Phía sau trang sách

1Q84 – Chỉ cần có anh, thế giới với em ở đâu cũng là hiện thực

Ngay từ đêm qua, khi những dòng cuối cùng về mối tình của Tengo và Aomame khép lại dưới thế giới chỉ có một mặt trăng, mình đã không sao ngủ yên. Có lẽ đối với độc giả của 1Q84 mà nói, đây là một cái kết hết sức hụt hẫng và nhạt. Vì cái cách ông mở ra năm 1Q84 có hai mặt trăng và Người Tí Hon mới hùng dũng làm sao, để rồi đóng nó lại mới giản tiện làm sao.

Published

on

Chi tiết tác phẩm

Aomame đã leo xuống cái cầu thang thoát hiểm trên đường cao tốc để lạc vào một thế giới mới với sự tồn tại không hiểu của cái thứ gọi là Nhộng không khí, lang thang cô đơn trong đó hết 3 cuốn tiểu thuyết, mỗi cuốn cỡ 500 trang A4 tiếng Việt, để rồi lại leo lên từ dưới lòng đất quay lại tuyến đường cao tốc ấy với Tengo theo sau, nắm tay nhau nhìn mặt trăng chỉ còn một cái rồi quyết định sẽ sống đời ở cái thế giới ấy. Khi gấp cuốn sách lại mình đã hết sức hoang mang, ông đã không giải quyết hết được mối tơ vò ông xây nên ở thời đại 1Q84, tổ chức Sakigake sẽ làm gì để đoạt lại Aomame, Người Tí Hon sẽ làm sao để tiếp tục được lắng nghe giọng nói, cái Nhộng không khí của Ushikawa sẽ cho ra thứ gì đây, cái thứ bé nhỏ trong bụng Aomame thực chất có nhiệm vụ gì, làm sao mà sinh trưởng?… Cái kết Haruki đưa ra cho 1Q84 khiến độc giả bước hụt một nấc thang quá lớn, chới với mất một lúc rồi vẫn chẳng hiểu mình đọc xong rồi sẽ phải làm gì tiếp theo, sẽ phải nghĩ sao về cuốn tiểu thuyết này, có nên chăng đọc lại từ đầu một lượt 3 cuốn? Hoang mang hết nửa ngày, đi qua đi lại, ăn rồi uống rồi ngủ rồi đi làm mà vẫn không hiểu sao ông lại đem kết chuyện như thế. Có cảm tưởng nếu đem câu này nói trước mặt ông, ông sẽ cười mỉm một cái thật nhẹ rồi nắm tay vợ mà nói, “tôi thích kết như thế thì sẽ là như thế đấy, có mua sách về đọc hay không là chuyện của cô”. Mình sẽ há miệng ra mà thở, chắc không tức giận gì đâu mà chỉ là ngạc nhiên thôi. Chuyện này đúng là đến giờ vẫn không hiểu được luôn.

1q84_by_cornymistick-d4wkzwl

Nhưng mà mình đọc xong 1Q84 lúc 3h đêm qua, sau đó đi ngủ một giấc gần 12 tiếng. Trước khi đi ngủ trong đầu vẫn hiện lên hình ảnh của Aomame và Tengo trên tầng cao chót vót của một khách sạn ở Asakasa, ôm nhau ngắm một mặt trăng. Khi tỉnh dậy vẫn nghĩ về họ. Đọc truyện tranh mà hết một trang, giữa lúc lật sang trang mới lại nghĩ về họ. Định đi viết thứ này thứ kia lại vẫn tiếp tục nhìn thấy họ. Muốn xem nốt mấy tập cuối của Người giấu mặt vì chỉ có 2 ngày nữa là hết chương trình nhưng cũng chẳng có tâm trạng xem nữa. Muốn đi design hình thẻ cho nhà 4 cũng chả có đầu óc đâu. Mà hình như chẳng phải chỉ có tinh thần, trái tim mình cũng ngập tràn mùi vị từ thế giới đó. Hình ảnh lúc nào cũng như một bức hình rửa ra từ camera đặt trộm trong phòng khách sạn ở Asakasa ấy. Phòng tắt đèn tối om, bóng lưng hai người đứng cạnh nhau, quấn chăn, ôm nhau, mặt ngước lên trời. Ánh trăng thì sáng vằng vặc. Cái kết rõ ràng là một nhát bước hụt, vậy mà sao hình ảnh đó lại in trong đầu rõ nét đến thế mình cũng chẳng hiểu ra nổi. Chính vì không hiểu ra nổi nên càng phải lấy tay lần mò trong mớ hỗn độn cảm xúc của mình, đến khi sờ được nó ra thành vật hữu hình, mang nó ra sáng mà xem cho thoả thích thì mới chịu được. Cũng may là không dài đến độ mất 3 cuốn tiểu thuyết mới tìm ra, cách đây một tiếng trong lúc rửa chén đã phát hiện ra rồi.

