Phía sau trang sách

Khu vườn mùa hạ – Cho một khúc an lành trong tâm hồn, một khúc ca khởi sinh từ câu hỏi về cái chết

Có một mùa hạ vẫn ươm những hạt mầm rực rỡ trong lòng tôi.

Có một mùa hạ vẫn rạng ngời và tỏa sáng.

Có một mùa hạ lắm nhẹ nhàng.

Và một mùa hạ của chia ly…

Published

on

Lưu ý: Nội dung bài viết tiết lộ một số tình tiết quan trọng của cuốn sách Khu vườn mùa hạ.

“Tôi gửi mùa hè ở lại đây

Ở trong muôn tia nắng thật đầy

Trong khu vườn nhỏ, hoa và cỏ

Trong ánh mặt trời cùng đám mây…”

Tôi đã viết những dòng như thế trong một buổi chiều an lành và dịu mát, khi tôi khẽ nhắm mắt mình lại và lắng nghe mùi hương của gió, trông ánh nắng chiều nhàn nhạt phía đằng xa, chợt dưng thấy lòng mình như vừa hát lên một khúc ca thanh thản – khúc ca của mùa hè, của một khu vườn lặng lẽ ướt sau mưa.

Thế là tôi đã đọc xong Khu vườn mùa hạ – một cuốn sách để tôi kiếm tìm cho mình những sự nhẹ nhàng và an yên đến lạ. Tôi nghĩ, có lẽ vẫn luôn có một cơ duyên lạ kì nào đó để tôi cầm trên tay cuốn sách này, để tôi say mê và hứng thú, để tôi đọc và ngẫm nghĩ từng cơn, để tôi bồi hồi hân hoan và xúc động, và cũng có lẽ, trong một khoảnh khắc quý giá của cuộc đời, tôi đã nếm được một nỗi miên man đọng lại ở trong lòng – một nỗi an lành và trong veo như cái cách tôi đã cảm nhận được, hoặc như cái cách mà tác giả Kazumi Yumoto đã viết ra.

Với Kazumi Yumoto, tôi vẫn luôn thích cách kể chuyện của cô trong những tác phẩm tôi từng đọc, và đặc biệt nhất vẫn là Khu vườn mùa hạ. Ở đâu đó trong từng con chữ ấy, tôi gặp được câu chuyện của chính mình, gặp được những dòng cảm xúc mà tôi tưởng đã lâu bị vùi trong cơn đảo điên thường ngày. Có lẽ, sự nhẹ nhàng và những giá trị tử tế trong Khu vườn mùa hạ đã làm cho tôi yêu thích cuốn sách này, và dĩ nhiên, tôi đã nghĩ về nó như một điều an lành trong tâm hồn của mình, một điều an lành khởi sinh lên từ một câu hỏi về sự chết.

Chết? Có lẽ ai trong chúng ta cũng đã từng ít nhiều nghĩ về cái chết như một điều đáng sợ hoặc lạ lẫm, dẫu là cái chết của người khác hoặc là của mình, phải vậy không? Và cũng chính từ những lăn tăn nghĩ ngợi về sự chết như thế, Kazumi Yumoto đã bắt đầu câu chuyện bằng cách để cho nhóm bạn trẻ ba người Kiyama, Wakabe, Yamashita đặt ra những thắc mắc về bí ẩn của những linh hồn, những thế giới thầm lặng của người đã khuất sau sự ra đi của bà Yamashita. Để khám phá ra những bí ẩn đó, nhóm bạn của Kiyama đã lập ra một kế hoạch: theo dõi một ông cụ mà chúng đồ rằng là đã chết hoặc sắp phải chết – đang ở trong một căn nhà cũ tồi tàn nằm cuối dãy phố. Hàng ngày, bọn trẻ hẹn nhau đến nhà ông cụ để theo dõi những hoạt động thường ngày của ông. Sau mỗi đợt “điều tra” như thế, chúng nhận ra, ông cụ kì quái và bí ẩn, luôn thích sống tách biệt với mọi người kia thật ra vẫn còn sống và không phải là một hồn ma. Đồng thời, khi nhận ra được điều đó cũng là khi phi vụ điều tra lén lút của đám trẻ bị ông cụ phát hiện. Bằng một cách nhẹ nhàng nào đó, sau những hiểu lầm và cãi vã ban đầu, ông cụ và bọn trẻ dần trở nên thân thiết với nhau hơn. Ông cụ bắt đầu cải tạo lại ngôi nhà của mình, sửa sang những mảng tường đã cũ, giặt giũ đống quần áo đã lâu và dọn dẹp lại khu vườn ngoài sân đã đầy cỏ. Dưới sự giúp đỡ của bọn trẻ, không lâu sau, ngôi nhà đã khoác lên mình một chiếc áo mới. Ở trong khu vườn bé xinh, bọn trẻ và ông cụ đã cùng nhau trồng những mầm hoa nhỏ ngát thơm, những mầm hoa mong một ngày khôn lớn.

Ảnh: pexels.com

Cũng thế, trong những ngày làm bạn với ông cụ, bọn trẻ lại biết được thêm một câu chuyện thật buồn về ông, câu chuyện mà ông không hề muốn nhắc lại bao giờ. Tôi cũng vậy. Ngay lúc này, khi gõ ra những dòng chữ này, tôi vừa thấy có một nỗi buồn nào đó chạm khẽ vào mắt mình. Tôi thật sự chỉ muốn câu chuyện của ông cụ sẽ mãi nằm ở đó, trong lòng tôi, như một hồi ức buồn về những người đã từng sống trong thời kì chiến tranh khốn khổ. Tôi mãi nhớ hoài giây phút nhóm bạn trẻ lặn lội đến một vùng đất thật xa, chỉ để tìm một người mà chúng cho đó là vợ ông cụ, rồi ở đó, có điều gì còn giữ lại nữa đâu, chỉ có một chiều hoàng hôn thật lạ, và những điều khắc khoải thật buồn…

“Đó là một cảnh cô đơn đến độ không thể diễn tả thành lời. Tòa nhà giống như một chiếc hộp nhỏ bị bỏ lại giữa cánh đồng nhuộm màu chiều tà. Tôi muốn nắm giữ thật chặt thứ ở trong chiếc hộp đó. Nhưng nó càng lúc càng xa vời. Cũng giống như việc người ta không thể khiến thời gian dừng lại.”

Cũng giống như việc người ta đang bị mắc kẹt trong kẽ hở của những câu trả lời không hồi đáp, chỉ có thể âm thầm suy nghĩ, chứ không thể tìm cho mình một ý niệm thỏa đáng nào.

Khi đọc đến những dòng chữ ấy, tôi thấy mình bé nhỏ vô cùng. Bé nhỏ giữa cuộc đời rộng lớn. Bé nhỏ giữa những chuyện người mênh mông…

Thế rồi cuộc đời trôi đi. Mùa hè của bọn trẻ cũng trôi qua trong những hoạt động ngoại khóa ở câu lạc bộ trường. Trong khoảng thời gian ấy, bọn trẻ không gặp được ông cụ, nhưng chúng vẫn luôn để dành lại những câu chuyện vặt, hi vọng ngày trở về sẽ được kể cho ông cụ nghe đủ đầy những gì mà chúng đã trải qua. Nhưng cái ngày ấy có lẽ sẽ xa lắm, xa đến độ dẫu đi hết cả cuộc đời này, chúng vẫn sẽ không thể nào tìm thấy được một ngày nào như thế nữa. Ngày ông cụ đã rời khỏi cuộc đời này. Ngày ông cụ đã mãi mãi trả lại thân xác cho những điều giả tạm. Ngày ông cụ thật sự để lại trong lòng những đứa trẻ này một nỗi mất mát lớn vô cùng. Và cứ như thế, bọn trẻ đã lặng lẽ tạm biệt ông cụ, tạm biệt khu vườn nhỏ cùng căn nhà quen thuộc, tạm biệt những điều thân thương quá đỗi, những xa lạ đã từng rất gần gũi, tạm biệt cả một mùa hè lặng lẽ nằm ướt đẫm trong cơn mưa, trong những điều không còn nguyên vẹn nữa.

Rồi như thế, cuốn sách đóng lại, đóng luôn cả những hồi ức tốt đẹp về một tình bạn chân thành và khắng khít giữa ba đứa trẻ. Sau sự ra đi của ông cụ cũng là lúc mùa hè kết thúc, bọn trẻ lại quay về với cuộc sống riêng của mình, cuộc sống ở những vùng đất khác, những sự lựa chọn khác – những cuộc sống không còn nhau. Chúng chia tay ở một con đường nhỏ, chúng nói lời tạm biệt những người bạn của mình, chúng hứa hẹn về một ngày gặp lại. Và tất nhiên, trong những ngày rực rỡ nhất của mùa hè năm ấy, ở đâu đó, chúng đã tự tìm được cho mình những câu trả lời. Câu trả lời về ước mơ của chúng, về thắc mắc của chúng, về ý nghĩa của từng sự sống và cái chết trong cõi đời này, và về một tình bạn thật đẹp trong chuyến hành trình đi tìm ý nghĩa của cuộc sống. Vậy là câu chuyện kết lại, như một đám mây nhẹ nhàng và lặng lẽ trên trời…

