Book trailer

Đời sống xoắn quẩy của nấm

Hay hành trình khám phá những khả năng phi thường của họ nhà nấm.

Published

on

WHETHER YOU’RE MAKING A MEAL OR CLEANING AN OIL SPILL, THERE’S A FUNGUS FOR THAT
Jennifer Szalai

Hoàn thành bản thảo cho một cuốn sách mới thường là thành quả của nhiều năm làm việc, và khi tác giả đã thành công trong công cuộc hiện thực hóa ý tưởng đột phá, họ sẽ cố gắng kỷ niệm cái mốc này thật hân hoan. Trong cuốn sách mới của mình, Entangled Life: How Fungi Make Our Worlds, Change Our Minds, and Shape Our Futures, tạm dịch Đời sống xoắn quẩy của nấm: Cách họ nhà nấm tạo ra thế giới, thay đổi suy nghĩ và định hình tương lai của chúng ta, nhà sinh học trẻ chuyên trị mảng nấm, Merlin Sheldrake, đã thực hiện một nghi thức mà tôi chưa từng nghe đến và cũng hoàn toàn mờ tịt: Anh ấy thấm ẩm cuốn sách rồi gieo bào tử nấm vào đó, cuối cùng ăn số nấm bào ngư mọc ra từ những trang giấy. Với một bản sao khác, anh ấy xé các trang giấy ra, nghiền nát chúng để tạo đường và lên men cả hỗn hợp thành bia. Quên đi những cách thức tận hưởng văn chương tầm thường – một bữa yến tiệc sành sỏi hay chúc tụng cùng sâm-panh: Ngay đây, độc giả đang chứng kiến một tác giả đánh dấu việc hoàn thành cuốn sách của mình bằng việc ngấu nghiến nuốt chửng nó.

Nhà sinh vật học Merlin Sheldrake, tác giả của cuốn sách mới Đời sống xoắn quẩy của nấm: Cách họ nhà nấm tạo ra thế giới, thay đổi suy nghĩ và định hình tương lai của chúng ta.
Ảnh: merlinsheldrake.com

Đó là cái kết dị biệt nhưng lại phù hợp với Đời sống xoắn quẩy của nấm – hành trình khám phá hăng hái và đầy tham vọng của Sheldrake về sự vật bao quanh chúng ta nhưng lại quá ít người nghĩ đến. Cây cối luôn nhận được nhiều sự chú ý từ con người, nhưng Sheldrake lại muốn hướng ánh nhìn của ta tới họ nhà nấm, mà nếu không có chúng, rất nhiều loại thực vật được chúng ta sử dụng sẽ không thể tồn tại. Hầu hết khi nghĩ về họ nhà nấm, bạn chỉ hình dung tới những “cây nấm” mọc ra từ gốc cây hay đã được nấu chín trên đĩa. (Tên của Sheldrake – Merlin – khiến tôi nghĩ tới một vị phù thủy và cây nấm dù ma thuật của ông ấy.) Tuy nhiên, “cây nấm” thường chỉ là cái chóp bé tẹo so với thế giới rộng lớn của họ nhà nấm. Mạng lưới nấm lớn nhất thế giới được ghi nhận sống tại Oregon, một mạng lưới – hay một hệ nấm sợi – bao phủ bốn dặm vuông (tương đương 6,4 mét vuông) và đã có hàng ngàn năm tuổi.

Còn nữa, họ nhà nấm không chỉ hiện diện ở khắp mọi nơi, chúng còn làm việc. Mặc dù chúng thường bị gộp chung với những loại cây sử dụng nấm như hệ thống rễ trong hàng chục triệu năm trước khi cái cây đó tiến hóa đến độ có thể tự tồn tại, Sheldrake khẳng định rằng họ nhà nấm có mối liên quan chặt chẽ hơn với động vật. Khi nghĩ tới cây cối và hệ thống nấm giúp duy trì sự sống của cây, chúng ta hay bị lấn át bởi chủ nghĩa “lấy cây cối làm trung tâm” và làm cho chúng ta không nhận ra sự hiện diện của nấm – ta đã bị “mù nấm”.