Dưới góc độ một độc giả của 1Q84, cái kết này hơi khó chấp nhận thật, nhưng với một độc giả của Haruki thì cái kết cuộc này là một bất ngờ lớn. Từ cái bất ngờ này người ta nghiệm lại toàn bộ 3 cuốn tiểu thuyết một lượt và nhận ra cái khác của ông trong thiên truyện này so với Kafka bên bờ biển hay Cuộc săn cừu hoang chẳng hạn. Khi đọc cuốn 1 và cuốn 2, mình đã quá quen với văn phong của Haruki rồi và đã nghĩ là, cách duy nhất để độc giả không chán giọng văn của một tác giả quen thuộc là làm cho họ yêu thích nhân vật trong truyện đó, điển hình ở đây là Aomame hay Tengo hay thậm chí Ushikawa hay Fukaeri vậy.

Mình thực lòng rất thích Aomame. “Cô độc một mình cũng không sao. Chỉ cần thật lòng yêu một người, cuộc đời sẽ được cứu rỗi.” Aomame đã mạnh mẽ thốt ra câu nói đó với chính mình, người đã kiên nhẫn sống trong cô đơn, ăn, ngủ, tập thể dục, đi giết những thằng đàn ông hành hạ phụ nữ, làm tình với những người hói đầu đúng theo sở thích của cô, và nhớ về Tengo với tất cả tấm lòng mình. Chỉ cần có anh trong lòng, dù có được ở bên anh hay không cũng không quan trọng. Chỉ cần có sự thật đó, thế giới đối với em ở đâu cũng là hiện thực, dù có đến mấy mặt trăng đi chăng nữa. Chỉ cần có anh, Tengo. Một Aomame mạnh mẽ nắm lấy tay cậu bé Tengo khi còn mười tuổi trong lớp học thoảng gió, hai mươi năm sau vẫn là Aomame đi tìm và dẫn Tengo đi khỏi thế giới 1Q84. Aomame với tình yêu kiên định hơn bất cứ điều gì trên đời, tin vào tình cảm của mình hơn bất cứ sự hoang tưởng nào trên thế giới. Nàng có thể sống mãi đến già đến chết với tình yêu đó trong lòng, trăng xuống nước lên một lòng một dạ không hề đổi thay. Đối với Aomame, Tengo là một nửa tâm hồn, mảnh ghép khăng khít nhất của nàng trong sinh mạng này, một khi nàng còn sống. Không, có lẽ cả khi chết đi rồi, Aomame cũng chỉ có Tengo thôi. Xét trên góc độ nào đi nữa, Aomame cũng là hình tượng phụ nữ lý tưởng của các cô gái thời nay. Giỏi giang, ưu tú, sống thẳng thắn, thành thật, kiên định với đức tin của chính mình và có ai đó để yêu. Không bao giờ bối rối trước câu hỏi tại sao ta tồn tại. Không bao giờ thắc mắc vì sao mình lại yêu. Có lẽ từ thời Naoko của Rừng Nauy đến nay, Haruki mới tạo ra được một nhân vật nữ tuyệt vời ngang ngửa như thế.

