Phía sau trang sách

451 độ F và khát khao tự do của con người

Như mọi tác phẩm dystopian (phản địa đàng) khác, Ray Bradbury vẽ ra một viễn cảnh nơi những nỗi sợ, khúc mắc, mâu thuẫn, bức bối của con người được đẩy đến cực điểm.

Published

on

Tự cổ chí kim, con người luôn trăn trở về hai từ TỰ-DO. Thế nào là tự do? Tự do từ đâu mà có? Ta có tự do hay không? Làm sao biết ta đang được tự do? Những nỗi đau đáu ấy dày vò chúng ta – loài homo sapien, với vị thế là loài thông minh nhất (hay chúng ta vẫn nghĩ như thế khi tự gọi mình là sapien), đến mức chúng ta mang nỗi niềm ấy vào thi ca nhạc họa, ở cả hình thức tường minh hay hàm ẩn. Nếu chọn ra một đại diện cho nhóm sau, 451 độ F (tựa gốc Fahrenheit 451) của Ray Bradbury là một lựa chọn tuyệt vời.

451 độ F lấy bối cảnh tại một thời điểm nào đó ở tương lai, khi những bức tường phòng khách trở thành bốn màn hình lớn chiếu đủ thứ trên đời, khi lính cứu hỏa từng đi dập lửa nay trở thành lính phóng hỏa triệu hồi thần lửa nhún nhảy trên đống tàng thư. Montag, một anh lính phóng hỏa, vẫn ngoan ngoãn thực hiện nhiệm vụ mà sếp mình, Beatty, giao phó: Thiêu rụi mọi cuốn sách. Sách giờ đây là man dã, là điên dại, là đồi trụy, là quá khứ lãng quên. Những thứ ướm mùi ô uế ấy phải bị tận diệt. Kẻ đọc sách là tội phạm, bởi “ai mà biết được những kẻ đọc nhiều sẽ nhắm đến ai cơ chứ?” Tuy nhiên, sống trong một xã hội nơi mọi thứ tự do ý chí và tư duy độc lập đều bị triệt tiêu, đặc biệt là sau cuộc nói chuyện đầy tính gợi mở với cô bé hàng xóm Clarisse, Montag dần hoài nghi về những việc mình làm, về đâu là chân giá trị của cuộc sống: Là sách, hay là lửa? Sau một lần đi phóng hỏa, anh đã chứng kiến cái chết huy hoàng của một người đọc sách. Cái chết rực rỡ ấy đã gieo vào đầu anh nhiều suy nghĩ. Anh đã bất chấp bí mật giấu một cuốn sách cho riêng mình. Và cuốn sách ấy đã đưa Montag đi xa hơn những gì anh có thể mường tượng.

1. Nhà tù tư tưởng

Như mọi tác phẩm dystopia (phản địa đàng) khác, Ray Bradbury vẽ ra một viễn cảnh nơi những nỗi sợ, khúc mắc, mâu thuẫn, bức bối của con người được đẩy đến cực điểm. Trong thế giới của 451 độ F, ta không biết rõ tên của xã hội mà nhân vật Montag đang phụng sự hay thời gian mà anh này sinh sống. Tất cả những gì mà ta biết chỉ mà một xã hội bị thống trị bởi truyền thông – biểu hiện bằng những chương trình truyền hình vô nghĩa chiếu trên bốn bức tường phòng ngủ, trên cửa phương tiện giao thông công cộng, trên radio mà Mildred – vợ Montag, vẫn nghe. Điều này càng được minh chứng khi thời điểm Ray Bradbury viết 451 độ F cũng là thời hoàng kim của radio và khởi đầu giai đoạn chuyển tiếp sang truyền hình. Tất cả những thứ này, cộng thêm việc thủ tiêu con chữ, là một hình thức mị dân, tận diệt tư duy độc lập. Nói cách khác, đó là cầm tù con người từ trong tư tưởng. Sách vở mang đậm tính cá biệt. Đó là tư tưởng của mỗi con người trong xã hội. Dù cho đó là sách tuyên truyền phục vụ mục đích chính trị, những quyển sách vẫn mang tư tưởng của một nhóm người nhất định. Như vậy, sách đại diện cho dòng tư tuởng chảy tự do và cũng chính là tư tưởng về TỰ DO nếu đặt trong bối cảnh của 451 độ F. Thiêu trụi sách và thủ tiêu người đọc sách cũng chính là dập tắt tự do và những người vun đắp khái niệm ấy. Những người lính phóng hỏa trở thành công cụ để thực hiện công cuộc đồng hóa của nhà cầm quyền. Một sự đồng hóa kinh tởm. Tởm hơn bất kỳ thứ gì chúng ta từng biết, vì sự đồng hóa này không hướng xã hội theo một hệ tư tưởng nào đó như người Trung Hoa khi thời Minh diệt Hồ đã áp lên dân Việt, không phải là Đức Quốc Xã bắt tất cả dân tộc khác phải tôn sùng tộc Aryan, không phải là những bộ phim ca ngợi tinh thần người hùng Mỹ cứu lấy nhân loại. Sự đồng hóa ở đây khiến cho xã hội đại đồng trong đôi mắt lạnh lẽo, trong trái tim thờ ơ, trong khối óc mông muội, không lấy một chút động lực được khai sáng. Sự đồng hóa như cơn hạn rút cạn dòng suối nguồn tư tưởng đổ ra biển lớn tự do. Nếu sự áp chế được Ray Bradbury rót vào gã sếp Beatty tàn nhẫn, thì sự tối tăm mà thứ tù túng ấy gây ra lại cô đặc thành cô vợ Mildred và những người bạn của ả (và nếu độc giả để ý, Mildred còn nghiện thuốc ngủ. Vâng, là thuốc ngủ). Tất cả tạo nên một bối cảnh không thể bức bối hơn, như “hơi kerosene phản phất” từng con chữ, từng chi tiết, từng nhân vật. Căng thẳng, ngột ngạt. Tất cả những gì mà độc giả cần chỉ là một que diêm thổi bùng tất cả.