Chứng “mù nấm” có thể khiến ta bỏ lỡ nhiều hiện tượng phi thường. Họ nhà nấm có thể phân phối chất dinh dưỡng và cả thông tin tới các thực vật khác. Ví dụ, khi một cái cây bị tấn công bởi rệp, nó phát ra một “tiếng thét hóa học” sẽ “tới tai” những cây khác trong mạng lưới nấm – điều này cho phép cây cối trong mạng lưới tự phòng ngự bằng cách tiết ra một hợp chất hóa học thu hút ong bắp cày, kẻ địch của loài rệp. Thậm chí, dù cái cây phát đi tín hiệu cảnh báo chẳng thu được hoặc thu được rất ít lợi lộc từ các cây xung quanh sau khi bản thân nó đã bị rệp tấn công, ích lợi từ mạng lưới nấm sẽ giúp giữ cho cây khỏe mạnh.

Mạng lưới nấm sợi – thứ mà một vài nhà nấm học gọi là “wood wide webs” (mạng lưới toàn gỗ, chơi chữ từ “world wide webs – www”) – cũng có thể khuếch đại tương tác giữa họ nhà nấm, thực vật và vi khuẩn với những giả thuyết còn mơ hồ. Một mạng lưới có thể truyền dẫn độc tố và vi rút, cho phép một số thực vật nhanh chóng tiêu diệt một số khác trong khu vực gần đó.

Cuốn sách của Sheldrake hội tụ đầy đủ những câu chuyện ấn tượng như vậy, từng bước mở rộng nhận thức hạn hẹp của chúng ta. Anh đưa ra những trích dẫn nhiều màu sắc, tất cả đều rất bí ẩn nhưng lại cần thiết, từ những danh nhân đa dạng như Tom Waits và nhà nữ quyền Hélène Cixous. Một trong những chương đầu tiên viết về việc truy tìm nấm truffle (nấm cục) khởi đầu với một lời nhắn từ Hoàng tử trước khi đi sâu vào thế giới nấm bí ẩn mà quyến rũ. Kiểm tra rễ một loại cây dưới kính hiển vi giúp anh có cái nhìn thoáng qua về cái cây và những cây nấm đang cuốn lấy nhau trong một cái ôm thân mật. “Đây không phải là tình dục,” anh viết; không có thông tin gen nào được tổng hợp. “Nhưng điều này vẫn thật quyến rũ.”

Sự thật là, thứ hạng của thuyết nhân hóa (anthropomorphism) dẫn đến những hiểm nguy nhất định; nếu chúng ta từ bỏ chủ nghĩa lấy cây cối làm trung tâm mà phóng chiếu tính người lên họ nhà nấm, Sheldrake thừa nhận, chúng ta có nguy cơ không hiểu hết một sự vật theo cách riêng của nó. Nhưng vẫn có một số đặc điểm đang được ghi nhận về họ nhà nấm, rằng chúng không thể dự đoán trước, phản ứng nhanh và dễ bị kích thích. Anh ấy đề cập đến từ “đồi” trong tiếng Potawatomi (một thứ tiếng Mỹ bản địa – kiểu tiếng thổ dân) là một động từ: “Đồi ở đây là quá trình leo, chúng vận động để trở thành những ngọn đồi.” Sau đó, trong một cuộc thảo luận đột xuất say mê về rêu địa y – một tổ chức cộng sinh bao gồm tảo và họ nhà nấm – anh ấy giải thích cách rêu địa y lọc những khoáng chất từ đất đá và truyền chúng vào chu trình trao đổi chất của sự sống. Địa y, một cách nói khác, “không bao giờ ngừng địa y, chúng vừa là động từ mà cũng vừa là danh từ.”

Các nhà nghiên cứu tiên phong (táo bạo) đang cố gắng tìm ra tất cả những công dụng của họ nhà nấm. Từ những công dụng cơ bản nhất là cung cấp dinh dưỡng cho thực vật, giúp chúng phát triển và thay đổi, ví dụ như vị ngọt của dâu tây. Vậy họ nhà nấm có thể giúp chúng ta dọn dẹp mớ hỗn độn khủng khiếp mà chúng ta đã gây ra cho hành tinh này không? Họ nhà nấm có thể được “huấn luyện” để hấp thu tàn thuốc lá, tã đã qua sử dụng, dầu loang hay cả phóng xạ. Một lĩnh vực mới trong ngành chế tạo vi mô đã phát triển da giả và vật liệu xây dựng từ họ nhà nấm. Sheldrake tham quan một nhà máy đã biến mạng lưới nấm thành đồ nội thất – chân ghế từ nấm dù.

Nhưng nếu chúng ta chỉ chăm chăm khai thác tiềm năng ứng dụng của chúng, theo một cách nào đó, thì ta đang bỏ qua một số điểm trọng yếu. Sheldrake cho rằng việc chú ý tới họ nhà nấm có thể thay đổi những hiểu biết cơ bản về thế giới. Mạng lưới nấm sợi là một hệ thống phi tập trung, “sự phối hợp của chúng xuất hiện ở khắp nơi cùng một lúc và không có nơi nào riêng biệt.” Chúng tiêu hóa bằng cách đưa cơ thể mình vào trong thức ăn. Một loại nấm đầu nhỏ gọi là hyphae có thể gây áp lực đủ lớn để xuyên qua giáp Kevlar. Một loại nấm mọc lên sau cơn mưa có thể từ mặt đất lách qua đường nhựa. Sheldrake viết, “nếu tôi nghĩ về sự phát triển của nấm sợi trong vòng hơn một phút, tâm trí tôi bắt đầu bị kéo dãn.”

Anh mô tả việc nhận được sự hỗ trợ từ các chất gây ảo giác từ nấm như LSD (Lysergic Acid Diethylemide – một loại axit chiết xuất từ nấm gây ảo giác về hình ảnh, âm thanh) và psilocybin (hợp chất tự nhiên gây ảo giác từ hơn 200 loại nấm), đồng thời đưa ra phép so sánh với cái gọi là nấm xác sống điều khiển cơ thể vật chủ côn trùng. Một loại khác tự lây lan bằng cách lây nhiễm ve sầu, giữ cho chúng sống sót trong khi khiến cho phần đuôi ve sầu phân hủy và thải ra các bào tử, biến chúng thành “những kẻ rắc muối biết bay của thần chết.”

Sheldrake nói rằng những ảo giác từ họ nhà nấm thường lành tính với vật chủ là con người, nhưng đôi lúc cũng rất mạnh mẽ. Chúng khuyến khích con người nuôi dưỡng chúng, phát tán bào tử của chúng ra thế giới. Chúng xóa nhòa ranh giới của bản thân, mang lại cho con người cảm giác về sự hòa nhập vào một cái gì đó lớn hơn, mở rộng kỳ vọng về khả năng của họ. Thay vì mắc kẹt lại trong những cái tôi, chúng ta nên bắt đầu nghĩ rằng chúng ta nằm trong một mạng lưới năng động và được gắn liền với một chuỗi những mối quan hệ.

Trong vòng 24 giờ sau khi đọc xong Đời sống xoắn quẩy của nấm, tôi đã đặt mua một bộ dụng cụ trồng nấm bào ngư. Tôi bắt đầu rà soát những ụ địa y ôm lấy sàn bê tông ẩm ướt trong sân. Cuốn sách này có thể không phải một tác phẩm tâm lý – và không giống như Sheldrake, tôi không dám sử dụng sách để trồng nấm và lên men bia (chưa tới lúc) – nhưng việc đọc nó không chỉ lay động tôi mà còn khiến tôi thay đổi, nóng lòng muốn phổ biến thông điệp của cuốn sách về những khả năng của họ nhà nấm.

Hết.

Bún Cứng dịch.

Bài viết gốc được thực hiện bởi Jennifer Szalai, đăng tại The New York Times.

1 Comment

1 Bình luận

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Book trailer

Niên lịch miền gió cát bàn cách sống hòa hợp thiên nhiên

Published

on

Sách Niên lịch miền gió cát là ghi chép của Aldo Leopold - nhà sinh thái học hoang dã - về các con người tôn trọng thiên nhiên.

Aldo Leopold là nhà địa chất học, nhà môi trường học. Năm 1935, gia đình ông mua một trang trại cũ gần sông Wisconsin (Mỹ), trồng cây và cứu sống cánh đồng đã chết. Ông ghi nhận những thay đổi của sinh, thực vật trong quá trình phục hồi. Các bản thảo sau đó được tập hợp thành quyển Niên lịch miền gió cátxuất bản tháng 4/1948, một tuần sau khi tác giả mất do đau tim.

Niên lịch miền gió cát do Dương Mạnh Hùng chuyển ngữ. Sách Phương Nam phát hành. Ảnh: Phương Nam Book.

Sách gồm ba phần. Phần một là quan sát sinh vật thay đổi theo từng tháng tại trang trại ở Wisconsin. Phần hai là ghi chép hành trình khám phá đời sống hoang dã của ông trong 40 năm. Phần cuối là nhận định về việc bảo tồn thiên nhiên. Thông qua thể văn xuôi đậm chất hóm hỉnh kết hợp yếu tố lịch sử, khoa học, Leopold truyền tải ý nghĩa về mối liên hệ giữa con người với môi trường, hy vọng độc giả yêu, tôn trọng thiên nhiên.

Ông đề ra đạo đức môi trường tự nhiên (land ethic): "Một hành động là đúng đắn là khi hướng tới bảo tồn tính toàn vẹn, ổn định của cộng đồng sinh vật". Leopold viết: "Con người sẽ có ý thức bảo tồn khi tiếp xúc, hiểu, cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên". Khi sống gần các sinh, thực vật, mỗi người sẽ hình thành đạo đức - cơ chế tự kiểm duyệt trước khi hành động tổn hại môi trường. Con người cần khám phá, kết nối với tự nhiên để có lòng yêu thương, quan tâm thế giới tạo hóa ban tặng.

Theo Buddy Huffaker, chủ tịch của Aldo Leopold Foundation (tổ chức nâng cao ý thức bảo vệ môi trường dựa trên lý luận của Leopold): "Nhờ lập luận về đạo đức môi trường tự nhiên nên Niên lịch miền gió cát được săn đón vào năm 1970 - lần đầu tiên tổ chức Ngày Trái đất. Các ghi chép về đạo đức của tác giả được áp dụng rộng rãi và vô tình trở thành chuẩn mực ứng xử với thiên nhiên". The Boston Globe nhận định sách là "một trong những tác phẩm có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào môi trường".

Aldo Leopold là nhà khoa học, nhà địa chất học, nhà triết học, nhà môi trường học người Mỹ. Ảnh: aldoleopold.

Aldo Leopold (1887-1948) trải qua thời thơ ấu tại Burlington, gần dòng sông Mississippi - nơi dấu chân của ông trải khắp các khu rừng, đồng cỏ. Leopold học lâm nghiệp tại trường dạy về rừng của Yale. Sau khi tốt nghiêp năm 1909, ông làm việc tại Cục Kiểm lâm Mỹ, đồng thời nghiên cứu sinh thái học, đề ra đạo đức môi trường tự nhiên. Năm 1933, tập sách về quản lý động vật hoang dã Game Management được xuất bản. Năm 1982, vợ và năm người con thành lập The Aldo Leopold Foundation nhằm nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường hoang dã dựa trên di sản trí tuệ tác giả để lại.

Theo VNexpress

Đọc bài viết

Book trailer

Người đẹp ngủ mê – tiểu thuyết kinh điển về nỗi buồn

Published

on

Người đẹp ngủ mê của nhà văn Nhật Kawabata Yasunari khắc họa nỗi buồn qua những suy nghĩ về sự sống và hoài niệm.

Người đẹp ngủ mê do dịch giả Quế Sơn chuyển ngữ, tái bản trong nước cuối tháng 11. Tác phẩm xuất bản lần đầu năm 1961, dựa trên kịch bản sân khấu kabuki Những mỹ nữ, công diễn vào khoảng thế kỷ 17 ở Nhật Bản.

Bìa sách Người đẹp ngủ mê. Tác phẩm dày 160 trang, tái bản trong nước cuối tháng 11. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa sách Người đẹp ngủ mê. Tác phẩm dày 160 trang, tái bản trong nước. Ảnh: Phương Nam Book

Tác phẩm xoay quanh năm lần ông lão Eguchi ghé thăm ngôi nhà của những trinh nữ xinh đẹp tuổi chưa đầy 20. Họ bị gây mê bằng thuốc ngủ liều cao, khỏa thân trong tình trạng ngủ say. "Nếu chỉ cần lay nhẹ mà cô gái đã thức dậy thì ngôi nhà này đâu còn gì bí ẩn nữa. Các vị khách đến đây 'giống như ngủ với một ông Bụt vô hình'. Đối với các ông già, ngủ với một người đẹp không khi nào tỉnh thức là một mối cám dỗ, một cuộc phiêu lưu, một niềm vui thú mà họ tin mình còn thực hiện được", tác giả viết.

