Book trailer

V. – Khi người đọc lạc trong Hoang tưởng và Hoài nghi

“Một cuốn sách rực rỡ và hỗn loạn”, “tiểu thuyết độc đáo số một xuất bản năm 1963”, “không một độc giả nào hay một tiểu thuyết nào của Mỹ lại không bị biến đổi hay bị thách thức bởi tác phẩm đáng kinh ngạc này”… đó chỉ là một vài trong số rất nhiều lời thán phục dành cho V. – tác phẩm đầu tay của nhà văn Mỹ Thomas Pynchon.

Published

on

Ra đời khi nhà văn mới là chàng thanh niên 26 tuổi, V. – cuốn sách đồ sộ kiến thức và đa tầng biểu tượng của Pynchon cho đến lúc này vẫn được hàng triệu học giả và người đọc khắp thế giới nghiên cứu và giải nghĩa.

V. là tác phẩm giành giải thưởng William Faulkner Foundation Award cho tiểu thuyết ra mắt xuất sắc nhất và được đề cử cho Giải thưởng sách Mỹ National Book Award năm 1964. V. kể về Benny Profane, một thanh niên hậu đậu, nay đây mai đó, vừa xuất ngũ Hải quân Mỹ đang trong quá trình tái hòa nhập đời sống New York cùng một hội nghệ sĩ lông bông mất gốc; và Herbert Stencil, một nhà phiêu lưu hoang tưởng truy tìm nhân vật bí ẩn tên “V.” được nhắc tới trong nhật ký của người cha. Hai cốt truyện xoay quanh hai tình trạng đối lập tột cùng: tình trạng hỗn loạn ngẫu nhiên của hiện tại (Profane) và tình trạng trật tự hoang tưởng cưỡng ép của quá khứ (Stencil). Hai nhân vật lẫn chức năng của họ, tuy vậy, đều được Thomas Pynchon khắc hoạ một cách mỉa mai, tự trào, đầy tính châm biếm. Hai trạng thái đối lập này dần tịnh tiến về phía nhau và giao thoa tại cuối truyện, khi Stencil và Profane hội ngộ, rồi khởi sự hành trình cuối cùng tìm kiếm V.

Thomas Ruggles Pynchon Jr. là một trong những tiểu thuyết gia quan trọng nhất của Mỹ kể từ Chiến tranh thế giới thứ II. Tuy là một sinh viên ngành kỹ thuật xuất sắc tại trường đại học, năm thứ hai ông đã nghỉ học để gia nhập Hải quân Mỹ trong hai năm, một khoảng thời gian đã để lại dấu ấn sâu đậm cho các câu chuyện của ông sau này.

Năm 1957, ông quay lại học tại Đại học Cornell, có lẽ đây chính là thời điểm ông được tiếp nhận ảnh hưởng của Vladimir Nabokov. Có một điều chắc chắn là, những tưởng tượng có tính cách tân của ông, sử dụng các chủ đề về việc diễn giải những mấu chốt, những trò chơi, và mật mã có thể xuất phát từ Nabokov, còn giọng văn linh hoạt của Pynchon có thể được phát triển từ chứng hoang tưởng trong thi ca. 

Về đời tư, Thomas Pynchon là một người sống ẩn dật, tránh mọi tiếp xúc với công chúng lẫn giới truyền thông. Suốt bốn thập kỷ ông tránh né gần như mọi cuộc phỏng vấn, ảnh chụp ông chưa từng được phép in trên bìa sách, và chữ ký của ông có thể đáng giá tới hàng chục nghìn đô. Rất nhiều giả thuyết đã nổi lên về hành tung hay thậm chí nhân thân của ông. Có người nghĩ ông chính là nhà văn J. D. Salinger, có người đoán thực chất có một bút nhóm sáng tác dưới tên Thomas Pynchon, thậm chí có người còn cho ông chính là… tay sát nhân hàng loạt Unabomber (!).

Mọi thông tin cá nhân về ông dường như đã chấm dứt quanh năm 1963, tức là đúng khoảng thời gian ông sáng tác V. – tiểu thuyết đầu tay.

Điểm đặc trưng về kết cấu trong các tiểu thuyết của Thomas Pynchon là vô cùng nhập nhằng chồng chéo. Thông thường Pynchon để cốt truyện của mình tự trương nở thành hình xuyên suốt tiểu thuyết thay vì vạch ra một cốt truyện mạch lạc ngay từ đầu. Đường đi diễn tiến của câu chuyện dường như có sự sống riêng, chúng ẩn hay hiện, chúng tẽ nhánh hay tụ hội, chúng bị triệt tiêu hay được tô đậm lên hoàn toàn một cách tình cờ và ngẫu nhiên, buộc người đọc từ bỏ thói quen thông thường khi đọc sách là “cố gắng liên kết dữ kiện để hiểu, thay vào đó hãy thả lỏng cơ quan thần kinh, ngồi vào ghế sau và tận hưởng chuyến tàu lượn siêu tốc mà tác giả cầm lái” (lời khuyên từ Cẩm nang đọc sách của Thomas Pynchon).