Phải nói làm sao nhỉ? Nếu như ai đó đang kiếm tìm một cuốn sách có nội dung li kì và hấp dẫn, thì tôi nghĩ đây không phải là một sự lựa chọn thích hợp. Bởi bao giờ cũng thế, trong văn phong của tác giả Kazumi nói chung và chất văn của Khu vườn mùa hạ nói riêng, sự nhẹ nhàng và sâu lắng vẫn chiếm ưu thế và trở nên vượt trội hơn bao giờ hết so với những tình tiết gây cấn và lôi cuốn người đọc như ở trong nhiều tác phẩm khác. Nhưng không vì thế mà cuốn sách này trở nên nhàm chán và tẻ nhạt. Bởi khi ta đã đưa mắt mình lướt qua những dòng chữ đầu tiên, hẳn thế nào ta cũng sẽ tò mò và bắt đầu nhắc nhở bản thân mình về trách nhiệm đi khám phá câu chuyện mà tác giả đã khéo léo gầy dựng – một câu chuyện được vẽ nên bằng những hình ảnh đầy chất thơ với gam màu tươi sáng, rạng rỡ, thấm nhuần những giá trị cốt lõi đầy ý nghĩa mà bất kì ai tìm thấy nó cũng đều phải gật đầu đồng ý. Cũng chính vì sự đơn giản nhưng lại tinh tế đến lạ kì ấy đã làm cho cuốn sách trở nên hấp dẫn hơn, thu hút hơn, đặc sắc hơn… sẵn sàng làm xiêu lòng bất kì đọc giả nào mà không cần dùng đến một hình thức miêu tả phức tạp nào khác. Vì bao giờ cũng vậy, những điều được xuất phát từ trái tim chắc chắn sẽ chạm đến trái tim, một cách chân thành và gần gũi.

Ở trong câu chuyện này, điều khiến tôi suy nghĩ nhiều nhất, vẫn là nhân vật ông cụ – người mà xuyên suốt cả câu chuyện, chúng ta cũng không hề thấy tác giả nhắc đến một cái tên nào. Vì sao lại như thế? Vì điều này là không cần thiết, hay vì sẽ chẳng có một cái tên cụ thể nào để lột tả được nhân vật tưởng chừng như kì lạ và bí ẩn này. Tôi đã nghĩ, nghĩ về những gì đã xảy ra trong cuộc đời ông cụ, nghĩ về những ngày ông cụ còn trẻ, về cuộc trốn chạy cùng đồng đội trong rừng, về việc rời bỏ người vợ của mình, về việc trở thành một ông già cô độc sống giữa lòng thành phố cùng những ám ảnh và bận tâm khôn xiết về quá khứ, hay cả về cái chết của ông trong căn nhà cũ, lúc được nhóm bạn của Kiyama phát hiện ra. Những sự kiện mà ông cụ đã từng trải qua đều ít nhiều để lại cho tôi vài suy nghĩ, và có lẽ, ai rồi trong chúng ta cũng sẽ đều giống như ông cụ kia, đến và đi trong cuộc đời này như một cuộc dạo chơi tạm bợ, và khi cuộc dạo chơi ấy không còn, cũng là lúc chúng ta phải rời đi, dù muốn hay không. Sự ra đi của ông cụ cũng là một hồi chuông vọng về bên tai tôi khe khẽ, để tôi cũng như ba cậu bé trong cuốn sách này tìm thấy câu trả lời cho mình, về ý nghĩa của sự sống và cái chết, về một điều mơ hồ nhưng lại vô cùng chắc chắn. Tôi chợt nhận ra rằng, cũng có những cái chết, cũng có những cuộc chia ly không làm cho người ta buồn và khổ, mà làm cho người ta tỉnh thức để sống tốt với cuộc đời của mình. Cứ như thế, cuốn sách đã sống trong lòng tôi, sống trong những ngày hè tôi ôm ấp một giấc mơ về khu vườn bé nhỏ, về những an nhiên và lặng lẽ lạ thường.

Có một mùa hạ vẫn ươm những hạt mầm rực rỡ trong lòng tôi.

Có một mùa hạ vẫn rạng ngời và tỏa sáng.

Có một mùa hạ lắm nhẹ nhàng.

Và một mùa hạ của chia ly…

Hết.

Lâm Lâm

Xem tất cả những bài viết của Lâm Lâm tại đây.


1 Comment

1 Bình luận

Viết bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Phía sau trang sách

Trở thành phiên bản tốt hơn của chính mình với Metahuman – Siêu nhân loại

Published

on

By

Những khi nhìn lại chính bản thân mình, những điều đã hoàn thành lẫn những điều còn dở dang, nếu đâu đó trong bạn xuất hiện những suy nghĩ tiêu cực về chính mình, có lẽ tác phẩm Metahuman – Siêu nhân loại của bác sĩ Deepak Chopra sẽ giúp bạn điều chỉnh lại suy nghĩ ấy, để thấy rằng tiềm năng của con người là vô hạn.

Có bao giờ bạn tự hỏi, tại sao những phim hài lãng mạn dù lặp lại các kiểu mô típ quen thuộc về câu chuyện, nhân vật thường vẫn dễ dàng thu phục được công chúng? Trong Metahuman – Siêu nhân loại, Deepak Chopra – tác giả người Ấn Độ từng được tạp chí Time vinh danh là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất ở thế kỉ 20 – đã có cách lí giải vô cùng thuyết phục dựa trên cơ chế tâm lí, ý thức về hiện thực của con người.

Dòng phim hài lãng mạn thường kể câu chuyện về một anh chàng hay cãi nhau với một cô nàng, để rồi cuối phim anh mới nhận ra cô chính là tình yêu đích thực của đời mình. Chopra cho rằng tất cả chúng ta đều yêu thích khoảnh khắc giác ngộ của nhân vật trong phim: “Giờ tôi đã hiểu rồi. Đó là người tôi yêu.”

Chính vì thực tại ta đang sống là một thứ khó hiểu, khó nắm bắt nên ta lại càng tìm được nhiều niềm vui khi chứng kiến nhân vật có thể hiểu được một vấn đề nan giải, thấy được sự thật bấy lâu nay cứ chìm khuất trong lớp sương mờ trước mắt anh hay cô ta. Và tác phẩm Metahuman – Siêu nhân loại cũng có thể mang đến cho người đọc niềm vui tương tự khi lần lượt giải mã nhiều vấn đề về hiện thực ta đang sống.

Những giới hạn của bản thân không phải là điều tiêu cực như bạn nghĩ

Deepak Chopra

Chúng ta vẫn thường quen thuộc với quan niệm thế giới chia làm hai phần gồm: vật chất và ý thức. Từ đây, hình thành hai trường phái triết học chủ đạo là duy vật và duy lí. Nhưng trong Metahuman – Siêu nhân loại, Deepak Chopra đã định nghĩa lại về thế giới. Ông cho rằng thế giới chỉ có duy nhất một thứ là ý thức, và vật chất cũng là do ý thức tạo nên. Vật chất, hay những gì chúng ta nghĩ là rắn chắc, bền vững, khó thay đổi – bao gồm cả cơ thể, tâm trí và những tiềm năng của chúng ta – kì thực đều là do ý thức quyết định. Vì thế, chừng nào ý thức còn muốn tiếp tục điều chỉnh, chừng đó tiềm năng của con người còn vô hạn và có thể mở rộng đến khôn cùng.

Nhưng trong cuộc sống hằng ngày, giới hạn an toàn lại là thứ khiến chúng ta thấy thoải mái, đồng thời đây cũng là cơ chế để bảo vệ con người. Chopra lấy ví dụ nếu một người muốn trở thành họa sĩ, anh tham dự một lớp học mĩ thuật. Giả sử lớp học đó có thể cho anh xem hết tất thảy mọi bức tranh đã được vẽ trong lịch sử nhân loại, cảm thấu được vẻ đẹp của từng bức thì khả năng cao là sau khi học xong, anh sẽ không thể vẽ được nữa. Ở đây, chính giới hạn về hiểu biết mĩ thuật có thể lại là động lực khiến người họa sĩ muốn sáng tạo.

Như vậy, bản thân sự giới hạn không phải là một điều tiêu cực. Nó chỉ tiêu cực khi bị cố định trong một cái khuôn. Ngược lại, nếu ta biết được giới hạn nhưng vẫn có nhận thức rằng biên độ của giới hạn có thể thay đổi thì tiềm năng của con người sẽ không ngừng mở rộng.

Không chỉ quá khứ, tương lai; hiện tại cũng là thứ không thể nắm bắt

Phần lớn chúng ta có một quan niệm phổ biến rằng: “Tương lai, quá khứ là thứ chúng ta không thể nắm bắt. Tương lai thì chưa đến. Quá khứ thì đã qua. Chỉ có hiện tại là thứ duy nhất ta có thể nắm bắt được.” Quan niệm này có lẽ hợp lí đến nỗi không nhiều người trong chúng ta đặt nghi vấn về tính đúng đắn của nó, hay thử tự một lần phản biện lại.

Tuy nhiên, Deepak Chopra lại có suy nghĩ hoàn toàn khác biệt về vấn đề này. Ông cho rằng không chỉ tương lai và quá khứ, ngay cả hiện tại – mà ta nghĩ là mình đang sống trong nó – cũng là thứ khó nắm bắt. Bởi lẽ, hiện tại cũng giống như sự im lặng. Khi bạn cất lời, sự im lặng biến mất; tương tự, khi bạn có nhận thức về hiện tại dù là dưới dạng hình ảnh, cảm xúc, hay suy nghĩ, nó cũng đã biến mất ở khoảnh khắc ấy, nhường chỗ cho một hiện tại khác ở ngay sau đó. Vì vậy, nếu nói rằng thực tại là thứ có thể nắm bắt thì chẳng khác nào nói là bạn có thể biết trước suy nghĩ tiếp theo của mình.

