từ từ, chầm chậm đặt từng quân bài xuống. “Chào Ralph!” cô gọi.

“Chuyện tình ra sao rồi?” – Hắn vừa hỏi vừa uống nước đá lạnh trong chiếc cốc bẩn. “Các chàng minh tinh, tài tử thế nào?”

“Em vừa đi mua chiếc mũ mới,” cô mỉm cười đáp. “Ôi, em thấy sướng quá! Anh biết tại sao không? Ngày mai Billie Fine sẽ cho gửi một tấm gương đi! Ta mà thấy được nét mặt của anh chàng nhỏ bé đó thì hay phải biết!”

“Tôi không giỏi tưởng tượng đâu.”

“Ối trời, bộ anh tưởng em sẽ lấy anh ta làm chồng hay sao.”

“Sao lại không? Bỏ nó vào va-li xách đi khắp nơi. Thiên hạ sẽ hỏi, Chồng cô đâu? Cô chỉ cần mở nắp ra, la lên, Nó đây này! Giống cái kèn bằng bạc. Lôi nó ra khỏi hộp bất cứ lúc nào, thổi một bài, cất vô hộp trở lại. Kiếm cái xô đựng cát nhỏ đặt sau hiên nhà cho nó đứng.”

“Em đang thấy sướng quá,” cô nói.

“Phải nói là nhân đức mới đúng.” Ralph không nhìn cô, miệng hắn căng ra. “N-h-â-n-đức. Tôi chắc mọi chuyện đều do tôi theo dõi thằng đó qua lỗ ván nẻ để làm trò vui chứ gì? Đó là lý do cô mua cho nó tấm gương đó chớ gì? Những người như cô rảnh quá mà, toàn phá hoại niềm vui của kẻ khác.”

“Anh nói thế thì em sẽ không đến chỗ anh uống nước nữa. Em thà không chơi với ai còn hơn chơi với người hèn hạ.” Ralph thở hắt một hơi thật dài. “Aimee, Aimee. Cô không

hiểu là cô chẳng thể giúp ích gì cho thằng cha đó sao? Nó là thằng khùng. Và cái trò điên rồ của cô cũng chẳng khác gì cô nói với nó: Cứ khùng nữa đi, tôi sẽ giúp anh, anh bạn”.

“Dù gì cũng là chuyện ngàn năm một thuở, có sai lầm cũng tốt nếu mình nghĩ việc làm này sẽ giúp người khác vui sướng,” cô nói.

“Cầu  Chúa  cứu  vớt  tôi  thoát  khỏi  những  kẻ  thiện tâm, Aimee.”

“Im đi! Im đi!” cô la lên, rồi không nói thêm gì nữa.

Hắn để cho im lặng đọng lại hồi lâu, rồi đứng dậy, đặt chiếc cốc dính đầy dấu tay qua một bên.

“Trông quầy vé cho tôi được chớ?”

“Được. Nhưng sao vậy?”

Cô thấy mười ngàn bóng hình trắng lạnh của hắn khệnh khạng  đi  theo  các  hành  lang  thủy  tinh,  giữa  những  mặt gương, môi hắn mím chặt và những ngón tay múa máy.

Cô ngồi trong quầy vé cả phút rồi bất chợt rùng mình. Một chiếc đồng hồ nhỏ kêu tích tắc trong quầy và cô lật bộ bài ra, từng lá một, đợi chờ. Cô nghe tiếng búa, gõ, nện, gõ, nện, văng vẳng trong Mê Cung; một lúc im lìm, một lúc chờ đợi thêm, rồi mười ngàn bóng hình gấp lại, mở ra, và tan rã, Ralph vừa sải bước vừa nhìn mười ngàn bóng hình cô ngồi trong quầy vé hồi vọng hai bên lối ra. Cô nghe tiếng cười khẽ khi hắn đi xuống đường dốc.

“Này, có gì mà anh cao hứng thế?” Cô ngờ vực hỏi. “Aimee,” hắn nói thản nhiên, “tụi mình không nên cãi nhau. Cô bảo ngày mai Billie sẽ gửi tấm gương đó tới cho ông Lớn à?”

“Anh không định làm trò quái quỷ gì đấy chứ?”

“Tôi ấy à?” Hắn thế chỗ cô trong quầy vé và vớ lấy bộ bài, miệng ậm ừ, mắt bừng sáng. “Không đời nào, ối trời, không đời nào.” Hắn không nhìn cô mà liền chia bài phành phạch. Cô đứng sau lưng hắn. Mi mắt phải của cô hơi máy. Cô hết khoanh tay rồi lại buông thõng xuống. Một phút trôi qua. Âm thanh duy nhất là tiếng sóng biển dưới gầm cầu ván tăm tối, tiếng Ralph hít thở trong bầu khí nóng, tiếng sột soạt khe khẽ của những lá bài. Bầu trời trên cầu tàu oi bức, dày đặc mây. Ngoài khơi xa, những ánh chớp lờ mờ vụt lóe lên.

“Ralph,” cuối cùng cô lên tiếng. “Thoải mái đi, Aimee,” hắn nói.

“Về chuyện anh muốn đi chơi biển ở miệt dưới…” “Ngày mai,” hắn nói. “Có thể tháng sau. Có thể năm sau.

Thằng Ralph Banghart này là người kiên nhẫn. Tôi không lo đâu, Aimee. Hiểu chưa?” Hắn giơ một bàn tay lên. “Tôi bình thản lắm.”

Cô chờ cho một đợt sóng ngoài biển tan biến.

“Em không muốn làm anh nổi khùng đâu, vậy thôi. Em không muốn chuyện gì xấu xảy ra, hứa với em đi.”

Gió  lúc  nóng  lúc  lạnh  thổi  qua  cầu  tàu.  Có  mùi  mưa trong gió. Đồng hồ kêu tích tắc. Aimee bắt đầu toát mồ hôi khi nhìn những lá bài xê dịch, xê dịch. Xa xa vọng về tiếng những tấm bia trúng đạn và tiếng nổ ở gian hàng trò chơi bắn súng.

Và rồi, gã ta kìa.

Đang lắc lư đi qua cổng chính vắng tanh của khu hội chợ, dưới những bóng đèn như côn trùng, gương mặt méo mó  và  u  ám,  mỗi  chuyển  động  là  một  gắng  gượng.  Gã  đi suốt đoạn đường dài ra cầu tàu trong lúc Aimee quan sát. Cô muốn nói với gã, Đây là đêm cuối cùng của anh, lần cuối cùng anh sẽ tự làm mình xấu hổ vì phải tới đây, lần cuối cùng anh phải chịu đựng con mắt theo dõi của Ralph, dù là lén lút. Cô ước gì mình có thể la lên và cười to và nói điều đó ngay trước mặt Ralph. Nhưng cô lặng thinh.

“Xin chào, xin chào!” Ralph rống lên. “Tối nay miễn phí, gian hàng mời! Đặc biệt dành cho khách quen!”

Thằng Lùn ngước lên, giật mình, đôi mắt đen bắn ra một khối bối rối bềnh bồng. Miệng gã nặn không nên lời cám ơn rồi gã quay lưng, một tay đưa lên cổ kéo chặt hai ve áo nhỏ tí quanh cuống họng co thắt, tay kia thầm ghì xiết đồng xu bạc. Ngoái lại, gã khẽ gật đầu, và rồi hàng trăm gương mặt thống khổ, giày vò, ám màu âm u kỳ lạ dưới ánh đèn, bước lang thang qua những hành lang thủy tinh.

“Ralph,” Aimee kéo khuỷu tay hắn. “Có chuyện gì thế?” Hắn ngoác miệng cười. “Tôi cũng đang nhân đức đây,

Aimee, nhân đức.” “Ralph,” cô kêu lên.

“Suỵt,” hắn nói. “Nghe đi.”

Trong quầy vé, họ chờ đợi giữa im lặng oi bức lê thê. Rồi, từ rất xa, văng vẳng, một tiếng rú.

“Raph!” Aimee kêu lên.

“Nghe đi, nghe đi!” Hắn nói.

Một tiếng rú nữa, lại rú và lại rú, rồi tiếng va đập rồi tiếng  quăng  quật  rồi  tiếng  đổ  vỡ,  âm  thanh  cuống  cuồng vọng khắp mê cung. Kìa, kìa, dội ngược và đối chọi loạn xạ, từ mặt gương này sang mặt gương khác, vừa la thét điên loạn vừa nức nở khóc, mặt đẫm lệ, miệng há hốc, ông Lớn xuất hiện. Gã nhào ra bầu trời đêm hầm hập, cuống cuồng nhìn quanh, rên rỉ, rồi chạy mất hút xuống bến tàu.

“Ralph, có chuyện gì thế?”

Ralph ngồi vừa cười ầm vừa vỗ đùi. Cô tát vào mặt hắn. “Anh đã làm gì?”

Hắn cố nín cười nhưng không được. “Theo tôi. Tôi sẽ cho cô thấy!”

Và  rồi  cô  vào  mê  cung,  hấp  tấp  chạy  qua  những  tấm gương trắng lóa, vết son môi đỏ rực như lửa phản chiếu cả ngàn lần trong cái hang động sáng bạc hừng hực nơi những người đàn bà điên loạn dị kỳ như cô đuổi theo một tên đàn ông tươi cười, đang chạy phăng phăng.

“Theo tôi!” hắn la to. Và họ lao tới căn buồng tí xíu sặc mùi bụi bặm.

“Ralph!”

Họ đứng ở ngưỡng cửa căn buồng nhỏ nơi Thằng Lùn đêm nào cũng đến cả năm nay. Cả hai đứng ở nơi Thằng Lùn đứng đêm đêm, trước khi gã mở mắt nhìn hình tượng thần kỳ trước mặt.

Aimee chầm chậm lê chân, một bàn tay đưa ra trước, bước vào căn buồng lờ mờ tối.

Tấm gương đã bị đổi.

Tấm  gương  mới  khiến  ngay  cả  những  người  bình thường cũng bé, bé, bé thêm; nó khiến ngay cả những kẻ cao lớn cũng thành nhỏ nhoi, tối tăm, dị dạng thấp kém hơn khi lại gần.

Aimee đứng trước tấm gương ấy, một ý nghĩ phản chiếu, nếu gương này biến người lớn thành nhỏ, khi đứng đây, trời ơi, thì sẽ như thế nào với một gã lùn, gã lùn tí hon, gã lùn u ám, gã lùn cô đơn và kinh hoảng?

Cô quay lưng và suýt vấp ngã. Ralph đang đứng nhìn cô. “Ralph,” cô thốt lên. “Trời ơi, sao anh lại làm thế?”

“Aimee, trở lại đây!”

Cô  băng  qua  những  tấm  gương,  vừa  chạy  vừa  khóc. Căng mắt nhìn qua màn lệ thật khó tìm đường, nhưng cô đã lần được lối ra. Cô đứng chớp mắt nhìn cầu tàu vắng lặng, rồi dợm chạy theo một hướng, đổi hướng khác, không biết về đâu, rồi thôi. Ralph chạy tới sau lưng cô, nói gì đó, một giọng nói xa xăm và khác lạ, như đang loáng thoáng sau một bức tường đêm khuya.

“Tôi không muốn nghe nữa,” cô nói.

Có ai đang chạy lên cầu tàu. Đó là Kelly, chủ gian hàng bắn súng. “Này, mấy người có thấy một thằng lùn mới chạy qua không? Thằng lùn đó giật một khẩu súng ở chỗ tôi, đã nạp đạn, rồi chạy mất tiêu, tôi không kịp bắt lại. Mấy người giúp tôi tìm nó với?”

Rồi Kelly đi luôn, vừa chạy hết tốc lực vừa quay đầu qua lại tìm kiếm giữa các căn lều bạt, khuất xa dần dưới những hàng bóng đèn giăng mắc rực đỏ rực vàng rực xanh.

Aimee ngần ngừ một lúc rồi cất bước. “Aimee, cô đi đâu?”

Cô nhìn Ralph như thể hai kẻ vừa rẽ qua một góc đường, hai người xa lạ, tình cờ chạm mặt và lướt qua nhau. “Chắc là…,” cô nói, “Tôi sẽ giúp mọi người đi tìm.”

“Cô chẳng làm gì được đâu.”

“Dù sao cũng phải thử. Ôi, Ralph, lỗi tại tôi cả! Lẽ ra tôi đừng điện thoại cho Billie Fine! Lẽ ra tôi đừng đặt mua tấm gương và khiến anh nổi khùng tới mức làm như thế! Lẽ ra chính tôi phải đi gặp ông Lớn, chứ không phải mua cái thứ điên khùng đó gửi tới! Tôi phải đi tìm người đó, dù có chết cũng phải đi tìm.”

Chầm  chập  xoay  người  lại,  hai  má  ướt  đẫm,  cô  nhìn những tấm gương dựng trước Mê Cung, trên một tấm gương là bóng phản chiếu của Ralph. Cô không thể rời mắt khỏi hình ảnh ấy; nó thu hút cô đứng sững, miệng há hốc, toàn thân run lẩy bẩy buốt lạnh.

“Aimee, sao vậy? Cô làm sao…?”

Hắn nhận ra hướng cô đang nhìn và quay ngoắt lại xem chuyện gì. Hắn sửng sốt.

Hắn quắc mắt nhìn tấm gương sáng rực đó.

Một con người kinh tởm, xấu xa, nhỏ mọn, cao chỉ chừng sáu tấc, bộ mặt bị bóp dẹp dưới vành mũ rơm kiểu xưa, đang

quắc mắt nhìn đáp trả. Ralph đứng đó trừng trừng nhìn bóng mình, hai bàn tay chống nạnh.

Aimee từ từ bước đi rồi bắt đầu nhanh chân và bắt đầu chạy. Cô chạy xuống bến tàu vắng lặng và cơn gió nóng phun những hạt mưa lớn bỏng rát trên trời dội xuống đầu trong lúc cô chạy thật xa.

Ảnh: Joseph Mugnaini

Hết.

Trích đăng

Tiếng gọi âm nhạc đã đến với Elvis Phương như thế nào?

Tôi biết đi xin một cây đàn guitar đã bể hết phần thùng đàn phía sau và chỉ còn lại duy nhất một dây, để bỏ hàng giờ đứng trước tấm gương trong phòng tắm mà vặn vẹo làm bộ điệu và hát những bài hát của tuổi thơ.

Published

on

By

Trích từ: Dòng Đời
Tác giả: Elvis Phương
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 8.2023

– – –

Tôi chào đời ở Dầu Tiếng, Thủ Dầu Một, sinh vào đầu năm Tây ngày 01 tháng 02 năm 1945, nên mang oan thêm một tuổi ta là tuổi Thân. Người đời thường bảo: “Người ta tuổi Ngọ, tuổi Mùi, còn tôi luống những ngậm ngùi tuổi Thân”. Nghiệm lại, tôi thấy câu này không hợp với mình lắm vì tôi đã may mắn nhận được rất nhiều ưu đãi trong đời. Có chăng là bên cạnh những vinh quang nghề nghiệp, sự thương yêu và niềm vui mà khán thính giả đã thương mến dành cho suốt mấy chục năm nay, nhiều lúc tôi cũng đành ngậm ngùi trên phương diện tình cảm của chính mình.

Sinh ra trong một gia đình có tất cả mười một người con: ba trai, tám gái. Người anh Cả của tôi mất khi còn rất nhỏ nên tôi đã trở thành anh Hai của một cậu em trai và tám cô em gái. Trong tám cô em gái thì thật tình là cô nào cũng hát được mà lại còn hát hay, nhưng chỉ có hai cô trở thành ca sĩ, một là Riri Hoa – ca sĩ trước năm 1975, sau này có gia đình và đã thôi hát. Kế đến là cô em áp út, ca sĩ Kiều Nga bây giờ.

Khán giả và bạn bè thân quen mỗi khi hỏi tôi quê quán ở đâu, câu trả lời của tôi thường là: “Tôi là người đẹp Bình Dương, nhưng đấng sanh thành tôi là người Hương Sơn, Hà Tĩnh”. Ba má tôi vào Nam lập nghiệp và sinh ra tôi ở Thủ Dầu Một, nên tôi được lớn lên trong Nam, chưa có dịp nào về thăm lại quê hương của ba má. Những ngày thơ ấu, tôi đã sống và lớn lên qua câu hò của má: “Đi mô rồi cũng nhớ về Hà Tĩnh”. Hy vọng một ngày gần đây, tôi sẽ thực hiện được điều ao ước đó của mẹ hiền là “...về Hà Tĩnh”. Thời đó, ba tôi làm nghề thầu khoán, một nghề được coi là kiếm tiền dễ dàng và má tôi – người suốt đời chỉ biết sống vì chồng con, giữ vai trò một người vợ, người mẹ đảm đang suốt ngày lui cui trong nhà, săn sóc từng bữa ăn giấc ngủ cho chồng, cho con mặc dù trong nhà đã có người giúp việc.

Elvis Phương năm 1981

Còn tôi, cho đến bây giờ đã hơn nửa đời người, vẫn hoàn toàn không hiểu tại sao tôi lại không chọn một cái nghề có dính dáng đến phim ảnh như đạo diễn, diễn viên, quay phim, chụp hình... Vì ngay từ lúc 6 tuổi tôi đã mê xem phim, từ những phim hoạt họa cho đến những phim do người thật đóng như Charlot, Laurel và Hardy, Les trois stooges... Những phim cao bồi miền viễn tây lúc đó chỉ có các tài tử như Randolph Scott, Roy Rogers, Gene Autry...

Từ lúc phim ảnh còn đen trắng cho đến lúc có những phim màu xuất hiện và lần lần đến thời kỳ của màn ảnh đại vĩ tuyến (tức CinemaScope), lại cộng thêm màu Technicolor; thậm chí đến những phim ca nhạc thần thoại của Ấn Độ chiếu thường trực ở rạp Long Phụng, tôi đều không bỏ qua phim nào cả. Nhưng thưa quý vị, một cuốn phim cao bồi Brésil mà tôi rất yêu thích, đã xem đi xem lại đến năm lần ở rạp chớp bóng Nam Quang (góc đường Lê Văn Duyệt và Trần Quý Cáp, tức nằm xéo với chợ Đũi) đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời tôi về sau.

Tôi còn nhớ rõ ràng đó là một phim cưỡi ngựa bắn súng, có cái tên rất dễ nhớ là O’cangaceiro. Phim cao bồi nào cũng thường giống nhau về cốt truyện, nghĩa là lúc nào vai chính cũng là một anh hùng có nhiệm vụ trừ gian diệt bạo và cuối cùng thường lặng lẽ ra đi một mình một ngựa, để lại thương nhớ trong lòng của người đẹp nào đó trong thành phố anh đã đi qua. Phim O’cangaceiro này cũng vậy. Anh chàng vai chính là một tên cướp nhưng sau đó quay về con đường chính đạo và đã chống lại chính đồng bọn của mình khi họ định đánh cướp một ngôi làng bé nhỏ và nghèo nàn. Và trong lúc nổ súng, anh đã giết chết người cha nuôi là chúa đảng băng cướp đó. Cuối cùng, anh đã từ chối tình yêu của một cô gái trong làng và lầm lũi ra đi với cõi lòng nặng trĩu một nỗi ân hận vì lỡ tay giết chết cha nuôi.

Elvis Phương trước dancing Au Baccara năm 1973

Tuy đại khái giống nhau về phương diện truyện phim, nhưng điều mà tôi nhận thấy là phần nhạc đệm của các phim cao bồi thì hoàn toàn không có bài nào giống bài nào. Riêng bộ phim O’cangaceiro này có một bài nhạc, lúc thì có lời, lúc chỉ có nhạc không, và điểm đặc biệt nữa là lúc anh chàng vai chính ra đi thì bài nhạc này được trỗi lên qua tiếng kèn khẩu cầm (harmonica) réo rắt, cộng thêm hình ảnh hào hùng của chàng vai chính. Và hình ảnh cuối phim lẫn tiếng khẩu cầm đã khắc sâu vào tâm trí của đứa bé mê ciné là tôi.

Kể từ ngày đó, âm thanh của bài hát trong phim không lúc nào dứt trên miệng tôi, thậm chí vài hôm sau tôi đã xin tiền má để mua cho được một chiếc khẩu cầm nhỏ hiệu Piccolo (loại bỏ túi rất nhỏ), và ngày ngày cứ tập thổi theo giai điệu của bài hát phim O’cangaceiro.

Cũng kể từ ngày đó, tôi lại thích hát hơn xem ciné, hay tham gia những trò chơi của tuổi trẻ cùng lứa với mình. Tôi không còn thích đánh đáo, tạt hình, bắn bi, đá banh, đá dế, đá cá lia thia, u bắt mọi, tắm sông... như trước kia nữa. Tôi biết đi xin một cây đàn guitar đã bể hết phần thùng đàn phía sau và chỉ còn lại duy nhất một dây, để bỏ hàng giờ đứng trước tấm gương trong phòng tắm mà vặn vẹo làm bộ điệu và hát những bài hát của tuổi thơ như: Ai bảo chăn trâu là khổ, Tết trung thu... Tôi vừa gảy đàn vừa lắc lư để cảm nhận sự sung sướng chạy rần rần trong mạch máu.

Elvis Phương lúc 9 tuổi

Vì sự đòi hỏi của công việc nên ba tôi giao thiệp rất rộng, gần như trong nhà ngày nào cũng có khách khứa tiệc tùng, đủ các khách hàng, cả tây lẫn ta. Mỗi lần như thế, y như rằng tôi bị lôi ra trình diễn trước quan khách một nhạc phẩm duy nhất La Marseillaise – quốc ca của Pháp. Thoạt đầu tôi còn hăng hải trình diễn nhưng sau đó mỗi lần thấy khách khứa là tôi tìm cớ trốn lui. Ba tôi là một người hào phóng, nhất là với bạn bè, cứ hết tiệc này đến tiệc nọ và có lần cao hứng đã nhận lời thách đố để xây tặng cho bạn một căn nhà. Má tôi nhiều khi khuyên nhủ nhưng ông nhất định làm ngơ vì ông luôn coi bạn bè là trên hết, còn với con cái thì ông rất nghiêm khắc, đứa nào đứa nấy sợ ông một nước. Dù ba thường bắt tôi ra trình diễn bài tủ là quốc ca Pháp khi có bạn bè của ông đến nhà chơi, nhưng sau này khi lớn lên, biết tôi mê ca hát thì ông lại nhất định cấm đoán và chỉ muốn tôi đi học để ra trường làm ông nọ, ông kia hoặc nối nghiệp nghề thầu khoán của ông.

“Cái nghề ca hát ba lăng nhăng làm sao mà kiếm tiền được, đừng hòng đòi đi hát, không nghe người ta nói ‘xướng ca vô loài’ hay sao?” Ba tôi thường nói như vậy mỗi khi bắt gặp tôi đang mân mê cây đàn hoặc say sưa theo dõi những chương trình nhạc ngoại quốc trên đài phát thanh. Ông đã cố ý ngăn ngừa không cho tôi theo nghề ca hát từ bé.

Nhưng mặc ba cấm thì cấm, tôi vẫn lén lút nghe nhạc và lẩm bẩm hát theo. Âm nhạc đã trở thành hơi thở của tôi từ khi còn thơ dại. Mơ ước của tôi khi đó là có cho riêng mình một cái radio nhỏ chạy bằng pin, và ước mơ đó đã trở thành sự thật. Thật khó lòng diễn tả được niềm xúc động khi được nâng niu chiếc radio trong tay lúc ấy, kể từ đó tôi và chiếc radio đã trở thành vật bất ly thân. Đi đâu tôi cũng mang kè kè theo bên mình, nhất là khi leo lên giường ngủ thì càng không thể thiếu người bạn thân thiết này, để được những âm thanh dìu dặt, mê hoặc dẫn lối vào giấc ngủ say, không mộng mị.

Dù đã bị cảnh cáo nhiều lần, nhưng tật ôm radio nghe nhạc suốt ngày đêm đã trở thành đam mê mà tôi không bỏ được. Cho đến một hôm, đang say sưa với tiếng nhạc phát ra từ chiếc radio nhỏ bé, bên cạnh những chồng sách vở trong phòng học thì ba tôi bước vào đứng sau lưng tôi lúc nào không hay. Khi tôi nhận ra thì đã quá muộn, chiếc radio nhỏ bé thân yêu bị ba tôi giựt lấy và đập xuống sàn nhà vỡ nát. Hồn vía lên mây, tôi chưa kịp có phản ứng gì thì đã bị ông tặng cho mấy bạt tai đích đáng. Má tôi chạy vào can nhưng cũng không làm giảm bớt sự nóng giận của ông. Tôi đã sung sướng đón nhận chiếc radio như thế nào thì giờ đây đau khổ và tiếc rẻ chừng ấy khi ngắm nhìn hình thù méo mó, vỡ nát của nó trên sàn nhà. Sau đó, tôi cố gắng lắp ráp lại chiếc radio vỡ với hy vọng mong manh là có thể cứu vãn được, nhưng đành chịu thua.

Elvis Phương với ba ở Vũng Tàu

Ba tôi đã làm mất đi người bạn thân đầu đời và tận diệt niềm vui bé nhỏ của riêng tôi. Sau đó tôi đành phải nghe ké radio chung của gia đình, bị lệ thuộc vào sở thích của những người thân trong nhà mà lúc đó chương trình nhạc ngoại quốc ít khi được nghe tới. Tuy ba tôi rất khó tính trong việc giáo dục con cái, nhưng tôi vẫn một lòng kính phục ông trên cương vị cột trụ của gia đình. Một tay ông đã gầy dựng và mang lại cho gia đình tôi một cuộc sống tuy không phải là quá giàu có, nhưng sung túc và đầy đủ.

Giờ đây ngồi nhớ lại những ngày niên thiếu, tôi nhớ về ba, một người cha bận rộn trong công việc thương trường nhưng rất khe khắt trong việc dạy dỗ con cái. Với lòng thành kính, tôi luôn suốt đời mang ơn ba, vì ông có khe khắt thì tôi mới nên người, dù ở bất cứ môi trường nào.

“Con đã được sống bằng những mơ ước của đời mình. Dù rời nhà từ lúc 16 tuổi, nhưng từ thời niên thiếu đến khi trưởng thành, sự dạy dỗ của ba đã là kim chỉ nam cho đời con. Sống lăn lộn với bạn bè, giữa đời sống của vũ trường, những sân khấu ca nhạc, của ánh đèn mầu, giữa những vui buồn, những thăng trầm và cám dỗ, mà đến giờ đây, khi đã ngoài 70 tuổi đời, con vẫn tự hào là đã sống đúng nghĩa một đời.”

Elvis Phương tại Nhà Thờ Đá Phát Diệm, Việt Nam, năm 1998

Bao nhiêu thú vui: cờ bạc, đam mê hút xách, rượu chè, trai gái, môi trường sống đầy cám dỗ của tuổi trẻ... nhưng tôi đã tránh được tất cả để sống thật sự với mơ ước và đam mê ca hát của mình. Trong đầu óc non nớt của tôi lúc đó nào có nghĩ như ba: nghề nào sẽ tốt cho bản thân mình, cho gia đình mình, nghề nào được trọng vọng? Nhưng tôi chắc chắn được một điều là mình rất mê âm nhạc, nghe tiếng nhạc là tôi thấy yêu đời, thấy tâm hồn nhẹ nhõm lâng lâng. Lúc nào, giờ nào tôi cũng có thể nghe được, nhiều lúc tôi còn mang cả radio vào trong toilet để nghe nhạc... Tiếng gọi của âm nhạc đến với tôi từ thời thơ ấu, nhìn lại những người thân trong họ hàng chung quanh, tôi nhận thấy mình chẳng hề chịu ảnh hưởng “văn nghệ” của bất kỳ ai, do đó tôi nghĩ: Mình sinh ra đời để được ca, được hát mà thôi.

Tôi mê âm thanh từ hồi còn bé xíu, khi coi những hoạt họa câm, tiếng nhạc hoặc âm thanh kèm theo những động tác của đủ loại thú vật trong phim khiến tôi thích thú vô cùng. Tôi đã bỏ những thú vui của trẻ con cùng trang lứa mà suốt ngày chỉ muốn sống với âm thanh và tiếng nhạc. Má tôi tuy không ngăn cấm nhưng cũng không khuyến khích nhiều. Sau này khi tôi hơi lớn thêm một chút và thấy tôi cứ ca hát suốt ngày, bà thường chỉ cười và nói: “Khi nào con hát cho má nghe được bài Đi mô cũng nhớ về Hà Tĩnh thì lúc đó má sẽ cho con đi hát”. Má tôi rất thích bài hát này, suốt thời thơ ấu tôi thường nghe má ngâm và hát những bài ca quen thuộc về quê hương Hà Tĩnh khi ru các em tôi ngủ.

– Còn tiếp –

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Tại sao bọn trẻ không “vui vẻ” cho người lớn đỡ phiền?

Tại sao mỗi khi chúng ta cố dỗ bọn trẻ là y như rằng chúng nó càng làm dữ hơn? Rõ ràng ý định của chúng ta là vỗ về bọn trẻ. Để dạy chúng rằng chút xóc nảy tí tẹo trên đường đời vẫn có thể vượt qua mà không cần phải lao cả xe xuống mương.

Published

on

By

Trích từ: Nói sao khi trẻ không nghe lời
Tác giả: Joanna Faber, Julie King
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 7.2023

– – –

Mường tượng về cuộc sống của mình sau này – khi có ngôi nhà và những đứa trẻ của riêng mình – chúng tôi đoán chắc bạn sẽ mường tượng ra một cuộc sống với loạt khoảnh khắc đẹp như mơ.

Hễ đối mặt với xung đột hay đau khổ là ta lại muốn quay về với cảnh tượng hạnh phúc mình từng vẽ ra trong đầu. Thế nhưng, những nỗ lực quả cảm nhất và hữu ích nhất của ta những mong sẽ giúp ích hoặc sẽ khắc phục vấn đề – hóa ra lại khiến sự việc càng trở nên rối rắm.

Tại sao mỗi khi chúng ta cố dỗ bọn trẻ là y như rằng chúng nó càng làm dữ hơn? Rõ ràng ý định của chúng ta là vỗ về bọn trẻ. Để dạy chúng rằng chút xóc nảy tí tẹo trên đường đời vẫn có thể vượt qua mà không cần phải lao cả xe xuống mương. Mọi thứ rồi SẼ ỔN thôi! Ấy thế nhưng thông điệp lọt vào tai bọn trẻ lại rất khác: “Con đừng hòng có thứ con muốn và bố thì cóc quan tâm, bởi vì cảm xúc của con đâu quan trọng đến nỗi phải bận tâm”. Thành ra, nỗi đau khổ tăng lên gấp bội – cộng dồn vào nỗi thất vọng ban đầu về việc hết sạch thanh ngũ cốc – là cảm giác lẻ loi trống vắng mà bạn cảm thấy nhưng rồi nhận ra không ai quan tâm đến việc bạn đang buồn thế nào.

Thật ra, đối với người lớn, thanh ngũ cốc chỉ xếp hạng chót trong bảng xếp hạng thảm họa toàn cầu. Nhưng đối với đứa trẻ đang thất vọng tràn trề, thứ quà vặt thiếu hụt đó gây ra nỗi buồn vô hạn không thua kém bất kỳ thảm họa xinh xẻo nào ập xuống mỗi ngày trong quá trình trưởng thành của người lớn chúng ta. Việc này khó chịu sánh ngang với chuyện chị đồng nghiệp xấu tính cứ lấy bút của bạn dùng mãi mà không chịu trả, đúng không? Đừng cằn nhằn nữa! Việc nhỏ xíu xiu ấy mà! Còn chuyện bạn của bạn đem vấn đề sức khỏe cá nhân của bạn đi rêu rao khắp nơi thì sao? Bạn phản ứng thái quá rồi đấy. Đừng nhạy cảm thế chứ! Hay như chuyện anh thợ sửa xe tính tiền sửa hộp số quá đắt nhưng chỉ một tuần sau cái hộp số đó lại hỏng, nhưng anh ta kiên quyết không hoàn tiền cho bạn thì thế nào? Ơ hay, cuộc sống là thế! Khó chịu thì được ích gì.

Đừng nổi cáu nhé. Chúng tôi chỉ đang cố giúp bạn thôi, bằng cách giải thích cặn kẽ lý do tại sao bạn sai khi cảm thấy bực bội trong người.

Đúng là tức điên lên được khi những thất vọng của chính ta được cho là chẳng đáng kể trong kế hoạch lớn lao thì chớ, lại còn bị vo viên rồi ném đi. Khi ai đó cố gắng xoa dịu ta bằng cách giảm nhẹ những rắc rối nọ thì ta lại cảm thấy nghẹn lòng, bức bối hơn – thậm chí trong lòng còn dấy lên làn sóng giận hờn mới, phải trút lên người đang cố xoa dịu mình. Đám trẻ ở nhà cũng không khác chúng ta là mấy.

Ngay cả chuyên gia được đào tạo chuyên môn bài bản vẫn có thể vô tình làm cho trẻ đau khổ hơn thêm.

Chúng ta sốt sắng muốn dạy trẻ hình thành một góc nhìn nào đó – rằng con không được suy sụp trước mỗi một điều bé tí ti trong cuộc sống. Chẳng phải một trong những nhiệm vụ của phụ huynh là giúp con nhận ra điều quan trọng với điều không quan trọng sao? Đúng! Nhưng sai thời điểm! Thời điểm bạn buồn vì đôi giày mới mua bị đánh cắp không phải là thời điểm bạn muốn ai đó lên tiếng nhắc nhở rằng phải biết ơn vì bạn vẫn còn đôi chân. Đến khi bạn mất đôi chân vì bệnh tật, bạn càng không muốn người khác xuất hiện để nhắc nhở rằng bạn thật may vì có những người còn không có chân nào nữa kìa. Chắc chắn, sẽ có một thời điểm nào đó tốt hơn để nêu quan điểm, nhưng ngay lúc này, bạn sẽ đánh giá cao chút lòng thấu cảm chân thành hơn là một lời động viên sáo rỗng.

Hiểu một cách trí tuệ, chúng ta biết rằng không nên cố khuyên người khác thôi đau khổ ngay đúng thời điểm họ đang khốn khổ. Thế nhưng, chúng ta vẫn bị thôi thúc mạnh mẽ phải giảm thiểu hay loại bỏ cảm giác tiêu cực ở con mình, vì lợi ích của con lẫn lợi ích của chúng ta. Khi con trẻ kể lại chuyện không vui của con, rất tự nhiên chúng ta liền cố thuyết phục con rằng sự việc thật ra không tệ đến vậy. Chúng ta phản ứng bằng tâm trạng bực bội, thất vọng, và thế là, trước khi mọi người liên quan kịp biết điều gì đang diễn ra thì tất cả đã bị cuốn vào vòng xoáy tức giận. Càng cố dập lửa, lửa càng bùng cháy dữ dội. Hóa ra, chúng ta đang đổ dầu chứ không phải đổ nước vào lửa.

PHẢI LÀM GÌ BÂY GIỜ?

Thế đấy, chẳng ích gì khi cố gắng giúp con nhìn vào mặt tươi sáng của vấn đề, hoặc bảo con nên chấp nhận và ngừng than vãn bởi vì vấn đề của con nào có tệ gì đâu. Làm gì bây giờ? Cứ ngồi tọt vào ghế sofa đeo tai nghe chống ồn chăng? Hiển nhiên, chúng ta NÓI hay LÀM gì cũng chỉ khiến cho mọi thứ trở nên tồi tệ hơn, đúng không?

Chúng tôi rất vui vì bạn đã đặt ra câu hỏi này! Và xin giới thiệu đến bạn các mẹo hay sau đây có thể áp dụng mỗi khi con bạn tuột cảm xúc.

Mẹo #1: Thừa nhận cảm xúc bằng lời nói

Thay vì tranh cãi, bảo rằng con thật ngốc, hoặc con sai rồi, hoặc con vô lễ, hoặc con phản ứng thái quá, hãy dừng lại và tự hỏi: Con mình đang cảm thấy gì? Con bực mình, con thất vọng, con tức giận, con khó chịu, con buồn, con lo lắng, hay con sợ hãi?

Bạn nắm vấn đề rồi chứ?

Bây giờ hãy chứng tỏ cho con thấy là bạn đã hiểu sự tình. Chúng ta đang tìm kiếm điều gì? Đó là lời nói mà bạn muốn chia sẻ bằng cảm xúc chân thành, bằng lòng thấu cảm thật sự với một người bạn. Nghe điên rồ quá nhỉ. Ôi, con đang thất vọng lắm nhỉ! Ừ, tình huống này khó chịu thật đấy! Hình như lúc này con đang rất khó chịu với anh trai, với cô giáo, hay với bạn của con.

Mẹo #2: Thừa nhận cảm xúc bằng chữ viết

Việc viết ra giấy có sức mạnh nào đó khiến con trẻ cảm thấy như con đang được tôn trọng. Ngay cả trẻ còn rất nhỏ tuổi, chưa biết đọc, vẫn rất vui sướng khi những suy nghĩ của con được cha mẹ viết ra và đọc lại cho con nghe. Nên viết thành một danh sách – danh sách những điều ước, danh sách đi mua sắm, danh sách những nỗi lo hoặc những nỗi bất bình.

Mẹo #3: Thừa nhận cảm xúc bằng tranh vẽ

Tranh vẽ cũng là chiêu an ủi thần kỳ khi con trẻ gặp phải cảm xúc mạnh. Tin tốt là bạn không cần phải là họa sĩ. Những hình vẽ ngay đơ vẫn có tác dụng như thường! Đôi khi con trẻ muốn tham gia, tự tay vẽ ngay cho cha mẹ thấy cảm xúc buồn bực hay tức giận của con bằng bút chì, phấn hoặc bút màu sáp. Ngay cả hạt ngũ cốc cũng có thể dùng để phác họa khuôn mặt buồn thiu, cho con biết cha mẹ hiểu con đang có cảm giác thế nào.

Mẹo #4: Tưởng tượng điều bạn không thể làm trong thực tế

Khi con trẻ muốn một thứ gì đó mà chúng ta không thể đáp ứng cho con, thế là ta nhất định phải giải thích cho con lý do tại sao con không thể có điều đó. “Mẹ đã nói với con rồi, bây giờ chúng ta không thể đi bơi được con à, vì hôm nay là ngày hồ bơi đóng cửa. Khóc lóc cũng chẳng ích gì”. Kiểu lập luận thế này hiếm khi thuyết phục được con. Nhưng con sẽ vui lên ngay nếu bạn nói, “Ồ, mẹ ước gì bể bơi mở cửa suốt đêm luôn. Cho mẹ con mình tha hồ bơi lội dưới ánh trăng!”