Về mặt nội dung, các tiểu thuyết của Thomas Pynchon là hỗn độn những chỉ dấu kì bí, những hình ảnh biểu tượng, những văn bản đa nghĩa khó lý giải. Nhân vật chính trong tiểu thuyết của ông thường mắc chứng “hoang tưởng xã hội” – tức ý thức về “một mạng lưới âm mưu siêu phàm, mờ ám và rộng lớn, tiếp tay cho hành động của một nhân vật quái ác xấu xa nhất.” (định nghĩa của học giả Richard Hofstadter trong The Paranoid Style in American Politics). Có thể thấy thời kỳ đầu sáng tác, Thomas Pynchon tận dụng cốt truyện hoang tưởng này khá thường xuyên. Trong Gravity Rainbow (1973), nhân vật Tyrone Slothrop tin rằng tên lửa V-2 và toán điệp viên có ý định trực tiếp tấn công mình. Với The Crying of Lot 49 (1966), nhân vật Oedipa Mass bắt đầu nhìn thấy chỉ dấu của tổ chức bí mật Tristero khắp mọi nơi. Tương tự với V., Herbert Stencil cũng liên tưởng, xâu chuỗi bất kì bằng chứng nào dù ngẫu nhiên nhất về V. mà ông ta có thể tìm thấy để trả lời câu hỏi V. là ai… Đó là cách Thomas Pynchon xây dựng thế giới riêng trong các tiểu thuyết của ông và cũng là cách ông thâu nhận thế giới thực tế bên ngoài: một thế giới nhìn từ góc độ này thì ngập tràn ẩn ý và chỉ dấu đến những âm mưu mờ ám, nhưng từ góc độ khác cũng là một thế giới vô tri chẳng mang ý nghĩa to lớn nào; tại đó, con người ưa tìm kiếm một thứ logic hoang tưởng hơn là chấp nhận một trạng thái trống rỗng.

V. là ai? V. mang ý nghĩa gì? Đó là những câu hỏi sẽ không có hai độc giả nào trả lời giống nhau. Theo hành trình hoang tưởng của Herbert Stencil, đó có thể là người đẹp Victoria Wren sống ở Ai Cập thế kỷ 19; đó có thể là người phụ nữ đồng tính ấu dâm xuất hiện ở Paris năm 1919; đó có thể là Vera Meroving với con mắt hình đồng hồ xuất hiện ở Nam Phi năm 1922… Mỗi lần xuất hiện cô ta lại được gắn thêm một bộ phận giả, mỗi lần xuất hiện cô ta lại trở nên lạnh lùng hơn, nhiệt tình chính trị hơn, thiếu nữ tính hơn, trừu tượng hơn, vô danh hơn, nói tóm lại, trở thành V. Nhìn theo cơn hoang tưởng hủy diệt của thời đại khát khao bạo lực, V. có lẽ chính là biểu tượng cho sự suy đồi từ hữu tri xuống vô tri của con người: giống loài ngày càng hành động/bị đối xử như một thứ hình nhân vô hồn. Trong hóa thân cuối cùng, V. mang tên Linh Mục Xấu Xa là một người phụ nữ với tất cả các bộ phận trên cơ thể được thay thế bằng đồ vật. Hình ảnh một hình nhân giống hệt con người bị mắc kẹt tại khu vực bị trúng bom gợi ta nhớ đến những hình nộm mà Mỹ cho sản xuất để đánh giá mức độ công phá của bom nguyên tử vào thời kỳ Chiến Tranh Lạnh. Thông điệp này từng xuất hiện ở chương trước khi Thomas Pynchon cũng giới chiệu cho ta hai nhật vật người máy SHOCK và SHROUD trong phòng thí nghiệm mà Benny Profane làm việc, các hình nộm được chế tạo “giống hệt như con người” để sử dụng trong các bài kiểm tra chống chịu va đập và đo mức độ phóng xạ nguyên tử. Trong một cuộc trò chuyện hoang tưởng giữa Profane và SHROUD, tên người máy nói rằng: “Tôi và SHOCK chính là cậu và mọi người một ngày nào đó.” Con người có thể là gì trong đời này ngoài việc liên tiếp đóng vai những đối tượng thí nghiệm vô hồn cho bạo lực?

V. là một tác phẩm oai vệ, xuyên vượt những hang cùng ngõ hẻm bất khả thấu đối với người thường. Không có nhiều tác phẩm có khả năng ám ảnh tâm trí tỉnh thức hay mê mộng, nhưng đây là một tác phẩm như vậy (Báo Time).

Hết.

Tao Đàn

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Book trailer

Phù thủy tranh giả mạo – Cơn cuồng Vermeer, Đức Quốc Xã và vụ lừa đảo nghệ thuật lớn nhất thế kỷ XX

Trong thế giới nghệ thuật đầy mê hoặc, dường như mỗi tác phẩm lại có một đời sống riêng biệt. Và Phù thủy tranh giả mạo – tác phẩm của Edward Dolnick vừa được Phương Nam Book liên kết xuất bản – đã mở ra một chương kỳ lạ về vụ bê bối nghệ thuật lớn nhất thế kỷ XX, làm rúng động cả giới chuyên môn lẫn người mộ điệu.