tumblr_nasnvrBTAj1qjd1kgo1_1280

Nhưng mình đang viết về Aomame và Tengo, cùng với sự bất ngờ của cái kết 1Q84. Sự đào bới ý thức trong lúc rửa chén đã cho ra kết quả thật hài lòng quá: hình ảnh trọn vẹn của hai người bên nhau ngắm thế giới một mặt trăng chính là hình ảnh tượng trưng cho phong cách của Haruki khi tuổi đã chín muồi, khi trái tim ông đã đậm mùi thời gian. Tất cả độc giả của Haruki sẽ nhận ra rằng hiếm có truyện nào của ông lại kết thúc bằng một cảnh yêu đương trọn vẹn và đủ đầy như thế. Sự thể này dường như có thể phân tích thành hai tiêu điểm, là mình nghĩ thế: cái tôi tìm được mang hình người và sự vững vàng đặt chân trở lại thế giới cùng với cái tôi tìm được đó. Hầu hết các tác phẩm của Haruki đều nói về hành trình đi tìm một điều gì đó đã mất trong tâm hồn nhân vật, để rồi sau khi đã vật lộn trải qua những biến động nào đấy không tưởng tượng nổi, họ sẽ trở về chốn ban đầu với nút thắt được tháo mở đâu đây, và lại hoang mang không biết tương lai mình sẽ trôi về đâu phía trước. Hiếm khi kết thúc với tình yêu, càng hiếm thấy sự vững vàng kiên định. Ở thiên truyện này, Aomame và Tengo đi tìm cái tôi đã mất của mình, chính là nhau. Thứ mất mát trong lòng họ mang hình hài con người, với đầy đủ tay chân, mắt mũi, cơ quan tính dục và một trái tim đang đập rộn ràng. Thứ giữ họ kiên định với cuộc đời và chính mình là tình yêu. Thế nên khi tìm được nhau rồi, họ có thứ để bảo vệ, có chỗ dựa để tiếp tục bước về phía trước. Aomame và Tengo là hai linh hồn vừa khít cho nhau, chỉ thuộc về nhau, hai mặt của một chiếc lá, hai nửa của một vầng trăng. Tìm được nhau rồi, cùng nhau ngắm trăng, nắm chặt tay nhau, cùng bảo vệ thứ nhỏ bé đang lớn lên trong bụng người con gái. Sự ấm áp giản dị mà tròn trịa vô cùng, chưa từng có ở bất cứ tác phẩm nào của Haruki khiến người ta vừa ngỡ ngàng lại vừa ám ảnh. Kể từ lúc đọc thấy hình ảnh như từ camera chụp trộm ấy, chỉ cần thốt lên hai cái tên “Aomame và Tengo” thôi cũng đủ thấy lòng mình ám áp xiết bao rồi. Liệu có ai, ở đâu, lúc nào tìm được một tình yêu trọn vẹn, hoà hợp, thuộc về nhau khắng khít đến thế không?

Haruki viết về tình yêu đã khác trước rồi. Tình yêu trong lòng nhân vật của ông giờ đây vững vàng như đỉnh núi Fuji, như trăng lên nước xuống từ thời thượng cổ đến giờ, mãi không thay đổi. Yêu một người không nhất thiết phải ở cạnh người đó, không nhất thiết phải nắm được tay nhau. Chỉ cần ta có yêu là sẽ được cứu rỗi. Không biết tình yêu này có phải là tình yêu ông dành cho người vợ của mình không? Dù đã biến đổi qua năm tháng, nhuốm thẫm vị thời gian, nó chỉ càng kiên định hơn mỗi ngày. Cái tôi cũng đã hữu hình rồi. Năm 1Q84 có biến động ra sao cũng không xoay vần được số mạng của Aomame và Tengo nữa. Cả thứ nhỏ bé đang lớn lên kia cũng vậy.

4c62fb129f77d04f7e5bbaed12acf137

Haruki luôn đến với mình thật đúng lúc. Năm 17 tuổi cũng thế, bây giờ cũng vậy. Kết thúc những dòng cuối cùng của cuốn sách với dòng nước ấm áp mang tên Aomame và Tengo trong tim, mình đã chảy nước mắt và hỏi tại sao lại ngay đúng lúc này, ngay thời điểm khó khăn này lại mang đến giấc mơ về một tình yêu hoa mộng như thế. Lỡ mình cả đời cũng chẳng tìm được ai như Aomame tìm thấy Tengo thì sao? Thì cuộc đời mình vĩnh viễn sẽ không được cứu rỗi ư?

Dù thế nào cũng cám ơn ông rất nhiều vì đã luôn đến thật đúng lúc. Thay đổi thế giới quan của mình, thay đổi cả tình yêu trong mình nữa.

Dù đã muộn, vẫn chúc ông sinh nhật hạnh phúc và một tuổi mới mạnh khoẻ, an lành. Mong ông tiếp tục sống thật điềm tĩnh và yên ấm để viết ra những con người tuyệt vời như Aomame, như Tengo.

Murakami-sensei, otanjou-bi omedetou gozaimasu!

Hết.

Lavender Trang


Muôn màu của Haruki Murakami





Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng