Trà chiều

Vào Trong Hoang Dã – Dear My Aquarius…

Published

on

“Hơn hai mươi tuổi đời, gia đình giàu có, học vấn cao và một tương lại rộng mở phía trước, vậy mà Christopher McCandless (hay Alexander Supertramp như anh tự gọi mình) đã từ bỏ tất cả để dấn thân vào hành trình đơn độc xuyên qua hết thảy các vùng hoang dã của Bắc Mỹ. Dưới ngòi bút sống động của Jon Krakauer, Vào Trong Hoang Dã (Into the Wild), cuốn sách mô tả những trải nghiệm phi thường đó của Christopher McCandless, đã trở thành một cuốn tự truyện nổi tiếng, một tác phẩm khó quên về thiên nhiên và phiêu lưu, ngợi ca một cuộc sống tận hiến và cảm động.”

*

Vài dòng cho Chris, một Bảo Bình phóng khoáng, yêu tự do, nổi loạn, ghét xã hội giả dối với các nguyên tắc, đi vào miền hoang dã và đã chết trong cô độc ở tuổi 24…

“Ông sai rồi. Đừng nên chỉ tìm hạnh phúc trong các mối quan hệ với con người. Thượng Đế phân phát hạnh phúc ở khắp mọi nơi. Vì vậy, chúng ta phải khám phá nó.”

Lúc Chris nói như thế, tôi đã nghi nghi rồi. Là anh nói vậy nhưng thật sự không phải vậy, hay là đúng hơn, trong lòng anh mong một điều gì đó khác đi. Mặc dù câu nói nghe cũng có vẻ logic. Nó là sự diễn giải cho việc vì sao anh muốn sống với tự nhiên. Bởi vì như anh nói hạnh phúc không chỉ nằm ở các mối quan hệ với con người, nó nằm ở khắp mọi nơi nên anh muốn khám phá hạnh phúc khi sống với thiên nhiên là lẽ đương nhiên. Nhưng vẫn có một chút gì đó, buồn và cô độc trong câu nói ấy làm sao. Tôi thực tâm không tin rằng anh nghĩ như vậy. Tôi nghĩ rồi sẽ có lúc anh nghĩ lại và hối hận.

Cảm giác chán ghét con người, xã hội, mọi thứ, sợ hãi, chạy trốn… Tôi cũng đã có rất nhiều. Cũng đã từng muốn nổi loạn, muốn đi đâu đó thật xa. Nhưng tôi khác anh. Đó là vì tôi sợ con người chứ không phải ghét con người… Dù chỉ trong suy nghĩ, nhưng kiểu chạy trốn của tôi là một kiểu thụ động, nhút nhát. Còn cách anh chạy trốn, thật chủ động, thật dũng mãnh và đầy sự kiêu hãnh làm sao… Dù là kiêu hãnh trong đơn độc.

Anh biết không, tôi đã rất bất ngờ khi biết anh là một Bảo Bình đấy. Tôi đã quá mệt mỏi rồi. Tôi muốn dừng lại. Không muốn làm gì nữa. Nên hôm nay, tôi mới muốn chọn một hành động lười biếng nhất: đó là xem phim. Đã định xem You’re the apple of my eyes rồi, anh biết không. Tôi nghĩ một phim mang hơi hướng giải trí, nhẹ nhàng như thế sẽ hợp cho tôi lúc này. Vì tôi không muốn suy nghĩ gì nhiều cả. Tôi chỉ muốn một bộ phim tình cảm nhẹ nhàng, xoa dịu cảm xúc của tôi. Nhưng không hiểu sao, khi tôi bắt đầu định xem thì lại thấy đĩa phim Into the wild bày ngay trước mắt. Tôi đã biết sơ lược câu chuyện về anh từ lâu, cũng đã biết rằng phim này rất hay, được sự đánh giá cao của các nhà chuyên môn. Nhưng tôi vẫn chưa xem. Lúc đó, không biết có một động lực gì, nó thôi thúc tôi xem kinh khủng. Có lẽ chính là cái chết của anh… Dù chỉ nghe thoáng qua, nó khiến tôi suy nghĩ, tại sao một người lại có thể chán ghét xã hội đến như thế, để rồi chạy trốn ở một nơi xa vắng không một người nào và chết… Tôi biết trước nó sẽ làm tôi suy nghĩ nhiều và mệt mỏi. Nhưng thôi, bỗng dưng ngay phút đó, anh ám ảnh tâm trí tôi nhiều quá rồi, anh ạ. Và thế là, tôi xem luôn.

Nửa phần đầu của phim, dù buồn nhưng anh cười như điên, vẫn giao tiếp tốt, bắt bạn rất tốt với xã hội bên ngoài, rất thân thiện. Rõ ràng, anh không phải là một dạng vì quá nhút nhát, sợ hãi, không thể giao tiếp với ai mà muốn chạy trốn mọi thứ như tôi. Anh làm tôi tưởng anh là cung Nhân Mã. Và thú thật, nửa đầu phim, tôi chỉ nghĩ đơn thuần anh đi như thế, đơn thuần là vì anh muốn đi du lịch, muốn sống với thiên nhiên sau tháng ngày gò bó trong ngôi nhà giàu sang và việc học hành mệt mỏi. Tôi chỉ nghĩ anh đi vì sự yêu thích phiêu lưu, khám phá đơn thuần thôi… Vì lúc đó, tôi đâu biết… đâu biết anh lại mang trong mình một nỗi buồn về gia đình lớn đến như thế.

Để rồi… anh khiến cho tôi dần dần đi vào nỗi buồn của anh. Sự đồng cảm đó đến thật lặng lẽ, từ lúc nào mà tôi không hay. Như những giọt nước sau cơn mưa nhẹ rỏ tí tách nhưng vẫn còn có khả năng thấm ướt một vùng đất khô cứng nào đó. Anh mang trong mình quá nhiều nỗi buồn, cả sự nổi loạn, mâu thuẫn, yêu thơ văn và những suy nghĩ rất sâu sắc. Càng về sau, tôi càng thấy mình sai lầm khi lúc đầu đã đoán anh là Nhân Mã. Rõ ràng, một con người như thế không phải là Nhân Mã. Nhưng tôi vẫn không dám nghĩ anh là Bảo Bình. Lúc đó, tôi đoán có lẽ anh là Song Tử. Một Song Tử cũng yêu tự do, phóng khoáng, nổi loạn và chứa hai mặt mâu thuẫn trong con người. Phim kết thúc, tôi vội lên mạng dò ngày sinh và phát hiện ra… anh là cung Bảo Bình. Trời ơi… lại một Bảo Bình nữa đến với tôi sao… Thật kinh khủng. Tôi chạy đi đâu cũng không thể thoát được Bảo Bình. Tôi không nghĩ đó là sự ám ảnh. Bởi vì tôi yêu Bảo Bình. Tôi vẫn muốn nghĩ đó là một thứ tình yêu nào đó vô hình dẫn dắt tôi, một mối dây liên kết vô tình nào đó, để hôm nay tôi không xem You’re the Apple of My Eyes mà xem Into the Wild và biết thêm về anh – một Bảo Bình.

Và anh biết không, tôi cũng ngỡ ngàng khi xem đoạn anh tự độc thoại với quả táo. Và anh cũng nói với quả táo câu: “You’re the apple of my eyes”. Có lẽ nào tên bộ phim đó là lấy từ câu nói của anh chăng?

Từng chi tiết về anh đều khiến tôi bị cuốn hút. Tôi ước mình cũng có thể như anh. Có thể vứt bỏ hết tất cả và đi như thế, đem theo một mớ sách để đọc.

Rồi anh chết…

Trước khi chết, anh đã định nghĩa lại về hạnh phúc trong nước mắt:

“Happiness is only real when shared”

Vâng, anh ạ.

Tôi nhiều lần muốn chạy trốn con người. Tôi sợ con người. Chán ghét tất cả mọi thứ. Nhưng rồi những lần chạy trốn đó, dù chỉ là trong tâm thức, chỉ đơn thuần là tắt Fb cả tháng, tắt điện thoại, không đi ra ngoài, không gặp gỡ ai… Tôi đã từng tự cách li mình nhiều lần như thế trong khoảng một tháng. Tôi không làm được 2 năm như anh… Nhưng mỗi lần chạy trốn đó, cũng khiến tôi nhận ra điều ấy… Mỗi lần chạy trốn con người vì sợ hãi rồi quay trở lại xã hội loài người, tôi lại thấy yêu mến họ hơn trước cả khi chạy trốn… Anh hiểu mà phải không…

Anh giống một Bảo Bình đúng nghĩa. Lúc nào cũng cười và che giấu những đau khổ của bản thân. Dù nhiều chuyện đã xảy ra với anh, không khi nào anh than thở. Anh khó hiểu. Anh yêu người em gái của mình và anh nói rằng có lẽ chỉ duy nhất em ấy là hiểu những gì anh nói. Tôi không biết ở ngoài đời thực anh như thế nào. Nhưng có lẽ anh cũng ít khóc. Tôi nhìn những tấm hình của anh và một lần nữa lại thấy nụ cười đúng chất Bảo Bình. Gần như hình nào anh cũng cười đến híp cả mắt, toét miệng cả ra trông như rất hạnh phúc. Nhưng thật ra, trong anh vẫn rất cô đơn phải không… Anh chỉ dùng nụ cười đó để che giấu thôi. Và trong phim thì tôi chỉ thấy anh khóc duy nhất đúng một lần. Là khi anh viết câu ấy: “Hạnh phúc chỉ có thực khi được chia sẻ”. Nhưng trong chiếc magic bus màu xanh lá cây có đánh số 142 đó, đâu một ai chia sẻ với anh cơn đói khát, chiếc quần jeans mỗi ngày một rộng vì anh quá ốm, sợi dây nịt mỗi ngày lại thêm nhiều lỗ đục mà anh khắc để giữ cho chiếc quần dính chặt vào đôi chân mình, sự bất lực khi xác con bò mà anh giết không đủ lửa nóng để thịt bò chín… những con giòi bu lúc nhúc trong đó, không thể ăn, đơn giản là không thể ăn…rồi cái quang cảnh ấy, đẹp đẽ nhưng quá đỗi hoang vu lạnh lẽo. Cô độc lắm phải không anh? Khi anh cố gắng đọc những quyển sách bên đống lửa nhỏ ít ỏi trong đêm tối lạnh. Khi không thể băng qua được dòng sông đó và cơn mưa ập tớii, buổi tối ấy, cuối cùng, lần đầu tiên anh đã thừa nhận sự cô độc của mình, anh ghi vào cuốn sổ của mình “Dòng sông không thể băng qua. Trời mưa đêm. Cô đơn”…Lonely, lonely, lonely… Hình như lúc đó, từ ấy mới xuất hiện lần đầu tiên. Dù rằng suốt cả bộ phim là sự cô độc của anh nhưng mãi đến cuối phim, anh mới chịu thừa nhận điều đó một cách cụ thể như thế… Lúc đó, tôi chỉ muốn ở bên cạnh anh để chia sẻ sự cô đơn đó, muốn ôm anh thật chặt, không phải như một người tình, chỉ đơn thuần là tìm hơi ấm để chia sẻ tình người với nhau thôi. Một cái ôm để biết rằng cả hai vẫn đang tồn tại trong cuộc sống mà anh biết đó, giáo dục, luật pháp, chính trị, xã hội, tin tức, giải trí… mỗi ngày như đang dần biến chúng ta thành những người vô hình. Đôi lúc, tôi không cảm nhận được sự tồn tại của mình.

Và lần cuối cùng ấy, khi nhìn ánh mặt trời đó, anh khóc, nhưng anh vẫn cười. Anh cười khi nhìn bầu trời và một giọt nước mắt khẽ rơi từ khóe mắt đó. Nhưng nụ cười vẫn đọng lại mãi trên môi anh, bên khung cửa sổ xe bus đó.