2. Cánh cửa tự do

Tác phẩm mở đầu bằng một câu đơn giản mà hàm súc: “Đốt là một cái thú!” Thật vậy, bạn có thể là mọt sách, là người viết sách, nhưng bạn không thể chối bỏ bản chất bạo lực của con người1. Nhìn thấy “thứ này thứ nọ bị ngốn dần, thứ này thứ nọ bị đen đi và biến dạng” có làm bạn cảm thấy lâng lâng? Cảm giác vừa kinh tởm vừa phấn khích hẳn đã đến với Montag khi anh lấy về một quyển sách từ chỗ mình vừa thiêu trụi. Hóa ra, sự tò mò, nói cho bóng bẩy hơn là khát khao biết được sự thật, đã ăn sâu vào con người, đến mức dẫu có lúc ta nghĩ nó đã lụi tàn trong đêm đông dưới lớp tuyết khỏa lấp, khi được gửi cho vài hơi ấm, vẫn đủ sức nhen nhóm và chực bùng lên. Trong cuốn Walden, Henry David Thoreau từng viết: “Rather than love, than money, than fame, give me truth.” (“Thay vì tình yêu, tiền tài, danh vọng, hãy cho tôi sự thật.”) Trên tất cả mọi thứ tạm bợ, con người đi tìm sự thật, vì sự thật cho ta tự do. Như đã nói ở trên, dối trá không khác gì nhà tù của tư tưởng. Dối trá hiển hiện suốt 451 độ F. Rằng những căn nhà xưa nay đều chịu được lửa, rằng sách vở như súng đã nạp đạn, rằng người lính phóng hỏa đầu tiên không ai khác là Benjamin Franklin – người có công thành lập đội lính CỨU HỎA đầu tiên2, cũng thúc đẩy ngành in ấn ở nước Mỹ sơ khởi và cho mở một trong những thư viện quan trọng3 ở miền đất này (mỉa may và ghê tởm thay!). Đối với Montag, hơi ấm thổi bùng ngọn lửa chính là cô bé Clarisse. Cô bé nói gì? “Chẳng phải ngày xưa chỉ có lính chuyên ngăn lửa chứ không có lính chuyên phóng hỏa rồi mặc cho lửa cháy hay sao?” Đúng hay sai, anh chưa thể quyết ngay, nhưng ít nhất, cô bé đã gieo vào anh một chút ánh sáng dắt anh qua cánh cửa ra khỏi nhà lao u muội. Hoang mang lớn dần, sợ hãi lớn dần, kinh tởm lớn dần. Anh lấy một quyển sách từ hiện trường nơi anh đã chứng kiến một cái chết lộng lẫy. Anh đem về nhà quyển Kinh Thánh – một dấu hiệu của con đường đi tìm chân lý. Càng dấn thân qua cánh cửa sự thật, khi anh biết tin về cái chết của Clarisse, khi anh đến gặp Faber và đồng chí của ông, thì cũng là lúc anh nhìn xã hội mà mình đang sống – với Beatty và Mildred, với anh mắt khác, áp dụng một lối hành xử khác. Mâu thuẫn nội tại chồng chất trong Montag. Đỉnh điểm của mâu thuẫn này, theo thiển ý của người viết bài này, không thể hiện rõ nhất qua cuộc truy đuổi của Montag và Beatty cùng con chó máy, mà là ở lần anh lớn tiếng với Mildred. Cuộc đối thoại ấy như lần đối đầu trực tiếp giữa con người khai sáng và con người mông muội, giữa sự thật và dối trá, giữa khát khao và chịu đựng, giữa tự do và ngục tù.

3. Vài bàn luận ngoài lề

Tác phẩm 451 độ F được Ray Bradbury cho xuất bản năm 1953, tức đỉnh cao của Chiến tranh Lạnh. Thanh gươm Damocles đang lơ lửng trên đầu nhân loại. Các nhà cầm quyền, đầu óc chìm đắm trong nghi kỵ và hoang mang. Tại Mỹ, những tác phẩm bị cho là thân Xô, thân Trung, thân Cộng đều sẽ bị tiêu diệt, chủ của chúng cũng sẽ khó mà sống yên. Con người sống trong sợ hãi, ngột ngạt, hệt như bối cảnh trong truyện. Vì vậy, khao khát vươn ra khỏi tù túng càng rõ hơn hết. Những điều ấy vẫn còn thiết thực ở thời đại chúng ta, dẫu những ngày tháng Chiến tranh Lạnh đã qua đi. Có lẽ Ray Bradbury không thể ngờ giá tác phẩm của mình lại có giá trị tiên đoán và phổ quát đối với mọi thời kỳ đến như vậy. Trong tác phẩm, cuốn sách mà Montag lấy về là Kinh Thánh – chính xác hơn là một trong những phiên bản cuối cùng của Kinh Thánh. Điều này phần nào hợp với tiến trình nhận thức của con người trong lịch sử. Con người từ khi có những nhận thức đầu tiên đã tôn thờ thiên nhiên. Về sau, khi nhu cầu tinh thần tăng lên, con người bắt đầu tìm đến đức tin, đến tín ngưỡng, và khi những niềm tin có tôn ti trật tự, ta có tôn giáo. Tư tưởng Montag vừa được giải phóng, nếu thứ cởi trói cho anh là sự thật, thì tư tưởng cho anh niềm tin đi tiếp là tôn giáo.

Năm 2018, kênh HBO cho chuyển thể cuốn sách của Ray Bradbury lên màn ảnh nhỏ. Phim không thực sự xuất sắc, cốt truyện cũng được dẫn dắt khác nguyên tác, nhưng có một chi tiết được cải thiện rõ rệt so với những gì ray Bradbury viết. Cụ thể, cuốn sách mà Montag trên phim lấy về không phải là Kinh Thánh, mà là Ghi chép dưới hầm (Notes from Underground) của văn hào Nga Fyodor Dostoyevsky. Dù nhỏ bé hơn rất nhiều so với Kinh Thánh, tác phẩm này của Dostoyevsky lại đặt ra hàng loạt vấn đề mang tính hiện sinh, đánh thức lương tri con người: Con người ở đâu trong thế giới này? Con người hành động ra sao? Liệu con người có thể đạt đến cảnh giới cao nhất của tự do – tự do ý chí? Đâu là lý luận? Đâu là lý trí? Tại sao con người phải trải qua bao khổ đau?  Nếu Kinh Thánh là nơi gửi gắm đức tin của con người, thì những suy tư hiện sinh chính là bờ bến tiếp theo để con người định nghĩa bản thân mình. Đó cũng chính là con đường Montag, hay bất kỳ ai muốn sống vì tự do, sống trong tự do, chết trong tự do, phải đi qua. Nhưng để đến được đích đến ấy, ắt anh phải phản kháng, biết vươn lên, biết đặt niềm tin vào sự thật, vào tự do. Bởi Thoreau cũng từng viết trong cuốn Civil Disobedience: “Disobedience is the true foundation of liberty. The obedient must be slaves.” (“Phản kháng là nền tảng thực sự của tự do. Những kẻ dễ bảo hẳn phải là nô lệ.”).

Et par le pouvoir d’un mot
Je recommence ma vie
Je suis né pour te connaître
Pour te nommer
Liberté.
(Paul Éluard – Liberté)

Và do phép màu một tiếng – Ta làm lại cuộc đời
Ta sinh ra để biết em – Để gọi tên em
TỰ DO
(Paul Éluard  – Tự do, Tế Hanh dịch)

            

Hết.

Miên Túc

Chú thích:

  1. Gómez, J. M., Verdú, M., González-Megías, A., & Méndez, M. (2016). The phylogenetic roots of human lethal violence. Nature, 538(7624), 233.
  2. Union Fire Company, còn được gọi là Bucket Brigade, được Benjamin Franklin đồng thành lập năm 1736, trở thành cơ quan cứu hỏa tình nguyện tại các bang thuộc địa của Anh tại châu Mỹ (sau Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ 1775-1783 thì trở thành nước Mỹ sơ khởi).
  3. Library Company of Philadelphia, do Benjamin Franklin thành lập năm 1731.

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng