Phía sau trang sách

451 độ F và khát khao tự do của con người

Như mọi tác phẩm dystopian (phản địa đàng) khác, Ray Bradbury vẽ ra một viễn cảnh nơi những nỗi sợ, khúc mắc, mâu thuẫn, bức bối của con người được đẩy đến cực điểm.

Published

on

Tự cổ chí kim, con người luôn trăn trở về hai từ TỰ-DO. Thế nào là tự do? Tự do từ đâu mà có? Ta có tự do hay không? Làm sao biết ta đang được tự do? Những nỗi đau đáu ấy dày vò chúng ta – loài homo sapien, với vị thế là loài thông minh nhất (hay chúng ta vẫn nghĩ như thế khi tự gọi mình là sapien), đến mức chúng ta mang nỗi niềm ấy vào thi ca nhạc họa, ở cả hình thức tường minh hay hàm ẩn. Nếu chọn ra một đại diện cho nhóm sau, 451 độ F (tựa gốc Fahrenheit 451) của Ray Bradbury là một lựa chọn tuyệt vời.

451 độ F lấy bối cảnh tại một thời điểm nào đó ở tương lai, khi những bức tường phòng khách trở thành bốn màn hình lớn chiếu đủ thứ trên đời, khi lính cứu hỏa từng đi dập lửa nay trở thành lính phóng hỏa triệu hồi thần lửa nhún nhảy trên đống tàng thư. Montag, một anh lính phóng hỏa, vẫn ngoan ngoãn thực hiện nhiệm vụ mà sếp mình, Beatty, giao phó: Thiêu rụi mọi cuốn sách. Sách giờ đây là man dã, là điên dại, là đồi trụy, là quá khứ lãng quên. Những thứ ướm mùi ô uế ấy phải bị tận diệt. Kẻ đọc sách là tội phạm, bởi “ai mà biết được những kẻ đọc nhiều sẽ nhắm đến ai cơ chứ?” Tuy nhiên, sống trong một xã hội nơi mọi thứ tự do ý chí và tư duy độc lập đều bị triệt tiêu, đặc biệt là sau cuộc nói chuyện đầy tính gợi mở với cô bé hàng xóm Clarisse, Montag dần hoài nghi về những việc mình làm, về đâu là chân giá trị của cuộc sống: Là sách, hay là lửa? Sau một lần đi phóng hỏa, anh đã chứng kiến cái chết huy hoàng của một người đọc sách. Cái chết rực rỡ ấy đã gieo vào đầu anh nhiều suy nghĩ. Anh đã bất chấp bí mật giấu một cuốn sách cho riêng mình. Và cuốn sách ấy đã đưa Montag đi xa hơn những gì anh có thể mường tượng.

1. Nhà tù tư tưởng

Như mọi tác phẩm dystopia (phản địa đàng) khác, Ray Bradbury vẽ ra một viễn cảnh nơi những nỗi sợ, khúc mắc, mâu thuẫn, bức bối của con người được đẩy đến cực điểm. Trong thế giới của 451 độ F, ta không biết rõ tên của xã hội mà nhân vật Montag đang phụng sự hay thời gian mà anh này sinh sống. Tất cả những gì mà ta biết chỉ mà một xã hội bị thống trị bởi truyền thông – biểu hiện bằng những chương trình truyền hình vô nghĩa chiếu trên bốn bức tường phòng ngủ, trên cửa phương tiện giao thông công cộng, trên radio mà Mildred – vợ Montag, vẫn nghe. Điều này càng được minh chứng khi thời điểm Ray Bradbury viết 451 độ F cũng là thời hoàng kim của radio và khởi đầu giai đoạn chuyển tiếp sang truyền hình. Tất cả những thứ này, cộng thêm việc thủ tiêu con chữ, là một hình thức mị dân, tận diệt tư duy độc lập. Nói cách khác, đó là cầm tù con người từ trong tư tưởng. Sách vở mang đậm tính cá biệt. Đó là tư tưởng của mỗi con người trong xã hội. Dù cho đó là sách tuyên truyền phục vụ mục đích chính trị, những quyển sách vẫn mang tư tưởng của một nhóm người nhất định. Như vậy, sách đại diện cho dòng tư tuởng chảy tự do và cũng chính là tư tưởng về TỰ DO nếu đặt trong bối cảnh của 451 độ F. Thiêu trụi sách và thủ tiêu người đọc sách cũng chính là dập tắt tự do và những người vun đắp khái niệm ấy. Những người lính phóng hỏa trở thành công cụ để thực hiện công cuộc đồng hóa của nhà cầm quyền. Một sự đồng hóa kinh tởm. Tởm hơn bất kỳ thứ gì chúng ta từng biết, vì sự đồng hóa này không hướng xã hội theo một hệ tư tưởng nào đó như người Trung Hoa khi thời Minh diệt Hồ đã áp lên dân Việt, không phải là Đức Quốc Xã bắt tất cả dân tộc khác phải tôn sùng tộc Aryan, không phải là những bộ phim ca ngợi tinh thần người hùng Mỹ cứu lấy nhân loại. Sự đồng hóa ở đây khiến cho xã hội đại đồng trong đôi mắt lạnh lẽo, trong trái tim thờ ơ, trong khối óc mông muội, không lấy một chút động lực được khai sáng. Sự đồng hóa như cơn hạn rút cạn dòng suối nguồn tư tưởng đổ ra biển lớn tự do. Nếu sự áp chế được Ray Bradbury rót vào gã sếp Beatty tàn nhẫn, thì sự tối tăm mà thứ tù túng ấy gây ra lại cô đặc thành cô vợ Mildred và những người bạn của ả (và nếu độc giả để ý, Mildred còn nghiện thuốc ngủ. Vâng, là thuốc ngủ). Tất cả tạo nên một bối cảnh không thể bức bối hơn, như “hơi kerosene phản phất” từng con chữ, từng chi tiết, từng nhân vật. Căng thẳng, ngột ngạt. Tất cả những gì mà độc giả cần chỉ là một que diêm thổi bùng tất cả.

2. Cánh cửa tự do

Tác phẩm mở đầu bằng một câu đơn giản mà hàm súc: “Đốt là một cái thú!” Thật vậy, bạn có thể là mọt sách, là người viết sách, nhưng bạn không thể chối bỏ bản chất bạo lực của con người1. Nhìn thấy “thứ này thứ nọ bị ngốn dần, thứ này thứ nọ bị đen đi và biến dạng” có làm bạn cảm thấy lâng lâng? Cảm giác vừa kinh tởm vừa phấn khích hẳn đã đến với Montag khi anh lấy về một quyển sách từ chỗ mình vừa thiêu trụi. Hóa ra, sự tò mò, nói cho bóng bẩy hơn là khát khao biết được sự thật, đã ăn sâu vào con người, đến mức dẫu có lúc ta nghĩ nó đã lụi tàn trong đêm đông dưới lớp tuyết khỏa lấp, khi được gửi cho vài hơi ấm, vẫn đủ sức nhen nhóm và chực bùng lên. Trong cuốn Walden, Henry David Thoreau từng viết: “Rather than love, than money, than fame, give me truth.” (“Thay vì tình yêu, tiền tài, danh vọng, hãy cho tôi sự thật.”) Trên tất cả mọi thứ tạm bợ, con người đi tìm sự thật, vì sự thật cho ta tự do. Như đã nói ở trên, dối trá không khác gì nhà tù của tư tưởng. Dối trá hiển hiện suốt 451 độ F. Rằng những căn nhà xưa nay đều chịu được lửa, rằng sách vở như súng đã nạp đạn, rằng người lính phóng hỏa đầu tiên không ai khác là Benjamin Franklin – người có công thành lập đội lính CỨU HỎA đầu tiên2, cũng thúc đẩy ngành in ấn ở nước Mỹ sơ khởi và cho mở một trong những thư viện quan trọng3 ở miền đất này (mỉa may và ghê tởm thay!). Đối với Montag, hơi ấm thổi bùng ngọn lửa chính là cô bé Clarisse. Cô bé nói gì? “Chẳng phải ngày xưa chỉ có lính chuyên ngăn lửa chứ không có lính chuyên phóng hỏa rồi mặc cho lửa cháy hay sao?” Đúng hay sai, anh chưa thể quyết ngay, nhưng ít nhất, cô bé đã gieo vào anh một chút ánh sáng dắt anh qua cánh cửa ra khỏi nhà lao u muội. Hoang mang lớn dần, sợ hãi lớn dần, kinh tởm lớn dần. Anh lấy một quyển sách từ hiện trường nơi anh đã chứng kiến một cái chết lộng lẫy. Anh đem về nhà quyển Kinh Thánh – một dấu hiệu của con đường đi tìm chân lý. Càng dấn thân qua cánh cửa sự thật, khi anh biết tin về cái chết của Clarisse, khi anh đến gặp Faber và đồng chí của ông, thì cũng là lúc anh nhìn xã hội mà mình đang sống – với Beatty và Mildred, với anh mắt khác, áp dụng một lối hành xử khác. Mâu thuẫn nội tại chồng chất trong Montag. Đỉnh điểm của mâu thuẫn này, theo thiển ý của người viết bài này, không thể hiện rõ nhất qua cuộc truy đuổi của Montag và Beatty cùng con chó máy, mà là ở lần anh lớn tiếng với Mildred. Cuộc đối thoại ấy như lần đối đầu trực tiếp giữa con người khai sáng và con người mông muội, giữa sự thật và dối trá, giữa khát khao và chịu đựng, giữa tự do và ngục tù.

3. Vài bàn luận ngoài lề

Tác phẩm 451 độ F được Ray Bradbury cho xuất bản năm 1953, tức đỉnh cao của Chiến tranh Lạnh. Thanh gươm Damocles đang lơ lửng trên đầu nhân loại. Các nhà cầm quyền, đầu óc chìm đắm trong nghi kỵ và hoang mang. Tại Mỹ, những tác phẩm bị cho là thân Xô, thân Trung, thân Cộng đều sẽ bị tiêu diệt, chủ của chúng cũng sẽ khó mà sống yên. Con người sống trong sợ hãi, ngột ngạt, hệt như bối cảnh trong truyện. Vì vậy, khao khát vươn ra khỏi tù túng càng rõ hơn hết. Những điều ấy vẫn còn thiết thực ở thời đại chúng ta, dẫu những ngày tháng Chiến tranh Lạnh đã qua đi. Có lẽ Ray Bradbury không thể ngờ giá tác phẩm của mình lại có giá trị tiên đoán và phổ quát đối với mọi thời kỳ đến như vậy. Trong tác phẩm, cuốn sách mà Montag lấy về là Kinh Thánh – chính xác hơn là một trong những phiên bản cuối cùng của Kinh Thánh. Điều này phần nào hợp với tiến trình nhận thức của con người trong lịch sử. Con người từ khi có những nhận thức đầu tiên đã tôn thờ thiên nhiên. Về sau, khi nhu cầu tinh thần tăng lên, con người bắt đầu tìm đến đức tin, đến tín ngưỡng, và khi những niềm tin có tôn ti trật tự, ta có tôn giáo. Tư tưởng Montag vừa được giải phóng, nếu thứ cởi trói cho anh là sự thật, thì tư tưởng cho anh niềm tin đi tiếp là tôn giáo.

Năm 2018, kênh HBO cho chuyển thể cuốn sách của Ray Bradbury lên màn ảnh nhỏ. Phim không thực sự xuất sắc, cốt truyện cũng được dẫn dắt khác nguyên tác, nhưng có một chi tiết được cải thiện rõ rệt so với những gì ray Bradbury viết. Cụ thể, cuốn sách mà Montag trên phim lấy về không phải là Kinh Thánh, mà là Ghi chép dưới hầm (Notes from Underground) của văn hào Nga Fyodor Dostoyevsky. Dù nhỏ bé hơn rất nhiều so với Kinh Thánh, tác phẩm này của Dostoyevsky lại đặt ra hàng loạt vấn đề mang tính hiện sinh, đánh thức lương tri con người: Con người ở đâu trong thế giới này? Con người hành động ra sao? Liệu con người có thể đạt đến cảnh giới cao nhất của tự do – tự do ý chí? Đâu là lý luận? Đâu là lý trí? Tại sao con người phải trải qua bao khổ đau?  Nếu Kinh Thánh là nơi gửi gắm đức tin của con người, thì những suy tư hiện sinh chính là bờ bến tiếp theo để con người định nghĩa bản thân mình. Đó cũng chính là con đường Montag, hay bất kỳ ai muốn sống vì tự do, sống trong tự do, chết trong tự do, phải đi qua. Nhưng để đến được đích đến ấy, ắt anh phải phản kháng, biết vươn lên, biết đặt niềm tin vào sự thật, vào tự do. Bởi Thoreau cũng từng viết trong cuốn Civil Disobedience: “Disobedience is the true foundation of liberty. The obedient must be slaves.” (“Phản kháng là nền tảng thực sự của tự do. Những kẻ dễ bảo hẳn phải là nô lệ.”).

Et par le pouvoir d’un mot
Je recommence ma vie
Je suis né pour te connaître
Pour te nommer
Liberté.
(Paul Éluard – Liberté)

Và do phép màu một tiếng – Ta làm lại cuộc đời
Ta sinh ra để biết em – Để gọi tên em
TỰ DO
(Paul Éluard  – Tự do, Tế Hanh dịch)

            

Hết.

Miên Túc

Chú thích:

  1. Gómez, J. M., Verdú, M., González-Megías, A., & Méndez, M. (2016). The phylogenetic roots of human lethal violence. Nature, 538(7624), 233.
  2. Union Fire Company, còn được gọi là Bucket Brigade, được Benjamin Franklin đồng thành lập năm 1736, trở thành cơ quan cứu hỏa tình nguyện tại các bang thuộc địa của Anh tại châu Mỹ (sau Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ 1775-1783 thì trở thành nước Mỹ sơ khởi).
  3. Library Company of Philadelphia, do Benjamin Franklin thành lập năm 1731.

Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Những thương hiệu quốc dân ‘vang bóng một thời’

Theo VnExpress – Xà bông Cô Ba, máy may Sinco, nước ngọt Con Cọp, kem đánh răng Hynos và Dạ Lan từng là những cái tên dẫn đầu thị trường, nhưng dần sa sút khi công ty chủ quản bỏ thương hiệu hoặc bán vốn cho đối tác.

Published

on

Xà bông Cô Ba là nhãn hiệu do ông Trương Văn Bền thành lập năm 1932 ở khu vực chợ hóa chất Kim Biên (quận 5, TP HCM).

Trong cuốn Sài Gòn tạp pín lù, học giả Vương Hồng Sển nói rằng hình ảnh in trên bao bì viên xà bông là cô Ba Thiệu, con thầy Thông Chánh, quê gốc Trà Vinh. Bà là người đăng quang cuộc thi hoa hậu đầu tiên tổ chức năm 1865 ở Sài Gòn. Tuy nhiên, cũng có thông tin khác cho rằng người phụ nữ này là vợ ông Trương Văn Bền. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Xà bông Cô Ba được ưa chuộng khắp miền Nam lúc bấy giờ nhờ chất lượng tốt, giá thành phải chăng. Theo lời học giả Vương Hồng Sển, xà bông "bán chạy vo vo", sản xuất đến đâu hết đến đó. Thương hiệu này có giai đoạn đánh bật sự độc quyền của Hãng xà bông Marseille (Pháp).

Đất nước thống nhất, công ty của ông Trương Văn Bền hoạt động theo mô hình doanh nghiệp nhà nước với tên gọi Nhà máy công tư hợp doanh xà bông Việt Nam, sau đó đổi tên thành Công ty Sản xuất và Thương mại Phương Đông. Sản phẩm xà bông Cô Ba dần vắng bóng khỏi thị trường. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Cuối năm 2017, Công ty Bất động sản An Dương Thảo Điền mua 48,68% cổ phần Công ty Phương Đông. Lãnh đạo công ty nói rằng Xà bông Cô Ba vẫn có chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng nên sẽ khôi phục dây chuyền sản xuất với sản lượng ước tính vài chục tấn mỗi năm, chủ yếu để bảo tồn thương hiệu gần trăm tuổi.

Chia sẻ với VnExpress, lãnh đạo An Dương Thảo Điền từng nói: "Tham gia ngành hàng tiêu dùng nhanh là cuộc chơi đòi hỏi vốn lớn và nhiều rủi ro, trong khi đây không phải thế mạnh của chúng tôi nên phương án được ưu tiên là hợp tác với các nhà sản xuất, phân phối có kinh nghiệm. Chúng tôi sẽ đóng góp công thức, bản quyền thương hiệu... để thành lập một liên doanh khôi phục Xà bông Cô Ba".

Trong ảnh là tòa nhà từng là trụ sở của xà bông Cô Ba nằm ở số 20 đường Kim Biên, bên hông chợ Kim Biên.

Nước ngọt Con Cọp có mặt ở hầu hết hàng quán ăn uống trước năm 1975 do tập trung vào phân khúc tiêu dùng bình dân, trong khi Coca-Cola thời đó ở phân khúc cao hơn. Đây là sản phẩm của Usine Belgique, nhà máy sản xuất nước giải khát lớn nhất miền Nam, thuộc tập đoàn BGI (Pháp). Nhà máy này cũng là nơi ra đời của bia Lade trái thơm và bia 33 Export.

Tờ áp phích có dòng chữ "nước ngọt Con Cọp mỗi chai, là nguồn vui mạnh kéo dài tuổi xuân" quen thuộc với người tiêu dùng. Ảnh tư liệu

Hai năm sau ngày đất nước thống nhất, Tập đoàn BGI chuyển quyền sở hữu và bàn giao toàn bộ nhà máy cho nhà nước với tên gọi Nhà máy nước ngọt Chương Dương. Nhãn hiệu Con Cọp biến mất từ đó, thay bằng các dòng sản phẩm xá xị mang thương hiệu Chương Dương. Ảnh lật sau là vị trí Công ty nước ngọt BIG nay là trụ sở công ty nước giải khát Chương Dương, 606 Võ Văn Kiệt.

Máy may Sinco ban đầu được nhập khẩu nguyên chiếc từ Nhật Bản, sau đó có nhà máy lắp ráp và đặt trụ sở chính trên đường Trần Hưng Đạo (quận 1 ngày nay). Nơi đây từng là biểu tượng quen thuộc của người dân Sài Gòn với biểu tượng máy may bàn đạp trên nóc tòa nhà. Hiện nay, tòa nhà đang được sử dụng làm cơ sở cho một phòng khám. Ảnh: Lynn Roylance

Trước ngày đất nước thống nhất, Sinco có đại lý phân phối khắp nội thành Sài Gòn và các tỉnh. Trong các tờ rơi quảng cáo, thương hiệu này giới thiệu ưu điểm chính là "may khéo, thêu đẹp, sửa chữa miễn phí" và cam kết bảo hành 20 năm. Sinco nổi tiếng với độ bền cao, thao tác đơn giản nên được nhiều gia đình và xưởng dạy nghề may ưa dùng.

Sau giải phóng, Sinco được quốc hữu hóa và trở thành Xí nghiệp liên hiệp Máy may Sinco. Doanh nghiệp này được cổ phần hóa những năm đầu 2000 và chuyển hướng sản xuất máy móc phục vụ công nghiệp và nông nghiệp như dây chuyền giết mổ gia cầm, chế biến lúa gạo, tiêu… Trụ sở công ty cũng được dời về huyện Bến Lức, Long An. Ảnh tư liệu

Hynos là hãng kem đánh răng do một người Mỹ gốc Do Thái thành lập và chuyển giao cho ông Huỳnh Đạo Nghĩa sau khi về nước.

Ông chủ mới nhanh chóng cải tiến mẫu mã và đưa Hynos tới gần người tiêu dùng bằng phương thức tiếp thị độc lạ thời đó: phát nhạc quảng cáo ra rả trên loa phóng thanh gần các cửa hàng bách hóa và đặt biển quảng cáo ở những vị trí đắc địa của Sài Gòn.

"Nụ cười anh Bảy Chà" và đoạn quảng cáo "trồng lúa mới có gạo mà ăn, thế mà có người đã phải trồng răng mới có răng mà ăn" làm nên thời kỳ hoàng kim của Hynos vào những năm cuối thập niên 60. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Không chỉ nổi tiếng trong nước, Hynos còn được bán sang các nước trong khu vực Đông Nam Á và Hong Kong, trở thành một trong những biểu tượng thương mại đương thời.

Thực hiện chính sách quốc hữu hóa sau ngày giải phóng, Hynos được nhà nước tiếp quản và sáp nhập với một công ty cùng lĩnh vực thành Xí nghiệp Kem đánh răng Phong Lan, sau đó đổi tên thành Công ty Hóa phẩm P/S. Công ty có giai đoạn chiếm tới 60% thị phần kem đánh răng ở miền Nam. Ảnh: Bill Mullin

Giữa năm 1997, Tập đoàn Unilever đề nghị lập liên doanh trên tinh thần "win-win" với tổng vốn đầu tư hơn 17 triệu USD.

Trong thời gian hợp tác, Hóa phẩm P/S chỉ đảm nhận việc gia công vỏ hộp bằng nhôm mà không được sản xuất kem đánh răng như trước. Sáu năm sau ngày bắt tay, công ty bị đánh bật khỏi liên doanh kèm cam kết về sau không được sử dụng thương hiệu nổi tiếng bậc nhất lúc bấy giờ trên bất kỳ sản phẩm nào.

Đầu năm 2007, những lãnh đạo cũ thành lập Công ty cổ phần P/S để gầy dựng lại hoạt động kinh doanh. Công ty ban đầu gia công vỏ nhôm cho các doanh nghiệp dược phẩm, sau đó sản xuất kem đánh răng mang dòng chữ Hynos cùng hình ảnh quen thuộc "nụ cười anh Bảy Chà". Hàng hóa được tiêu thụ trong các khách sạn, resort và cũng xuất hiện rải rác trên sàn thương mại điện tử. Ảnh: Tommy Japan/Flickr

Tương tự Hynos, kem đánh răng Dạ Lan cũng có một thời lừng lẫy đầu thập niên 90 khi chiếm tới 90% thị phần từ Đà Nẵng trở ra phía Bắc. Thương hiệu này từng có lợi nhuận vài lượng vàng mỗi ngày.

Ông Trịnh Thành Nhơn, người sáng lập Dạ Lan, tự nhận thương hiệu của mình thời đó "là con gái đang độ tuổi xuân sắc" nên được nhiều doanh nghiệp nước ngoài như Colgate, Unilever, P&G đặt vấn đề hợp tác.

Năm 1995, Dạ Lan ký hợp đồng liên doanh với Colgate - thương vụ mà ông Nhơn gọi là "sai lầm lớn nhất cuộc đời". Thương hiệu khi đó được định giá 3,2 triệu USD và ông nắm 30%, đồng thời giữ chức phó tổng giám đốc trong công ty liên doanh.

Chưa đầy một năm hợp tác, Colgate bảo Dạ Lan càng kinh doanh càng lỗ nên cần nhường chỗ cho sản phẩm mang nhãn hiệu của họ. Colgate sau đó thông báo đã dùng hết vốn góp và vay ngân hàng. Khi ông Nhơn đồng ý góp thêm 10 triệu USD với điều kiện được làm tổng giám đốc, có toàn quyền điều hành, đối tác bác bỏ và khơi mào việc phá sản. Ảnh: Ông Trịnh Thành Nhơn cung cấp

Sau vài lần đàm phán căng thẳng, Colgate mua lại cổ phần của ông Nhơn với giá 5 triệu USD kèm điều kiện ông không được tham gia ngành hàng này trong 5 năm tiếp theo.

Ông Nhơn nỗ lực vực dậy thương hiệu Dạ Lan từ khoảng 2016, nhưng tự thừa nhận khoảng cách với những đơn vị dẫn đầu như P/S hay Colgate còn rất xa.

Ông cho biết mỗi ngày đều cố gắng phát triển lại Dạ Lan để bàn giao cho thế hệ sau này. "Tôi không can tâm nhìn con cái tiếp quản một công ty thua lỗ triền miên do mình gây nên. Khi tiền bạc bây giờ không phải là ưu tiên hàng đầu, tôi có một điều bất di bất dịch là không được để mất thương hiệu Dạ Lan bằng bất cứ giá nào", ông nói. Ảnh: Anh Nguyên

Phương Đông - Quỳnh Trần (Theo VnExpress)

Đọc bài viết

Cafe sáng