Tôi thích anh. Thích sự điên rồ của anh, thích nụ cười anh trong những bức hình, thích nỗi buồn của anh, thích sự cô độc và mãnh mẽ, lí trí của anh, thích từng thứ mà anh suy nghĩ…

Nhưng anh à…

Tôi biết tôi chỉ đang tự dối lòng mình. Tôi chỉ yêu mỗi Bảo Bình đáng yêu của tôi thôi. Tình yêu đó, đã khiến tôi đau đớn và… hạnh phúc. Tôi chỉ đang chạy trốn trong một danh từ chung, một thế giới rộng lớn hơn mang tên là: Bảo Bình. Nhiều lúc, tôi khóc vì nhớ… tôi tự nhủ thầm trong đầu là không phải vì tôi còn yêu người ấy nhiều, chỉ đơn thuần là tôi đang yêu chung chung cung Bảo Bình. Nhưng ngay trong ngày hôm nay, khi được quen biết anh, dù thích anh nhiều như thế, tôi vẫn nhận ra một điều rõ ràng rằng tôi yêu người ấy vì người ấy là người ấy. Không phải vì người ấy là Bảo Bình. Và tôi vẫn còn yêu người ấy nhiều lắm.

Dù vậy, Bảo Bình đã dạy cho tôi nhiều thứ, rất nhiều… Tất cả những Bảo Bình đã đến trong cuộc đời tôi đều cho tôi những bài học quí báu… và đến giờ, tôi vẫn không thể quên được họ, không bao giờ tôi có thể quên họ.

Cũng có lẽ, tôi đã yêu Bảo Bình thật. Một Bảo Bình trừu tượng, tổng hợp lại từ rất nhiều Bảo Bình. Một Bảo Bình trong định nghĩa.

Dù thế nào thì tôi vẫn thích anh, rất rất thích anh. Cảm ơn anh vì ngày hôm nay. Lâu lắm rồi mới có người cho tôi nhiều cảm xúc, có một bộ phim khiến tôi xúc động như vậy. Từ nhỏ tôi vẫn luôn nghĩ, tình yêu là không khoảng cách cả về thời gian lẫn không gian. Vì vậy, tôi đã luôn tỉnh bơ như không mà trò chuyện với những người tôi biết họ sẽ chẳng bao giờ biết đến sự tồn tại của mình. Từ nhỏ, tôi đã luôn yêu những người chết trước mình lâu lắm rồi…

Và tôi sẽ cố gắng sống tốt hơn, mạnh mẽ hơn. Cái mạnh mẽ như anh nói: “It’s not necessary to be strong. But, to feel strong”

“Can you see the sky that I’m seeing?”
Love my lovely Aquarian
Love Aquarius”

Hết.

Một Cự Giải

Ảnh đầu bài: Zing

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Sài Gòn – Hồi sinh từ ký ức, vươn mình đến tương lai

Từ ngày 1/7/2025, cái tên “Sài Gòn” chính thức trở lại trên bản đồ hành chính Việt Nam. Đây không phải là tên thành phố, mà là tên của một phường trung tâm thuộc TPHCM. Một sự thay đổi tưởng chừng kỹ thuật, hành chính, nhưng lại gợi lên những suy tư lớn hơn: về ký ức đô thị, về cách chúng ta gọi tên một vùng đất và về hướng đi của tương lai giữa dòng chảy đổi mới.

Published

on

Từ nay, người dân sẽ phải làm quen với những tên gọi mới, địa giới mới và cả cách quản lý mới. Nhưng giữa tất cả những đổi thay ấy, cái tên “Sài Gòn” không trở lại như một nỗi hoài niệm, mà như một sợi chỉ đỏ âm thầm nối liền ký ức và hiện tại: bền bỉ, lặng lẽ nhưng chưa từng đứt đoạn. Một cái tên chưa bao giờ mất đi trong tâm thức người dân, nay được trả về đúng vị trí của nó: chính danh và được ghi nhận.

Tên cũ hồi sinh, đô thị vươn mình

Không chỉ hiện diện trong ký ức của hàng triệu người dân, Sài Gòn còn là mạch nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều thế hệ người viết, người sáng tác. Trong đó, có thể kể đến tác giả Phạm Công Luận - một cây bút gắn bó lâu năm với Phương Nam Book và được xem là người dành trọn tâm huyết để viết về Sài Gòn. Gần như mỗi năm, ông lại cho ra đời một tác phẩm mới, nhưng điều đặc biệt là dù đã viết rất nhiều năm, rất nhiều sách, ông vẫn luôn tìm ra được những góc nhìn mới, tinh tế và giàu cảm xúc về vùng đất này.

Từ Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, Hồi ức Phú Nhuận,đến Có một thời ở Chợ LớnMade in Sài Gòn - hai tác phẩm vừa được phát hành đầu năm nay, những trang viết của ông như một hành trình gom nhặt lại những ký ức xưa cũ về Sài Gòn. Chính những tác phẩm ấy là bằng chứng cho thấy: Sài Gòn không chỉ tồn tại trên bản đồ, mà sống động trong văn hóa, tâm tưởng và cả trong từng chi tiết đời sống hàng ngày của người dân.

Bởi vậy, khi cái tên “Sài Gòn” trở lại trong một vị trí hành chính cụ thể, đó không đơn thuần là sự phục dựng danh xưng, mà là sự thừa nhận giá trị văn hóa, tinh thần mà vùng đất này đã và đang mang trong mình. Nhưng câu chuyện không chỉ dừng ở ký ức hay bản sắc. Việc sáp nhập, thay đổi đơn vị hành chính lần này còn là một phần trong chiến lược cải tổ toàn diện, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, tinh gọn bộ máy và hướng đến một đô thị hiện đại.

Bởi vậy, mô hình hành chính mới không đơn thuần là tinh gọn bộ máy, mà còn là cơ hội để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, hiện đại hóa quản lý, nâng cao chất lượng dịch vụ công và cuộc sống người dân. Đây là một phần trong chiến lược phát triển bền vững, toàn diện và hội nhập sâu rộng mà Việt Nam đang theo đuổi. Và để chiến lược đó đi vào thực tế, không thể thiếu sự góp sức của mỗi cá nhân - những người đang sống, làm việc, học tập và trực tiếp cảm nhận từng thay đổi nhỏ nhất trong đời sống hàng ngày.

Đổi mới không chỉ đến từ chính sách, mà bắt đầu từ chính chúng ta - những người kiến tạo nên diện mạo mới cho đô thị mỗi ngày.

Thế hệ trẻ giữ vai trò tiên phong trong hành trình đổi mới

Đổi mới không phải là khẩu hiệu treo tường, mà là từng hành động cụ thể mỗi ngày: một sinh viên chọn học thêm kỹ năng mềm; một kỹ sư chủ động cập nhật công nghệ mới; một giáo viên thay đổi cách giảng dạy để học sinh dễ tiếp cận tri thức hơn. Con đường học vấn không chỉ là hành trang cá nhân, mà còn là cách mỗi người góp phần xây dựng quốc gia trong thời đại tri thức. Như lời Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói: “Mỗi ngày làm việc là một ngày kiến tạo”. Và với người trẻ hôm nay, sự kiến tạo ấy chính là học tập, là tư duy phản biện, là sự dấn thân vào hành trình đổi mới - không chỉ để thay đổi bản thân, mà còn để thay đổi xã hội.

Những thay đổi ấy đang diễn ra ở khắp nơi: từ miền núi, hải đảo xa xôi đến các đô thị trung tâm hay những vùng sáp nhập mới. Và câu chuyện của Sài Gòn hôm nay - một địa danh cũ trở lại trong hình hài hành chính mới chỉ là một lát cắt trong bức tranh cải tổ rộng lớn mà cả nước đang cùng nhau vẽ nên.

Tên gọi có thể đổi. Địa giới có thể gộp. Nhưng khát vọng vươn lên, ý chí tự cường và tinh thần làm chủ vận mệnh thì vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Sài Gòn hôm nay đang bước vào một hành trình mới: hành trình của hiện đại, của tinh gọn, của đổi mới. Nhưng trên hết, đó là hành trình mà trong đó, người dân không chỉ là đối tượng của thay đổi, mà là chủ thể kiến tạo.

Một cái tên trở lại. Và cả một thời đại mới - bắt đầu.

Thùy Dương

Đọc bài viết

Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Cafe sáng