Phản biện này có lẽ cũng là tư duy nền tảng cho khái niệm về thực tế ảo được trình bày trong sách. Thực tế mà chúng ta đang sống, ta nghĩ rằng đó là một thực tế vững chắc, được kết cấu dựa trên những nhu cầu đầu tiên về vật chất, sau đó là tinh thần – thực tế ấy, hóa ra lại không vững chắc như ta nghĩ. Rất có thể, đó chỉ là một thực tế do ý thức, nhu cầu của chúng ta tạo ra, thứ mà Chopra gọi rằng đó là thực tế ảo. Để vươn đến tầm vóc siêu nhân loại, ta phải học cách vượt qua thực tế ảo ấy, hướng đến một thực tế thật – đó chính là thứ thực tế mà tác giả gọi là siêu hiện thực.

Trong Metahuman – Siêu nhân loại, Deepak Chopra không cố gắng áp đặt độc giả phải đồng thuận quan điểm của mình. Ông luôn đưa ra nhiều ý kiến, quan điểm đối lập từ những học giả, các nguồn kiến thức khác nhau về cùng một vấn đề để người đọc có thể rộng đường tư duy, tiếp nhận nhiều luồng tư tưởng, tự lựa chọn đáp án cho những câu hỏi cá nhân của chính mình. Thông qua đó, Deepak Chopra cung cấp một cách nhìn khác về hiện thực, giúp mỗi người chúng ta xua tan lớp sương ảo ảnh do tự thân tạo ra từ những định kiến, trở thành phiên bản tốt hơn của chính mình.

Nguồn: L'Officiel

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Thành phố những lục địa bay: Khi Đà Lạt không là Đà Lạt

Published

on

By

Đà Lạt luôn là điểm dừng chân lí tưởng cho những tâm hồn yêu cái lạnh. Nếu không thể đến Đà Lạt ngay lúc này, quyển sách Thành phố những lục địa bay – tác phẩm viết về Đà Lạt mới nhất của nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên sẽ là sự lựa chọn hoàn hảo để người đọc tận hưởng không khí Đà Lạt ngay tại nhà.

Dù tuổi thơ gắn liền với quê hương Ninh Thuận và chỉ đến Đà Lạt khi trở thành sinh viên Văn khoa Đại học Đà Lạt, Nguyễn Vĩnh Nguyên đã dành cho Đà Lạt một tình yêu tha thiết với nhiều tác phẩm ghi dấu trong lòng bạn đọc như: Đà Lạt, một thời hương xa; Đà Lạt, bên dưới sương mù; Với Đà Lạt, ai cũng là lữ khách Lần này trở lại với Thành phố những lục địa bay, anh tiếp tục viết về Đà Lạt với nhiều khám phá, tìm tòi mới trong nghệ thuật kể chuyện.

Vẻ đẹp thành phố sương mù hiện ra trong sự mơ hồ của chữ “và”

Trong lối tường thuật của Thành phố những lục địa bay, Nguyễn Vĩnh Nguyên đặt rất nhiều ý nghĩa trong chữ “và”. “Và” không chỉ là sự bao hàm giữa cái này và cái kia. “Và” còn có thể vừa mang ý nghĩa liệt kê, vừa mang ý nghĩa đồng thời. Chính vì vậy, những chi tiết nối liền bằng “và” theo cách Nguyễn Vĩnh Nguyên sử dụng cho người đọc cảm giác chúng có thể lần lượt xuất hiện, hoặc song song tồn tại. Sương mù hay chính bản thân Đà Lạt dường như đã trở thành một câu văn có cấu trúc gắn kết bởi chữ “và”. Ngay từ lời ghi chú ngắn ở đầu truyện, tác giả đã dụng công viết những câu văn có sự xuất hiện của nhiều chữ “và” để tạo ra cảm giác mơ hồ về ranh giới. Ta hãy thử khảo sát một vài trường hợp.

Có khi “và” đảm nhận nhiệm vụ liệt kê hai chức năng đồng thời tồn tại:
“Mặt nước cất giữ trong nó những bí mật bị vùi chôn và trang sức cho thành phố một vẻ mơ màng hư ảo. 

Có khi “và” là một trạng thái ở giữa như cách tác giả mô tả tầm nhìn của một người khi quan sát hồ nước chìm trong sương mù.
“Hồ, vì thế nằm giữa cái thấy và không thấy.”

Đôi khi, “và” còn mang nghĩa không hẳn là “cái này”, cũng không hẳn là “cái kia” như trong câu văn sau đây:
“Còn thi sĩ, anh là kẻ đã đến đây vào Thời đại Buồn nôn với sự thơ mộng và giả thơ mộng được vẽ vời và phóng đại.”

Như vậy ở đây, Đà Lạt hiện ra là một thành phố vừa thơ mộng, vừa không hẳn thơ mộng. Chính vì không có tính chất nào vẹn toàn thuộc về chủ thể – chủ thể ở đây có thể hiểu là cả một thành phố –  nên mới cần có nhiều chữ “và”. “Và” như một phương thức để khẳng định thành phố luôn mang trong mình từng tính chất đã được liệt kê, nhưng đồng thời cũng không hoàn toàn nắm giữ trọn vẹn bất kì tính chất nào. Chính vì lẽ đó, tác giả đã đưa ra nhận định chung về hình ảnh Đà Lạt được tái hiện trong Thành phố những lục địa bay là: “Đà Lạt chính là Đà Lạt. Nhưng Đà Lạt cũng không là Đà Lạt.”  

Trò chơi giữa có và không khiến người đọc say mê

Những chuỗi truyện trong Thành phố những lục địa bay cho người đọc thấy một điều rằng: Sự thật và giai thoại luôn đan xen lẫn nhau về cùng một đối tượng. Ở tác phẩm này, hồ nước chính là khởi nguồn cho mọi sự nhòa lẫn, bất phân định về ranh giới.

Có lẽ, tác giả chọn hồ làm đối tượng để khởi đầu tác phẩm cũng vì hồ là thứ có thể phản chiếu như gương, tạo ra phiên bản thứ hai của thế giới, tạo ra lằn ranh giữa thực và ảo. Hiểu theo cách đó, ta có thể thấy rằng hồ cũng có nhiệm vụ tương tự như chức năng ngữ pháp của chữ “và” trong cấu trúc câu. Nếu “và” là cầu nối trên câu chữ thì “hồ” chính là một phóng chiếu sang hình ảnh của “và”, là sự gắn kết giữa những miền “thực” và “ảo” trong tác phẩm. Và vì vậy, với tác giả, hồ là: “Một thứ nước đôi, không chắc hư cấu, cũng chẳng hiện thực.” 

Hầu hết những con người xuất hiện trong tác phẩm đều vô danh, họ chỉ được gọi bằng các chức danh nghề nghiệp như: thi sĩ, nhà nhân học, quy hoạch gia, chàng nhạc sĩ, nhà thám hiểm, ngài khâm sứ, đan sĩ, hoàng đế, nhà biên khảo, nhà văn… Bằng cách đó, con người hòa vào những địa danh vốn cũng không được đặt tên riêng trong tác phẩm như: Hồ, Suối, Thác, Đồi, con đập…

Giữa những mơ hồ về thân phận của con người và nơi chốn, nước – một “nhân vật” vô danh khác trong tác phẩm – lại nổi lên như một đối tượng dẫn lối cho tất cả mọi thứ. “Nước đã xuyên qua vách ngăn của da thịt, để con người trở nên trong suốt và tự do.” Có lẽ vì thẩm thấu được mọi thứ nên nước dường như là phương tiện duy nhất có thể xuyên qua vách ngăn phân định giữa thực và ảo được tạo ra bởi những lớp sương mù – vốn cũng là thứ thoát thai từ nước mà thành.

Và theo dòng chảy của nước, trò chơi giữa có và không trong Thành phố những lục địa bay cứ thế diễn ra khoan thai, chậm rãi, nhưng nhiều day dứt. Tuy nhiên, dẫu có nhiều màn sương mơ hồ được giăng ra, người đọc cũng sẽ khó mà hoặc thậm chí là không muốn thoát ra khỏi thứ khiến mình đang băn khoăn ấy. Bởi lẽ, bằng chính việc không chối bỏ sự mơ hồ, dần dần ta sẽ nhìn rõ được mọi thứ. Thành phố những lục địa bay chính là một cái nhìn thấu suốt về Đà Lạt giống như thế.

Nguồn: L'Officiel

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tiếng Kiều đồng vọng: Thế giới như một khoảng không chật hẹp

Published

on

By

Sự tổn thương sẽ mang lại những tia lấp lánh cho con người trưởng thành dường như chưa bao giờ là bài học cũ kĩ. Tiểu thuyết Tiếng Kiều đồng vọng (tên cũ Mưa ở kiếp sau) của Đoàn Minh Phượng chính là tiếng vọng đến từ một cuộc đời như thế.

Tiếng Kiều đồng vọng kể về cuộc đời của Mai. Mai sinh ra và lớn lên với mẹ Liên ở Hà Nội. Từ nhỏ, cô không biết cha mình là ai và luôn mong muốn được gặp cha. Cơ hội cuối cùng cũng đến khi dì Lan – em gái của Liên từ Huế vào Hà Nội thăm hai mẹ con đã tiết lộ cho Mai địa chỉ của cha Mai ở Sài Gòn. Từ đây, Mai phải lựa chọn rời xa tổ ấm để lên nơi phồn hoa đô thị nhiều cạm bẫy dối trá với ước vọng được đón nhận tình yêu thương từ cha mà bấy lâu cô thiếu thốn.

Trưởng thành từ sự tổn thương

Ảnh: Facebook Tao Đàn

Thông qua hành trình tìm cha của Mai, ta còn thấy xuất hiện một hành trình khác, cũng quan trọng không kém: hành trình tìm lại bản ngã của chính cô - một người luôn bị mắc kẹt trong những câu hỏi thuộc về quá khứ. Có lẽ, khi người ta bắt đầu học cách đưa ra câu trả lời cho những nghi vấn trớ trêu mà số phận đặt ra, dù tiếng vọng cuối cùng chưa hẳn là một đáp án tiệm cận nhất với sự thật thì rốt cuộc, ta cũng dần tiến đến sự trưởng thành bản ngã - thời khắc cái tôi cá nhân phải tự phá vỡ vỏ trứng bảo bọc an toàn tưởng chừng vững chắc như một thành trì nhưng hóa ra lại chỉ mong manh như một làn sương dệt từ những mơ hồ bất quyết. Chỉ khi thành trì ấy sụp đổ, làn sương ấy lùi lại phía sau con người vừa bước ra từ sự tổn thương, chính khi ấy ta mới có thể nhìn rõ hơn thế giới với trọn vẹn hương sắc của nó. Tiếng Kiều đồng vọng chính là tiếng vọng đến từ một cuộc đời như thế. Sự tổn thương sẽ mang lại những tia lấp lánh cho con người trưởng thành dường như chưa bao giờ là bài học cũ kĩ.

Nội dung cơ bản của Tiếng Kiều đồng vọng có nhiều yếu tố tương tự với bộ phim Hạt mưa rơi bao lâu do Đoàn Minh Phượng làm đạo diễn và biên kịch, sản xuất năm 2005. Cả hai người con trong tác phẩm này đều không rõ cha mình là ai, đều tự thân tìm hiểu câu chuyện quá khứ vì cùng có người mẹ trung thành tuyệt đối với sự im lặng. “Những kỷ niệm khác nằm trong niềm im lặng của mẹ tôi, niềm im lặng dài hai mươi hai năm, dài bằng đời tôi và nửa đời của mẹ.” Mai đã từng cảm thán như thế về sự im lặng của mẹ. Im lặng là một từ khóa quan trọng, được lặp lại nhiều lần trong Tiếng Kiều đồng vọng. Bản thân Hạt mưa rơi bao lâu cũng có tên phim trong tiếng Anh là Bride of Silence. Như vậy, có thể thấy rằng, sự im lặng hay thân phận của người phụ nữ bị mất tiếng nói trong xã hội là chủ đề có sức ám ảnh lớn với tác giả Đoàn Minh Phượng. Khi những người con sống dưới cái bóng im lặng của người mẹ, họ càng có thôi thúc mạnh mẽ hơn trong việc đi tìm câu trả lời cho một quá khứ bất minh. Thoát khỏi sự im lặng, tự cất lên tiếng nói cho chính mình – đó là một trong những bước đầu tiên để trưởng thành, như cách Mai đã dứt khoát nói với mẹ vào ngày cô rời đi rằng: "Con hai mươi hai tuổi, con trưởng thành đã bốn năm rồi mẹ."

Nước bao bọc kí ức để tiếng nói được cất lên

Ảnh: Facebook Tao Đàn

Mưa ở kiếp sau (tên cũ của Tiếng Kiều đồng vọng) là một tiêu đề gợi hình; trong khi đó, Tiếng Kiều đồng vọng lại là một tiêu đề gợi âm. Thử tìm cách lí giải sự thay đổi này, ta sẽ nhận ra một số điều thú vị.

Ở phần mở đầu tác phẩm, Đoàn Minh Phượng có trích dẫn lời bài hát Within you, Without you của nhóm The Beatles do George Harrison sáng tác với phần lời như sau:

“Ngày sẽ đến khi em nhận ra chúng ta đều là nước.
Cuộc đời trôi bên trong em và bên ngoài em...”

Câu gốc bài này trong tiếng Anh là:

“And the time will come when you see we're all one.
And life flows on within you and without you.”

Thông qua đó, có thể thấy tác giả đã có dụng ý khi thay “one” bằng “nước”. Nước rõ ràng là một hình ảnh rất quan trọng với Đoàn Minh Phượng trong tác phẩm này vì bản thân “mưa” ở tiêu đề cũ cũng là một yếu tố thuộc nước. Vậy dưới ngòi bút của tác giả, nước mang ý nghĩa gì?

“Một câu chuyện không có lời giống như một cơn mưa không có giọt nước từ trời. Tôi sẽ đi tìm lời cho những gì tôi biết.”

Như vậy, nước trong tác phẩm này tượng trưng cho “lời,” cho kí ức – là điều Mai luôn tìm kiếm, đồng thời cũng là điều bao bọc Mai như cách cô ví von: “Tôi còn là loài cá đầu to nằm còng queo trong lòng đại dương chật hẹp, trong bụng của người mẹ chửa hoang.” Vì “sự im lặng” của mẹ Mai là nguồn cơn khởi phát cho hành trình của Mai nên có thể xem như “nước” – một  hiện thân của “lời” – chính là đích đến, đồng thời là phương tiện để Mai hiện thực hóa mục tiêu của mình.

Do đó, so với Mưa ở kiếp sau, Tiếng Kiều đồng vọng là một tiêu đề thể hiện sự chuyển biến tích cực. Mai không còn chờ “mưa”/ “lời giải đáp” ở kiếp sau nữa, cô tìm nó ngay trong kiếp này để cất lên thành một tiếng vọng, phá tan sự im lặng của mẹ cô, của những phận nữ nhi bị mất đi tiếng nói ở thế hệ trước.

Một giọng văn mềm mại nhưng ngầm cuộn sóng bên trong

Tiếng Kiều đồng vọng vẫn kể chuyện theo lối tuyến tính, nhưng khi trình bày các sự kiện diễn ra trong cái khuôn đó, Đoàn Minh Phượng vẫn cho phép dòng tự sự của nhân vật chảy miên man tự do, đi đi về về giữa quá khứ và hiện tại. Chính vì thế, dòng chảy tâm thức của nhân vật tuy được giọng văn mềm mại dẫn dắt nhưng vẫn ngầm cuộn sóng bên trong bởi lẽ chỉ cần rẽ qua một bước ngoặt nhỏ, sự kiện đau lòng nào đó trong quá khứ lại đột ngột ập đến; hoặc ngược lại, khi đang đắm chìm trong hồi tưởng êm đềm, bất thình lình hiện thực phũ phàng xâm chiếm và hủy hoại ta. Người đọc như bước đi trong mê cung, chỉ có thể tri nhận thế giới như một khoảng không chật hẹp trước mắt, không thể biết điều gì sẽ chờ đợi mình trong ngã rẽ kế tiếp.

Ở một thế giới mơ hồ thì những cái tên - vốn dĩ là phép định danh chống lại sự mơ hồ - càng được Đoàn Minh Phượng dụng công để có thể hòa quyện trong bầu không khí hư ảo. Ta có thể thấy tác giả không vội vàng giới thiệu tên họ, lai lịch đầy đủ của nhân vật ngay từ đầu theo lối kể chuyện tiểu sử quen thuộc. Nhân vật hiện lên thoạt tiên với những tâm tư, cuộc sống ập ngay trước mắt độc giả. Những thông tin bên lề sẽ đến sau. Mãi đến chương bốn, trong đoạn đối thoại với mẹ, người đọc mới biết nhân vật chính tên Mai. Nếu để ý kĩ, ta sẽ thấy hầu như những nhân vật trong truyện đều có tên gắn với một loài hoa: Mai, Liên, Lan, Quỳnh... Và Chi - một nhân vật đặc biệt trong tác phẩm này thì tên cô lại có nghĩa là “cành”, không phải là loài hoa đích thực mà có thể là cành cho bất cứ loài hoa nào.  

Những giấc mơ cũng là một yếu tố quan trọng trong Tiếng Kiều đồng vọng. Thông qua đó, Đoàn Minh Phượng xây dựng một thế giới tổn thương, quái lạ với những buổi tiệc kì dị của giới nhà giàu, có phần nào đó mang không khí tương đồng buổi tiệc của hội kín quí tộc mà Stanley Kubrick đã đặc tả rất kĩ lưỡng trong phim Eye Wide Shut (1999).

Sống trong thế giới hiện đại, những cô Kiều dưới ánh sáng thị thành dường như không còn giữ nổi tâm trí tỉnh táo. Họ hồ như đều có chung một dòng máu điên loạn và chỉ biết lặng nhìn dòng chảy ấy trôi qua nhiều kiếp người. Vì vậy, tiếng kêu của họ có thể không đứt ruột như người xưa do nỗ lực chôn vùi cảm xúc, nhưng lại trở thành những tiếng vọng được cộng hưởng vào nhau nên còn mãi ngân nga rất lâu sau khi Tiếng Kiều đồng vọng đã kết thúc.

Đọc bài viết

Cafe sáng