Published

on

Edward Dolnick, với ngòi bút sắc sảo của một nhà báo kỳ cựu, đã đưa độc giả vào hành trình khám phá cuộc đời và sự nghiệp của Han van Meegeren – một họa sĩ người Hà Lan cả gan thách thức cả thế giới nghệ thuật. Không chỉ đơn thuần ghi lại sự kiện, Phù thủy tranh giả mạo còn là một công trình khảo cứu sâu sắc về tâm lý con người, bản chất của nghệ thuật, và sự mong manh của danh tiếng cũng như niềm tin.

Han van Meegeren – Từ họa sĩ bị lãng quên đến “phù thủy” khét tiếng

Những năm 1930 – 1940, Châu Âu chìm trong bóng đen của chiến tranh và bất ổn chính trị. Giữa bối cảnh hỗn loạn đó, một cuộc chiến khác, thầm lặng hơn nhưng không kém phần kịch tính, đang diễn ra trong lòng giới nghệ thuật. Nhân vật trung tâm của cuộc chiến này là Han van Meegeren, một họa sĩ người Hà Lan có tài năng nhưng không được giới phê bình đương thời công nhận. Cảm thấy bị xem thường, Meegeren nuôi trong lòng một sự ấm ức, một khao khát trả thù giới chuyên môn đã quay lưng lại với ông. Suy nghĩ “nếu không nhận được sự tán thưởng của giới phê bình, thì việc biến họ thành lũ ngốc cũng khiến ta hả dạ” đã trở thành kim chỉ nam cho một kế hoạch táo bạo: giả mạo các tác phẩm của những bậc thầy hội họa, đặc biệt là Johannes Vermeer, một trong những danh họa bí ẩn và được tôn kính nhất của lịch sử nghệ thuật phương Tây.

Danh họa Vermeer là tác giả của nhiều bức họa nổi tiếng, trong đó có bức "The Girl with a Pearl Earring" (Cô gái đeo hoa tai ngọc trai) – một trong những kiệt tác nổi tiếng nhất trong lịch sử hội họa phương Tây, thường được mệnh danh là "Mona Lisa của phương Bắc".

Quyết định chọn Vermeer không phải là ngẫu nhiên. Vermeer, với số lượng tác phẩm còn sót lại ít ỏi và cuộc đời nhiều bí ẩn, trở thành một mảnh đất màu mỡ cho những kẻ muốn khai thác. Sự khan hiếm các tác phẩm đã được xác thực của ông, cùng với kỹ thuật vẽ bậc thầy và phong cách độc đáo, khiến bất kỳ phát hiện mới nào về Vermeer cũng đều gây chấn động. Meegeren đã nghiên cứu tỉ mỉ kỹ thuật, chất liệu, phong cách của Vermeer, không chỉ để sao chép mà còn để sáng tạo ra những tác phẩm mới mang đậm dấu ấn của bậc thầy thế kỷ 17. Ông không chỉ muốn chứng minh rằng mình có thể qua mặt các chuyên gia, mà còn muốn tạo ra những tác phẩm mà chính họ phải trầm trồ thán phục, phải công nhận là kiệt tác trước khi sự thật phũ phàng được phơi bày. Cuốn sách của Dolnick đã lột tả một cách tài tình quá trình chuyển biến tâm lý phức tạp này, từ một nghệ sĩ bị tổn thương đến một kẻ giả mạo với tham vọng và sự tự tôn cao độ.

Hành trình của Meegeren không chỉ dừng lại ở việc tạo ra các bức tranh giả. Ông còn phải đối mặt với thách thức làm cho chúng trông có vẻ cổ xưa, vượt qua sự kiểm định khắt khe của các chuyên gia hàng đầu. Dolnick mô tả chi tiết những nỗ lực phi thường của Meegeren trong việc tìm kiếm nguyên liệu cũ, tự chế tạo bột màu theo công thức cổ, và thậm chí phát triển các kỹ thuật để tạo ra những vết rạn nứt đặc trưng trên bề mặt tranh sơn dầu cũ. Ông sử dụng nhựa Bakelite để làm cứng lớp sơn, sau đó nung nóng để tạo hiệu ứng lão hóa, một phương pháp mà các chuyên gia thời đó chưa từng biết đến. Sự đầu tư công phu này cho thấy quyết tâm và trí tuệ của Meegeren, biến ông từ một kẻ lừa đảo đơn thuần thành một “phù thủy” thực sự trong lĩnh vực của mình để có thể hô biến những tấm toan mới thành những di sản hàng thế kỷ.

Cơn cuồng Vermeer và màn lừa dối cả giới chuyên môn đầy ngoạn mục

Thành công của Han van Meegeren trong việc giả mạo tranh Vermeer không chỉ nằm ở kỹ thuật tinh xảo mà còn ở khả năng nắm bắt tâm lý của giới chuyên môn và thị trường nghệ thuật. Những bức tranh Vermeer do ông tạo ra, đặc biệt là tác phẩm Bữa tối tại Emmaus, đã được các nhà phê bình, giám tuyển bảo tàng và nhà sưu tập danh tiếng nhất thời bấy giờ ca ngợi hết lời. Họ bị mê hoặc bởi sự tái khám phá một giai đoạn tôn giáo chưa từng được biết đến trong sự nghiệp của Vermeer. Edward Dolnick đã tài tình phác họa bức tranh toàn cảnh về cơn cuồng Vermeer mà Meegeren đã khơi mào – chính lòng khao khát sở hữu một kiệt tác, sự tự phụ của giới chuyên môn và áp lực phải tìm ra những điều mới mẻ đã vô tình tiếp tay cho kẻ giả mạo. Cuốn sách cho thấy, đôi khi, chính niềm tin và kỳ vọng của con người lại là điểm yếu lớn nhất để bị lợi dụng.