Lần tới, hễ thấy mình muốn phát ngôn một thực tế lạnh lùng, gay gắt, hãy dành chút thời gian tìm cách thay đổi lời nói. Hãy nói với con là bạn ước gì mình có đũa thần để biến ra một bồn tắm đầy kem, hoặc bạn ước có robot xuất hiện giúp bạn dọn dẹp, hoặc thật tuyệt biết bao nếu có một chiếc đồng hồ đóng băng thời gian để con được chơi thêm 100 giờ nữa.

Mẹo #5: (Hầu như) im lặng thừa nhận cảm xúc

Đôi khi chỉ cần tỏ ra đồng cảm là đủ. Hãy chống lại thôi thúc nói đạo lý với con, đặt câu hỏi hoặc đưa ra lời khuyên cho con. Thay vào đó, bạn chỉ cần lắng nghe con, kèm theo những âm thanh ổ, ừm, à!

Đúng, nhưng…

Rõ ràng, có những lúc con trẻ cảm thấy rất tồi tệ. Chiếc bánh quy tuột khỏi tay con, rơi xuống sàn vỡ thành từng mảnh, rồi liền bị con chó đang chầu chực ăn mất. Mà đó là chiếc bánh quy cuối cùng. Hộp bánh hết trơn rồi! Vừa học xong phần thừa nhận cảm xúc, chúng ta liền chuyển sang giải cứu cảm xúc bằng cách chống lại ý muốn cằn nhằn con, “Trời, cầm như thế kiểu gì bánh chả vỡ! Lẽ ra con phải biết trước chứ”. Thay vì thế, chúng ta thủ thỉ một cách đồng cảm, “Ồ, con muốn ăn chiếc bánh quy đó quá chừng mà! Con không muốn Speedy ăn mất đâu nhỉ. Nó nhanh quá mà! Nó biết phải ăn ngay không thì sẽ mất. Ước gì mẹ có đũa thần để biến ra một hộp bánh quy khác ngay lập tức! Chúng ta nên làm gì bây giờ! Con có muốn giúp mẹ viết chữ BÁNH QUY vào danh sách đồ cần mua không? Hãy viết chữ bánh quy thật to vào nhé. Để ở chỗ nào mà chúng ta vẫn có thể nhìn thấy nó ấy”.

Mà này, đây đúng là giải vô địch lý lẽ kiểu con nít. Bạn vừa ngăn một cuộc khủng hoảng bánh quy, vừa vận động con nâng cao tinh thần hợp tác vừa khuyến khích con học đánh vần. Nhưng đôi khi rất khó để hiểu cảm xúc của con. Làm sao chúng ta có thể nhận thấy trước việc con bất chợt khó chịu hay tức giận. Chúng ta cứ tưởng mình sẽ có cuộc trò chuyện vui vẻ, hợp lý hợp tình, thế mà đùng một cái, chúng ta lại rơi vào cơn xoáy kịch tính. Chuyện quái gì vừa xảy ra vậy nhỉ?

Chà, quý độc giả thân mến, để tiện cho bạn, sau đây chúng tôi sẽ tổng hợp danh sách những kiểu tương tác điển hình có thể khiến đôi bên đang yên đang lành bỗng nảy sinh xung đột trong nháy mắt. Bí kíp là hãy nhận biết lúc con trẻ đương có biểu hiện cảm xúc mạnh ngay cả khi con không thể hiện rõ ràng.

Những biểu hiện cảm xúc mập mờ

1. Khi cứ tưởng con đặt câu hỏi

“Sao mẹ không đem trả em bé đi?”

“Con cần phải mặc quần à?”

“Con phải làm bài văn này thế nào đây?”

Câu hỏi trực tiếp xứng đáng nhận câu trả lời trực tiếp... đúng không?

“Bởi vì em ấy là một thành viên của gia đình mình!”

“Mẹ nói con rồi, ngoài kia 20 độ đấy!”

“Ờm, trước tiên con cần lập dàn ý”.

Thế nhưng, đôi lúc câu trả lời thẳng vào trọng tâm lại khiến con trẻ kích động hơn. Dù có thể con không biết định nghĩa của “câu hỏi tu từ”, nhưng chắc chắn con đang hỏi bằng câu hỏi tu từ đấy. Sẽ hữu ích hơn nếu bắt đầu cuộc trò chuyện bằng cách ghi nhận cảm xúc đằng sau câu hỏi.

“Em bé giành nhiều sự chú ý quá! Đôi khi con cảm thấy mình mất đi vị trí là người duy nhất trong nhà được quan tâm”.

“Ồ, con ước gì trời ngoài kia ấm hơn! Để con mặc quần đùi cho thoải mái!”

“Bài tập làm văn này có vẻ hơi quá sức con. Nó gồm nhiều phần, thật khó biết phải bắt đầu từ đâu”.

Bằng cách chấp nhận cảm xúc đằng sau câu hỏi của con cũng đủ làm dịu bớt xung đột và giúp con chấp nhận nỗi thất vọng hoặc vượt qua nỗi lo âu. Hoặc có khi như thế vẫn chưa đủ. Chính vì vậy mà chúng tôi viết Chương hai và Chương ba về cách tương tác và giải quyết vấn đề. Nhưng trước khi bạn lướt qua, hãy ghi nhớ rằng tất cả các mẹo đều bắt đầu từ đây – thừa nhận cảm xúc! Chúng ta cần thiện chí để giải quyết xung đột mà không gây chiến, và thừa nhận cảm xúc là cách để tạo thiện chí.

2. Khi cứ tưởng con muốn xin lời khuyên

Xem ra chúng ta vừa được trao cho cơ hội vàng để chia sẻ sự khôn ngoan “có một không hai” trên đời của mình.

Tại sao nghe xong con lại đùng đùng bỏ đi và đóng cửa đánh sầm thế?

Hãy cưỡng lại thôi thúc cho lời khuyên ngay lập tức. Hãy cân nhắc xem có phải con đang bộc lộ cảm xúc, và phản ứng tốt nhất chính là bắt đầu thừa nhận cảm xúc của con. Nhưng cảm xúc đó là gì? Chúng ta hãy phỏng đoán chút nào.

Bạn có thể thấy phụ huynh trong cuộc trò chuyện này đã đưa ra một đề xuất. Nếu bạn dành nhiều thời gian để chấp nhận cảm xúc của con, có thể con sẽ dễ dàng tiếp nhận lời đề nghị mà bạn đưa ra một cách trang trọng. Vấn đề là đúng thời điểm! Nếu chúng ta bắt đầu trò chuyện bằng câu “Tại sao con không thử?”, thì nhiều khả năng con sẽ gân cổ lên cãi, hoặc đùng đùng bỏ đi. Con trẻ cần cảm thấy được thấu hiểu rồi mới sẵn sàng xem xét giải pháp.

3. Khi con phản ứng thái quá

“Em gì mà bé tí tẹo. Khi không được đáp ứng là khóc nhè”

“Con ghét thầy giáo!”

“Mẹ không bao giờ cho phép con làm điều con thấy vui!”

Bản năng mách bảo chúng ta phải điều chỉnh lại cung cách ứng xử và phát ngay cho con liều thuốc thực tế:

“Con phải kiên nhẫn với em hơn. Khi bằng tuổi em, con cũng thế mà”.

“Con không được ghét thầy giáo. Con phải biết là may mắn lắm con mới được học lớp thầy đấy”.

“Đừng lố bịch. Con chỉ lỡ một bữa tiệc thôi mà. Còn rất nhiều bữa tiệc khác”.

Thế mà, bằng cách này hay cách khác, tất cả những phản hồi kiểu trên đều khơi mào cơn thịnh nộ nơi con hơn là khiến con bình tĩnh lại. Hãy ghi nhận cảm xúc đằng sau những phát ngôn khó chịu của con. Dưới đây là một số kiểu mào đầu cuộc trò chuyện có khả năng giảm nhiệt và dọn chỗ cho những đối đáp văn minh hơn:

“Có em lẽo đẽo bên cạnh không phải lúc nào cũng dễ chịu. Em hay giật đồ của con, và thường hét toáng lên mỗi khi thất vọng”

“Hình như hôm nay thầy giáo đã làm gì đó khiến con thực khó chịu!”

“Nghe như bữa tiệc này vô cùng quan trọng đối với con. Mẹ ước gì chúng ta có thể ở hai nơi cùng một lúc”.

Không phải mọi tình huống đều đòi hỏi sự thừa nhận cảm xúc!

Nghe bạn nói như thể tất tần tật mọi thứ đều dính líu đến cảm xúc. Thật mệt mỏi làm sao! Liệu chúng tôi sẽ vượt qua một ngày như thế nào đây?

Bạn đã nắm bắt được mấu chốt vấn đề! Chúng ta biết rằng khi cảm xúc mạnh dâng trào, ta thường có thể tránh xung đột và tiết kiệm năng lượng nếu chịu xử lý cảm xúc trước. Tất nhiên, sau đó bạn sẽ có dư thời gian sống cuộc đời mình mà không còn bị cảm xúc kịch tính đeo bám.

Khi con trẻ đặt câu hỏi mà con thật sự muốn có câu trả lời thì câu hỏi sẽ như thế này:

Bạn không cần phải đáp dông dài, “Hình như con đang thất vọng và không biết cách phát âm tập hợp những mẫu tự vừa lạ vừa khó hiểu”. Bạn chỉ việc đọc dứt khoát: “con cá”.

Nếu học sinh lớp bạn hỏi:

Bạn không cần phải sa vào bài diễn văn nhiều hàm ý, “Hmm, ánh sáng trong nhà có thể khiến ta trầm cảm nặng, nhất là khi ngồi dưới cả rừng bóng đèn huỳnh quang”. Bạn chỉ việc trả lời ngắn gọn: “Có!”

Khi con trẻ thắc mắc:

Bạn không nhất thiết phải thăm dò cảm xúc. “Ôi trời, ý nghĩ đáng sợ quá nhỉ”.

Cứ thoải mái cung cấp thông tin: “Không, cọp chỉ có trong sở thú thôi!” Hoặc, nếu có cọp đang lảng vảng trong khu phố thật thì bạn có thể nói: “Có! Nếu trông thấy cọp thì con hãy bình tĩnh và chầm chậm bước lùi lại”.

Nhiều người tham gia hội thảo đã chia sẻ với chúng tôi rằng mỗi khi tìm cách thừa nhận cảm xúc của con, sẽ hữu ích khi tưởng tượng bản thân đang nói chuyện với một người bạn đồng vai phải lứa. Khi nói chuyện với người đồng vai phải lứa, tự nhiên chúng ta dễ trở nên đồng cảm mà không phủ nhận cảm xúc của đối phương, cũng không muốn chất vấn, lý luận hay cho lời khuyên dông dài. Nhưng ngay cả khi giao tiếp với người lớn, đôi khi bản năng cũng dễ khiến ta thất bại trong cách cư xử.

Câu chuyện của Joanna

Cách đây không lâu, tôi nhận được điện thoại từ một người bạn, cô ấy vừa mới nhận được giấy chẩn đoán xét nghiệm. Cô ấy nói với tôi, “Em lo quá, tệ nhất là bệnh có nguy cơ biến chuyển thành ung thư”. Lập tức bản năng mách bảo tôi nói cô ấy hãy gạt bỏ nỗi sợ ấy đi. Không phải thế đâu. Tuyệt đối đừng nghĩ như vậy! Trong đầu tôi cứ quay quắt với suy nghĩ đó. Cuối cùng, tôi trả lời, “Thật khó mà vác nỗi lo nặng trĩu đó”.

Bạn tôi liền bùng nổ, “ĐÚNG VẬY! Rồi chị biết người ta nói gì với em không? Họ bảo em thậm chí không cần nghĩ về nó! Quá lố bịch phải không chị? Làm thế nào để không nghĩ về nó chứ?”. Tôi đồng ý rằng quả là lố bịch khi bảo ai đó đừng nghĩ về con voi màu hồng trong phòng. Cả hai chúng tôi đều bật cười. Tôi không thừa nhận với cô ấy rằng chính tôi cũng định nói ra những lời giống hệt mấy người “lố bịch” nọ.

Khi chấp nhận cảm xúc tiêu cực của người gặp chuyện không may, tức là chúng ta đang tặng cho cô ấy một món quà. Ít nhất có một người khác trên thế giới hiểu cô ấy đang phải trải qua điều gì. Cô ấy không đơn độc.

Thừa nhận cảm xúc không chỉ là một thủ thuật hay kỹ thuật. Đó là một công cụ có thể làm biến chuyển các mối quan hệ. Nó không đảm bảo rằng bọn trẻ sẽ vui vẻ dắt chó đi dạo, sẽ đánh răng hoặc đi ngủ đúng giờ, nhưng nó tạo ra bầu không khí thiện chí mà trong đó tất cả mọi việc đều trở nên dễ dàng hơn và dễ chịu hơn. Nó cũng đặt nền tảng để con trẻ phát triển khả năng quan tâm và chấp nhận cảm xúc của người khác.

Nhưng bạn không cần phải nghe theo lời của mỗi chúng tôi. John Gottman, nhà nghiên cứu nổi tiếng về tâm lý học trẻ em, đã xuất bản sách về nghiên cứu của mình. Trong nhiều năm, ông đã quan sát và so sánh các bậc cha mẹ có các phong cách giao tiếp khác nhau với con mình. Kết quả cho thấy những đứa trẻ được cha mẹ thừa nhận cảm xúc thường định hình nên những phẩm chất mạnh, bất kể chỉ số IQ của các con, bất kể cha mẹ các con thuộc tầng lớp xã hội hay trình độ học vấn thế nào. Các con có khả năng chú ý lâu hơn, làm bài kiểm tra tốt hơn và đạt thành tích học tập tốt hơn. Các con ít gặp vấn đề về hành vi hơn – hòa thuận hơn với giáo viên, phụ huynh, và bạn cùng lớp. Các con có khả năng đề kháng các bệnh truyền nhiễm tốt hơn, thậm chí ít hormon căng thẳng hơn trong nước tiểu. Vì vậy, xem ra nếu muốn con trẻ có lượng nước tiểu chất lượng cao (cha mẹ nào mà không muốn chứ?) chúng ta nên thừa nhận cảm xúc của con!

– Còn tiếp –

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Chốn giải trí ở Phú Nhuận trước 1975

Cơ sở vật chất ở rạp này xập xệ, ghế gỗ lung lay và khai mùi nước tiểu cũng không ngăn được khán giả, nhất là học trò vào xem phim, đặc biệt là trong dịp hè. Rạp Văn Cầm trở thành ký ức khó quên của vài thế hệ người Phú Nhuận.

Published

on

By

Trích từ: Hồi ức Phú Nhuận
Tác giả: Phạm Công Luận
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 8.2023

– – –

Là thôn, làng, sau thành thị xã Phú Nhuận thuộc quận Tân Bình tỉnh Gia Định, Phú Nhuận vẫn có những hoạt động không hề kém cạnh các địa phương khác ở Sài Gòn trong lãnh vực giải trí.

Cái nôi của ba đoàn cải lương và gánh hát mang tên “Phú Nhuận”

Thời Pháp thuộc, năm 1930, làng Phú Nhuận đã có đoàn hát cải lương được lập ra ở đây. Đó là đoàn Phước Trung Nam của bà Hai Vân, một đoàn nhỏ chuyên hát tuồng Tàu. Gánh này được lập từ xác gánh Đồng Bào Nam của cô Tư Sự. Nghệ sĩ cải lương gạo cội Ba Vân sau chuyến đi diễn ở xứ Bắc trở về đã đi theo hát cho đoàn Phước Trung Nam này. Các đào kép trong đoàn có: kép Ba Giáo dân Bạc Liêu, cô Ba Ngọc Anh làm đào chánh đóng cặp với Ba Vân, đào Hai Vàng ở Mỹ Luông – Long Xuyên, đào Ba Hường (vợ của Ba Tâm, sau đổi tên là Bạch Hường) cũng khá nổi tiếng thời đó, kép Hai Đại ở bên gánh Đồng Bào Nam qua. Thầy tuồng của đoàn là ông Nguyễn Công Mạnh, một soạn giả nổi tiếng, và ông Bảy Phát. Ông Bảy người Bến Tre, cũng đã viết nhiều tuồng, nhất là các loại tuồng về chiến tranh, có các màn bắn súng, đi dây. Gánh Phước Trung Nam không sống được lâu, sau khi gánh rã, đào kép kéo qua gánh Vương Huỳnh cũng được lập trong năm 1930 (theo Nghệ sĩ Ba Vân, Hồi ký kể chuyện cải lương, NXB TP.HCM, 1988).

Sau gánh cải lương Phước Trung Nam, cho đến giai đoạn từ 1954-1975, ở Phú Nhuận hình thành hai đoàn cải lương được xem là đại ban trong giới sân khấu cải lương, đó là đoàn Thủ Đô của ông bầu Ba Bản và đoàn cải lương Hương Mùa Thu của soạn giả Thu An và vợ là nghệ sĩ Ngọc Hương.

Chị Kim Nga, một thành viên trên trang facebook “Phú Nhuận ngày xưa" cho biết, trong những năm 1979-1981, nghệ sĩ Hữu Lợi có lập gánh hát nhỏ lấy tên là gánh Phú Nhuận, chỉ hát vòng vòng trong quận. Gánh hát đi tới đâu là mấy bà nội, bà ngoại xách giỏ trầu theo để coi. Mấy năm đó, dù cuộc sống đang khó khăn nhưng giới mê cải lương còn có được thú vui giải trí này. Chị kể: “Mỗi lần gánh chú Hữu Lợi về hát ở chùa Phú Thạnh trên đường Huỳnh Văn Bánh là tôi phải tranh thủ học bài xong sớm để tối còn đi coi hát. Mới đầu còn xách thùng đạn của ba đem theo để... ngồi. Riết rồi leo lên mấy ngôi mộ ngồi cho cao để coi cho sướng mà không ngán gì hết!”. Đó là ký ức vui về một gánh hát lấy tên Phú Nhuận ít ai biết.

Rạp hát ở Phú Nhuận

Rạp Văn Cầm: Là một rạp bình dân, giá vé rẻ nên đông khách, đa số là thanh thiếu niên. Rạp thường xuyên chiếu nhiều loại phim dù có chậm hơn so với các rạp ở Sài Gòn. Phim Hollywood đang trong thời điểm vàng son, với những phim cao bồi viễn Tây và phim La Mã rất được yêu thích khi cho chiếu ở đây. Ông chủ rạp có chiêu thu hút khách qua đường là trước mỗi suất chiếu đều cho máy phát qua loa phóng thanh tiếng hát ca sĩ Hoàng Oanh (lúc đó đang rất được ưa chuộng) sang phía chợ Phú Nhuận đông đúc. Khoảng đầu thập niên 1970, rạp bội thu vì nhiều người mua vé xem phim đánh đấm võ thuật Hồng Kông, như các phim có Lý Tiểu Long, Trần Tinh, Ngũ hổ tướng có Khương Đại Vệ, Địch Long, Trần Quang Thái... Khán giả muốn xem phải xếp hàng mua vé tới tận đường Cô Bắc, Cô Giang.

Cơ sở vật chất ở rạp này xập xệ, ghế gỗ lung lay và khai mùi nước tiểu cũng không ngăn được khán giả, nhất là học trò vào xem phim, đặc biệt là trong dịp hè. Rạp Văn Cầm trở thành ký ức khó quên của vài thế hệ người Phú Nhuận.

Rạp Cẩm Vân do ông Đội Có xây nên, cho mướn hát bội, hát cải lương và chiếu phim. Theo cuốn 300 năm Phú Nhuận: mảnh đất – con người – truyền thống, khoảng năm 1945, rạp này được cất bằng vách ván, cột gỗ, có mái cao, trước một bãi đất trống. Rạp bị cháy trong một trận đánh giữa quân kháng chiến với thực dân Pháp lúc 10 giờ đêm. Quân kháng chiến đột nhập vào rạp, khống chế gia đình người gác dan, quấn vỏ xe cũ dưới các chân cột, chất ghế gỗ chung quanh tường, gài từng chùm lựu đạn rồi tưới xăng châm lửa. Rạp cháy sập, sau được dựng lại. Khoảng thập niên 1950, rạp có hát cải lương với các tuồng Tàu do ban Đồng Ấu đóng, đoàn cải lương có nghệ sĩ Kim Cương diễn. Thời trước 1975 còn có đồ án làm Thương xá Cẩm Vân nhưng chưa hoàn thành.

Ngoài ra, các đình chùa cũng có đoàn cải lương, hát bội đến diễn, như đình Phú Nhuận, đổi Phú Hữu. Đền Phú Hữu, còn gọi là đình Ông Cọp, là nơi đoàn cải lương Hồ Quảng Huỳnh Long diễn hằng đêm với các nghệ sĩ nổi tiếng: Hữu Lợi, Đức Lợi, Bửu Truyện, Ngọc Đáng, Thanh Thế...

Vũ trường và phòng trà

Trước năm 1975, Phú Nhuận có hai vũ trường và phòng trà có tiếng, không kém các tụ điểm giải trí ở Sài Gòn.

Khiêu vũ trường Victoria Dancing: Có gắn máy lạnh ở số 429 Võ Di Nguy (nay là đường Phan Đình Phùng). Ở đây mời được nhiều ban nhạc chơi nhạc khiêu vũ đúng sở thích của khách và có ban kích động nhạc chơi khá tưng bừng, sôi động. Ca sĩ Trúc Mai, từng cộng tác độc quyền ở đây, rất được ái mộ vì cô ít khi có mặt tại các vũ trường mà chỉ xuất hiện trên băng tần số 9 Đài THVN. Ngoài ra, còn có các ca sĩ khác. Vũ trường được báo chí giới thiệu là có nhóm vũ nữ được xem là điêu luyện, không gian ấm cúng, thoải mái, mát mẻ, xe cộ của khách có chỗ đậu và trông coi cẩn thận, giá ăn, uống và ticket rất hợp lý.

Bộ ba nghệ sĩ sáng lập phòng trà Tùng Lâm & Lệ Liễu ở Phú Nhuận: Duy Mỹ, Kim Vui và Tùng Lâm.
Nguồn: TLTG.

Phòng trà Tùng Lâm & Lệ Liễu: Cuối thập niên 1950, trước khi tham gia cùng tam ca Sao Băng, có một thời gian ngắn nghệ sĩ Duy Mỹ kết hợp với ca sĩ – diễn viên điện ảnh Kim Vui và Tùng Lâm để diễn ca nhạc. Bộ ba này rất được khán giả yêu thích tại phòng trà Tùng Lâm & Lệ Liễu, nằm ngay góc đường Thái Lập Thành – Chi Lăng (nay là Phan Xích Long - Phan Đăng Lưu). Ca sĩ đẹp trai Duy Mỹ thường được khán giả yêu cầu hát nhạc ngoại quốc tại đây. Theo nhà văn Hồ Trường An, đến năm 1962, ông đến phòng trà này và nghe Kim Vui hát với dáng vẻ lộng lẫy: “Chị ưa diện áo đầm hở vai hở ức bằng nhung đen, mang găng tay đen kéo dài khỏi khuỷu tay, tóc uốn quăn nhưng chưa xõa xuống vai. Trông chị rất giống Rita Hayworth trong phim Gilda. Đôi lúc chị mặc áo nhiều tầng xếp, đeo khoen tai to như cô đào loại Vamp: Jare Russell trong cuốn phim L'Ardente Gitane hoặc cô đào Viviane Romance trong phim Carmen.” Tại đây, ca sĩ Phương Dung đã có những đêm diễn đầu tiên trong sự nghiệp ca hát.

– Còn tiếp –

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Cafe sáng