Một trong những con mồi nổi tiếng nhất của Meegeren chính là Hermann Goering – một trong những nhân vật quyền lực nhất của Đức Quốc Xã và cũng là một nhà sưu tập nghệ thuật tham lam. Goering đã đổi 137 bức tranh khác để sở hữu bức Chúa với người đàn bà ngoại tình, một tác phẩm “Vermeer” do Meegeren vẽ. Chi tiết này không chỉ cho thấy quy mô của vụ lừa đảo mà còn hé lộ một khía cạnh trớ trêu của lịch sử: một trong những kẻ tàn bạo nhất thế kỷ lại bị lừa bởi một họa sĩ mà hắn ta có lẽ chẳng bao giờ để mắt tới. Dolnick không chỉ kể lại câu chuyện này một cách hấp dẫn mà còn phân tích sâu hơn về động cơ của Goering và bối cảnh cướp bóc nghệ thuật trong Thế chiến II, làm tăng thêm kịch tính và chiều sâu cho tác phẩm. Phù thủy tranh giả mạo qua đó cũng đặt ra câu hỏi về giá trị thực sự của nghệ thuật khi nó bị cuốn vào vòng xoáy của quyền lực và lòng tham.

Sự thành công của Meegeren trong việc đánh lừa giới chuyên môn kéo dài nhiều năm, mang lại cho ông ta khối tài sản khổng lồ. Ông sống xa hoa, tận hưởng thành quả từ những “kiệt tác” của mình. Dolnick mô tả cuộc sống hai mặt của Meegeren: một mặt là người nghệ sĩ ẩn dật, miệt mài phục chế những tác phẩm cổ, mặt khác là một tay chơi hưởng thụ cuộc sống giàu sang. Điều đáng kinh ngạc là không một ai nghi ngờ, hoặc nếu có, những nghi ngờ đó cũng nhanh chóng bị dập tắt bởi uy tín của những chuyên gia đã xác thực các tác phẩm. Cuốn sách của Dolnick như một lời cảnh tỉnh về sự mong manh của hệ thống thẩm định nghệ thuật, khi mà danh tiếng và sự đồng thuận của số đông đôi lúc có thể che mờ đi sự thật. Ông đã làm nổi bật sự căng thẳng giữa kiến thức chuyên môn và khả năng bị đánh lừa, cho thấy ngay cả những bộ óc sắc sảo nhất cũng có thể mắc sai lầm.

Phiên tòa định mệnh, sự thật chấn động và những câu hỏi muôn thuở

Sau Thế chiến II, số phận của Han van Meegeren rẽ sang một hướng bất ngờ. Ông bị bắt giữ và đối mặt với cáo buộc phản quốc vì đã bán một “di sản quốc gia” – bức Chúa với người đàn bà ngoại tình của Vermeer – cho Hermann Goering, một kẻ thù của Hà Lan. Trước nguy cơ phải đối mặt với án tù nặng nề, thậm chí là tử hình, Meegeren đã đưa ra một lời thú nhận gây sốc: ông không bán kiệt tác của Vermeer cho Goering, mà thực chất, ông đã lừa Goering bằng một bức tranh giả do chính tay mình vẽ. Lời thú tội này ban đầu bị hoài nghi, bởi không ai có thể tin rằng những tác phẩm được ca tụng bấy lâu nay lại là đồ giả, và càng khó tin hơn khi một họa sĩ bị xem nhẹ tài năng lại có thể thực hiện một cú lừa ngoạn mục đến vậy. Edward Dolnick đã tái hiện lại không khí căng thẳng của phiên tòa một cách sống động, biến phòng xử án thành một sân khấu kịch tính.

Han Van Meegeren hầu tòa sau Thế chiến II, vào năm 1947 tại Hà Lan.

Để chứng minh lời nói của mình, Meegeren – dưới sự giám sát của tòa án – đã vẽ một bức “Vermeer” mới ngay tại phòng xử, mang phong cách và kỹ thuật y hệt những tác phẩm “Vermeer” đã từng gây chấn động trước đó. Màn trình diễn này đã thuyết phục được tất cả. Từ vị thế của một kẻ phản quốc, Han van Meegeren bỗng chốc trở thành một người hùng dân tộc trong mắt nhiều người dân Hà Lan. Họ hả hê khi biết rằng một người Hà Lan đã lừa được tên trùm phát xít khét tiếng. Sự thay đổi trong nhận thức của công chúng là một trong những khía cạnh thú vị nhất mà Dolnick khai thác, cho thấy ranh giới mong manh giữa tội ác và sự khôn ngoan, giữa sự lên án và lòng ngưỡng mộ, đặc biệt trong bối cảnh hậu chiến đầy biến động.

Phù thủy tranh giả mạo không chỉ dừng lại ở việc kể về một vụ lừa đảo nghệ thuật ly kỳ. Như tờ Washington Post nhận xét, cuốn sách này “đã đặt ra những câu hỏi kích thích tư duy về bản chất của nghệ thuật cũng như tâm lý dối lừa.” Điều gì làm nên giá trị của một tác phẩm nghệ thuật? Liệu một bức tranh giả, nếu đẹp và lay động được cảm xúc người xem, có đáng bị coi thường? Tại sao con người lại dễ dàng bị đánh lừa bởi những câu chuyện hấp dẫn và những vẻ ngoài hào nhoáng? Edward Dolnick, qua câu chuyện của Han van Meegeren, đã khéo léo dẫn dắt độc giả đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi phức tạp này.

Trích đoạn

“Khi bạn chắc chắn rằng mình không thể bị lừa thì bạn càng dễ bị lừa.”

***

“Nếu những người yêu hội họa nhầm lẫn một bức tranh như vậy với tranh thật thì ai có thể trách họ được? Bất cứ người nào cũng có thể bị lừa, giống như bất kỳ ai cũng có thể nhầm lẫn giữa một cặp song sinh. Nhưng tranh giả của Van Meegeren lại cố tình thể hiện sự khác biệt với tất cả những bức Vermeer đã được biết đến, vậy mà chúng vẫn được ngưỡng mộ ngất ngây. Khi hết chuyên gia này đến chuyên gia khác, và sau đó là hết người tham quan này đến người tham quan khác, mê mẩn nhìn thằng gù méo mó và dị dạng ở nhà thờ Đức Bà mà cứ tưởng mình đang ngắm vị thần Hy Lạp Adonis tuấn tú khôi ngô, thì chính điều đó là một bí ấn mà chúng ta cần phải khám phá.”

***

“Giả mạo là một tội ác kỳ lạ. Mua một chiếc đồng hồ Rolex giả ngoài phố với giá mười đô-la rồi một tuần sau nó ngừng chạy và mấy chiếc kim rơi rụng. Mua một bức tranh Picasso giả thì bức tranh giả vẫn sẽ làm đúng chức năng của nó – làm thích mắt người xem – giống y như tranh thật mà thôi. Ít nhất bức tranh giả sẽ hoàn thành nhiệm vụ đó cho đến khi người chủ biết được sự ngu ngốc của mình. Thế là niềm vui sướng của ngày hôm qua trở thành nỗi nhục nhã của ngày hôm nav, và kiệt tác từng ngự trị trên lò sưởi cuối cùng lại bị đẩy xuống phòng tắm dành cho khách.”

Nhận xét của báo chí

“Dolnick đã tái hiện xuất sắc một trong những vụ lừa đảo nghệ thuật táo bạo nhất thế kỷ 20... Một cuốn sách hấp dẫn không thể bỏ qua.”

Boston Globe

“Edward Dolnick đã khơi trúng một mỏ vàng khi bàn đến sự táo bạo của quy trình giả mạo các tác phẩm nghệ thuật...”

The New York Times

“Một câu chuyện lịch sử cuốn hút… Phù thủy tranh giả mạo đã đặt ra những câu hỏi kích thích tư duy về bản chất của nghệ thuật cũng như tâm lý dối lừa.”

Washington Post

Về tác giả

Edward Dolnick là nhà văn người Mỹ kiêm cây viết chủ chốt của tờ Boston Globe, nổi tiếng với các tác phẩm phi hư cấu (non-fiction) mang tính lịch sử, khoa học và điều tra, thường viết về nghệ thuật, khoa học, tội phạm và những câu chuyện có thật hấp dẫn. Ông có khả năng kể chuyện rất lôi cuốn, kết hợp giữa nghiên cứu sâu và văn phong truyện kể sống động. Hiện ông đang sinh sống tại Washington, D.C. cùng gia đình.

Các tác phẩm tiêu biểu: Madness on the Couch (1998), Down the Great Unknown (2001), The Rescue Artist (2005), The Forger’s Spell (2008), The Rush (2014), The Seeds of Life (2017), The Writing of the Gods (2021).

Kodaki

Đọc bài viết

Giới thiệu sách

Giữa mùi nồng rượu nếp, một mâm cỗ chay thanh tịnh – Tết Đoan Ngọ trong góc nhìn hiện đại

Published

on

Mỗi độ đầu hè, khi mận đỏ rộ chợ và rượu nếp thoảng mùi men, chiếc bánh tro giản dị lại xuất hiện trong căn bếp gia đình. Tết Đoan Ngọ trở về - không ồn ào, không phô trương - như một thói quen đẹp lặng thầm gắn bó với người Việt từ bao đời.

Trong guồng quay hiện đại, khi lối sống xanh và những giá trị nuôi dưỡng đời sống tinh thần dần trở thành lựa chọn phổ biến, nhiều người bắt đầu tự hỏi: liệu mâm cỗ ngày 5 tháng 5 âm lịch có thể “chuyển mình” theo cách nhẹ nhàng hơn - từ rượu nếp nồng đượm sang một mâm chay thanh đạm - mà vẫn giữ trọn tinh thần văn hóa của ngày Tết truyền thống?

Các cuốn sách ẩm thực Việt như Thanh Tịnh Mâm Cỗ Việt - 30 Món Chay Lành Xưa Và Nay (Hồ Đắc Thiếu Anh, Nguyễn Hồ Tiếu Anh) hay Ăn Xanh Sống Lành - 33 Món Chay Thực Dưỡng Thuần Việt (Trần Lê Thanh Thiện), Thơm Thảo Xôi Chè - 30 Thức Quà Ngọt Ngào Hương Đồng Gió Nội (Trần Thị Hiền Minh) và thêm nhiều cuốn sách cùng chủ đề khác ra đời như một lời gợi ý: truyền thống có thể được gìn giữ, nhưng dưới một hơi thở mới - chậm rãi hơn, lành mạnh hơn, và chan chứa hơn tình thương với cơ thể, con người và tự nhiên.

Từ rượu nếp đến bánh tro - Khi ẩm thực là phương thuốc dân gian

Truyền thống Tết Đoan Ngọ thực chất bắt nguồn từ tư duy nông nghiệp và y học dân gian: thời điểm giao mùa, sâu bọ sinh sôi trong cơ thể con người cũng như ngoài đồng ruộng. Do đó, người Việt từ xưa tin rằng ăn rượu nếp lên men, trái cây đầu mùa chua, chát và bánh tro,... chính là cách “giết sâu bọ”, thanh lọc cơ thể.

Ở góc nhìn hiện đại, chúng ta nhận ra đây chính là một “liệu pháp thanh lọc tự nhiên”, thông qua các thực phẩm lên men, dễ tiêu và giàu enzyme. Câu chuyện của rượu nếp hay bánh tro cũng nhờ thế mà không còn đơn giản chỉ là một món ăn, mà còn là biểu tượng của mối quan hệ hài hòa giữa con người - tự nhiên - thân thể.

Mâm cỗ mới - Thanh tịnh từ tâm, lành mạnh từ món

Khi ngày càng nhiều người Việt lựa chọn lối sống thuần chay, đề cao sức khỏe và sự tỉnh thức trong ăn uống, mâm cơm ngày Đoan Ngọ cũng đang dần được “chuyển mình”. Không chỉ là chuyện thay thịt cá bằng rau củ, một mâm cỗ chay dịp này còn gói ghém tinh thần biết ơn, gắn bó với mẹ thiên nhiên, và quan tâm đến sức khỏe thể chất lẫn tinh thần.

Lật giở từng trang sách của Ăn Xanh Sống Lành - 33 Món Chay Thực Dưỡng Thuần Việt, người đọc như được tham gia vào một cuộc chu du xuyên Việt khám phá ẩm thực kéo dài từ Bắc chí Nam. Dẫn dắt người đọc qua hành trình ẩm thực từ tàu hủ ky sốt mận Hà Giang đậm đà, cao lầu chay Hội An thanh nhẹ, đến chè thốt nốt An Giang ngọt ngào làm say lòng người, tác giả Trần Lê Thanh Thiện không chỉ giới thiệu hơn 30 món chay bổ dưỡng, mà còn gửi gắm cả sự tinh tế và tình cảm qua từng công thức, từng nguyên liệu mang đậm dấu ấn vùng miền. Cuốn sách là một bản giao hòa giữa tri thức ẩm thực phương Đông và tinh thần bản địa Việt. Tác giả khởi nguồn đi từ lòng biết ơn thiên nhiên với những sản vật quen thuộc như tiêu xanh Phú Quốc, khoai mỡ Long An, cơm dừa non Bến Tre, muối Bạc Liêu, tỏi đen Lý Sơn,... để tạo nên những món ăn dung dị mà đầy tính chữa lành.

Trong khi đó, Ahimsa – Ăn Chay Cho Tâm Thân An Lạc mang lại một cái nhìn nhẹ nhàng về ẩm thực chay như một lựa chọn chăm sóc đời sống tinh thần. Sách được biên soạn bởi các đầu bếp giàu kinh nghiệm, với nhiều gợi ý món ăn thanh đạm nhưng vẫn hài hòa sắc - hương - vị. Điều đặc biệt ở đây không phải kỹ thuật nấu ăn cầu kỳ, mà là thái độ sống chậm, sống an.

Thơm Thảo Xôi Chè lại đem đến một hướng tiếp cận đậm chất truyền thống mà vẫn không thiếu nét sáng tạo. Xôi và chè - hai món thường hiện diện trong cúng lễ Đoan Ngọ - được tác giả giới thiệu như những biểu tượng của sự đoàn viên và lòng thành. Với phong cách viết nhẹ nhàng, đầy chất thơ, cuốn sách như một nhịp cầu đưa người đọc trở về với căn bếp Việt trong những ngày lễ xưa, nơi từng hạt nếp, hạt đậu đều gửi gắm tình thân và văn hóa.

Cuối cùng, Thanh Tịnh Mâm Cỗ Việt – 30 Món Chay Lành Xưa Và Nay không chỉ đơn thuần là tuyển tập các công thức món chay mà còn là lời mời gọi trở về với nếp nhà truyền thống qua từng mâm cỗ cúng. Xuất phát từ tinh thần tri ân cội nguồn, cuốn sách đan cài kỷ niệm, bài học gia đình và những nguyên tắc bài trí mâm cỗ theo đúng lối xưa, từ đó gợi mở cách gìn giữ vẻ trang nghiêm, thanh tịnh nhưng vẫn ấm áp, gần gũi trong đời sống Việt hiện đại.

Truyền thống không cũ - Chỉ cần được thở theo nhịp mới

Việc chuyển từ mâm mặn sang mâm chay trong ngày Tết Đoan Ngọ không có nghĩa là bỏ đi truyền thống. Trái lại, đó là cách tiếp nối tinh thần nguyên bản: ăn những gì hợp mùa, có lợi cho cơ thể và dành không gian cho sự tĩnh lặng nội tâm. Một mâm cỗ Đoan Ngọ chay có thể không nhiều món, không đậm đà thịt cá, nhưng lại là lời nhắc nhở dịu dàng về cách sống chậm, lành và yên.

Tết Đoan Ngọ hôm nay - Nhẹ nhàng nhưng vẫn đậm hương sắc

Trong nhịp sống hiện đại dễ cuốn ta đi quá nhanh, Tết Đoan Ngọ nay không chỉ còn là dịp “diệt sâu bọ” mà còn trở thành một khoảng lặng để ta trở về - với ký ức, với tự nhiên, và với chính mình. Mỗi món ăn chay trên mâm cỗ hôm ấy là một sự lựa chọn tỉnh thức: nuôi tâm, dưỡng thân, giữ gìn môi trường, và tiếp nối một truyền thống sống hòa với tự nhiên.

Giữa mùa mận chín, bên chén cơm nếp lành, chiếc bánh tro thơm mộc mạc có thể chính là sợi chỉ kết nối ta với quá khứ - không phải bằng nghi thức rườm rà, mà bằng những gì gần gũi và chân thật nhất. Truyền thống không mất đi, chỉ cần được lắng nghe và thở theo nhịp sống hôm nay.

Ngữ Yên

Đọc bài viết

Giới thiệu sách

Nhật Bản 365 Ngày: Khi mỗi ngày là một mảnh ghép văn hóa

Published

on

Việc thể hiện tình cảm đối với thiên nhiên và cuộc sống từ lâu đã là một nét đẹp văn hóa trong lòng người Nhật. Dù đó chỉ là một hoạt động thường nhật hay một cánh hoa anh đào rơi xuống bên lề đường, thì trong con mắt tinh tế của mình, người Nhật luôn nhận ra những ý nghĩa sâu sắc ẩn sau những điều bình thường.

Qua những kinh nghiệm tích lũy từ nhiều năm nghiên cứu về văn hóa Nhật, tác giả Lê Thị Kim Oanh cùng họa sĩ minh họa Lăng Vi mang đến cho người đọc một cuốn sách mang đậm chất triết lý của con người và tự nhiên tại xứ sở mặt trời mọc, đó là Nhật Bản 365 ngày – Thông điệp kết nối thiên nhiên và cuộc sống.

Giao thoa giữa nét văn hóa truyền thống và cuộc sống hiện đại

Ở thời cổ đại, Nhật Bản tiếp thu nền văn hóa của Trung Hoa, nên hầu như mọi sinh hoạt thường ngày hay mọi hoạt động đều dựa trên hệ thống lịch âm. Nhưng kể từ khi bước vào thời đại Meiji (1868 -1912), xã hội Nhật Bản đã tiếp thu văn minh của người phương Tây và điều này thay đổi cuộc sống của người Nhật trên mọi phương diện.

Đến năm 1873 (năm Minh Trị thứ sáu), Nhật Bản chính thức loại bỏ hệ lịch âm truyền thống (lịch Thiên Bảo) và chuyển sang dùng lịch dương theo phương Tây. Quyết định này đã đánh dấu một bước chuyển mình vô cùng lớn trong công cuộc hiện đại hóa đất nước. Tuy đã thay đổi hệ lịch nhưng người Nhật vẫn giữ gìn sâu sắc những giá trị truyền thống trước đây của họ. Cho đến nay, ở đâu đó trong cuộc sống hiện đại của nước Nhật vẫn xuất hiện những khái niệm thời gian liên quan đến âm lịch như Ngũ tiết, và cùng với các khái niệm về dương lịch như 24 tiết khí. Tất cả đều hài hòa và xuất hiện theo một cách tự nhiên như vốn là một nét văn hóa truyền thống.

Tinh thần truyền thống của nước Nhật ở đây được thể hiện thông qua tình yêu đối với thiên nhiên, sự nhạy cảm với thời khắc giao mùa của vạn vật, sự tôn kính dành cho thần linh và sự trân trọng từng khoảnh khắc của cuộc sống. Tất cả vẫn còn được lưu giữ và trở thành một nếp sống không thể thiếu của người Nhật. Bởi thế, sự giao thoa giữa cái cũ và cái mới đã trở thành một bản sắc riêng biệt của Nhật Bản mà không phải quốc gia Á Đông nào cũng duy trì được trọn vẹn.

Càng đọc sách, càng hiểu về văn hóa của người Nhật

Nhật Bản 365 ngày là một cuốn sách độc đáo vì được trình bày như một cuốn lịch. Mỗi trang sách viết về một ngày trong năm, không phải để xem ngày tháng mà là để độc giả được chiêm nghiệm về văn hóa cũng như lối sống của người Nhật theo từng ngày.

Ngoài những ngày lễ trong năm, cuốn sách còn gợi mở cho người đọc về các khoảnh khắc đáng quý của những ngày tưởng chừng như rất đỗi bình thường. Dưới góc nhìn tinh tế của người Nhật, mỗi ngày với họ đều có ý nghĩa, thậm chí mang nặng chiều sâu văn hóa. Lật giở từng trang sách, bạn có thể tìm thấy một ngày dành riêng để trân trọng một loài hoa, điểm lại một nghi thức tôn giáo, hay một ngày chỉ nói về thời tiết hoặc lối sống thường nhật của con người tại xứ sở hoa anh đào.

Chẳng hạn, khi đọc đến trang về ngày 14 tháng 1, người đọc sẽ hiểu biết về người Nhật có niềm tin trong nghi lễ đốt trừ tà (hay còn gọi là “Sagicho”) có thể giải trừ bệnh tật và tai ương trong dịp năm mới. Hay đọc đến ngày 12 tháng 4, nội dung xoay quanh nguồn gốc chiếc bánh mì nhân đậu đỏ có tên gọi Anpan, là món ăn phổ biến trong cuộc sống bận rộn của người Nhật.

Một điểm thú vị khác có thể kể đến là ngôn ngữ Nhật Bản vốn nổi tiếng với khả năng chơi chữ và có thể tạo ra nhiều tầng nghĩa thông qua các ký tự. Điều này cũng thể hiện trong cuốn sách, khi các tên gọi của ngày tháng trong tiếng Nhật đều ẩn chứa những ý nghĩa đặc biệt và thú vị.

Chắc hẳn ai cũng đều biết chiếc bánh rán Dorayaki là món ăn khoái khẩu của chú mèo máy Doraemon, và khi đọc Nhất Bản 365 ngày, độc giả sẽ thích thú khi được biết người Nhật thường chọn ăn loại bánh này vào ngày 4 tháng 4 hằng năm. Theo quan niệm của họ, ăn loại bánh này sẽ mang đến sự hạnh phúc. Trong tiếng Nhật, khi gộp hai số 4 trong ngày tháng lại với nhau sẽ tạo nên âm chữ là “Shi-awase”, đồng âm với “Shiawase” có nghĩa là hạnh phúc. Cách chơi chữ đơn giản mà giàu ý nghĩa này rất phổ biến đối với người Nhật.

Càng đọc sâu từng trang sách là càng hiểu thêm về nét đẹp trong văn hóa của Nhật Bản và những thông điệp sâu sắc mà người đọc có thể chưa biết hoặc chưa để ý đến trước đây.

Thông điệp đơn giản mà chạm đến người đọc

Đúng như lời gửi gắm của tác giả Kim Oanh đã viết trong cuốn sách: “Thay vì đợi chờ, chúng ta hãy tận hưởng từng thời khắc, từng ngày, từng tháng, từ mùa nắng gắt cho đến mùa giá lạnh, để rồi thu mình lại và chuẩn bị sự trỗi dậy của vạn vật, cùng bước vào một mùa ấm áp mới.” Có thể nói, thông điệp đến từ cuốn sách Nhật Bản 365 ngày sẽ giúp độc giả sống chậm lại, tận hưởng cuộc sống hơn theo cách của người Nhật. Tinh thần chung của người dân đất nước này vốn là coi trọng từng khoảnh khắc trong cuộc sống, vậy nên học cách sống chậm nghĩa là là tập dần quan sát và cảm nhận từng giây từng phút trôi qua. Đây là lối sống lành mạnh, giúp mỗi người tìm thấy được sự an nhiên trong tâm hồn.

Thông điệp chính mang đúng tinh thần của cuốn sách nhất vẫn là sự kết nối con người với thiên nhiên. Với người Nhật, thiên nhiên không chỉ là bối cảnh sinh hoạt mà còn là nơi để con người tập dần cách sống thuận theo dòng chảy của thời gian, học cách lắng nghe bản thân và chuyển mình trước sự biến đổi giữa vạn vật tự nhiên. Người đọc sẽ cảm nhận rõ về cách người Nhật đã hòa nhịp cùng với thiên nhiên như thế nào qua các tiết khí, mùa hoa, hay những ngày lễ hội gắn với mùa vụ, tất cả đều được trình bày ngắn gọn mà không kém phần đặc sắc trong cuốn sách này.

Cuối cùng, cuốn sách còn khẳng định tầm quan trọng của việc giữ gìn truyền thống giữa dòng chảy hiện đại. Dù đã bỏ lịch âm, người Nhật vẫn giữ nhiều tập tục lâu đời như một cách gìn giữ cội nguồn trong một thế giới ngày càng hiện đại hóa. Trong vai trò người đọc, đặc biệt là người trẻ, cuốn sách sẽ mang cho họ góc nhìn sâu sắc hơn về sự cân bằng giữa cái mới và cũ trong cuộc sống.

Quý Nghĩa

Đọc bài viết

Cafe sáng