Mỗi chương là một lần Eguchi đến ngôi nhà ngủ cùng cô gái khác nhau. Khi màn đêm buông xuống, nhiều tiếng động kết hợp tạo nên bản nhạc của thiên nhiên, con người. Hơi thở của những cô gái, cộng với tiếng gió thổi qua mái nhà và âm thanh sóng biển đập vào vách đá. Từ đó, Eguchi hồi tưởng quá khứ, nhớ về những người đàn bà đi qua đời ông.

Tác giả lấy những hoài niệm để ẩn dụ cho sự tiếc nuối vẻ đẹp văn hóa Nhật Bản. Kỷ niệm tái hiện qua không gian, hình ảnh thiên nhiên xung quanh ngôi nhà của các mỹ nữ. Việc ngủ cạnh những cô gái khiến Eguchi khám phá nhiều cung bậc cảm xúc, đồng thời nhận ra sự cô đơn của mình. "Một nỗi cô đơn buồn bã trào lên. Nhưng hơn cả nỗi cô đơn hay nỗi buồn rầu, chính là nỗi cô chiếc tuyệt vọng của tuổi già như thể đông lạnh hẳn trong ông", Kawabata viết.

Tác phẩm không chỉ tràn ngập những mỹ từ, như "bàn tay mịn và đẹp, mái tóc trinh trắng, đôi má ửng đỏ, cổ và vai trông tươi và trẻ", mà còn suy tưởng về quy luật của thời gian, sự sống và cái chết, nỗi hoài niệm quá khứ, khao khát tương lai. Đời sống xã hội mang nhiều tổn thương, khiến con người dễ rơi vào tâm trạng cô đơn, tiếc nhớ những tháng ngày quá khứ.

Bìa trong của tác phẩm Người đẹp ngủ mê năm 2023. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa trong của tác phẩm Người đẹp ngủ mê năm 2023. Ảnh: Phương Nam Book

Càng về cuối, Kawabata càng đào sâu ký ức của nhân vật chính, nhằm giúp Eguchi tìm lại được cảm xúc thuần túy nhất. Eguchi tin những lão già như mình, khi có dịp trú ngụ tại ngôi nhà của các mỹ nữ, không chỉ nhìn lại thời trai trẻ mà cố quên đi những việc tiêu cực xảy ra trong cuộc đời. Từ khía cạnh này, Eguchi liên tưởng những người đẹp ngủ mê là hiện thân của thần tiên trong các truyền thuyết.

"Cô gái ngủ mê man như chết nhưng thời gian sinh tồn của nàng đâu có ngưng chảy, vậy nàng có giữ được thời gian đó không hay là nó chảy tuột vào một vực sâu không đáy? Nàng không phải là một búp bê sống, vì không thể có búp bê sống trên thế gian này; nàng được biến thành một đồ chơi sống, để các cụ già đã mất năng lực đàn ông không bị cảm thấy xấu hổ. Không, không phải một đồ chơi: đối với các cụ, nàng chính là cuộc sống. Một cuộc sống người ta có thể sờ mó được, một cách tự tin", Kawabata nhận định.

Trong một số tác phẩm, Kawabata thường lồng ghép quan điểm của mình để gợi nhớ cuộc sống mồ côi và những khó khăn thời trẻ tuổi trẻ. Đồng thời, nhà văn để lại nhiều khoảng trống để độc giả tự khám phá. Bằng sự khéo léo biến hóa ngôn từ, Kawabata dẫn dắt người đọc qua nhiều tình huống, tạo nên cảm nhận khác nhau khi đọc tác phẩm.

Tác phẩm được giới chuyên môn và nhiều độc giả đánh giá cao. Năm 1968, Người đẹp ngủ mê giúp Kawabata Yasunari trở thành tiểu thuyết gia người Nhật đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học. Đại diện Viện Hàn lâm Thụy Điển nhận xét: "Tác giả tôn vinh cái đẹp hư ảo, đồng thời khắc họa nỗi buồn hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và định mệnh con người".

Trên trang đánh giá sách Goodreads, độc giả Jim Fonseca viết: "Những dòng văn mở đầu câu chuyện góp phần che đậy nỗi khao khát và ký ức tình yêu trong quá khứ của nhân vật. Tác phẩm có chút kinh dị nhưng hấp dẫn, khắc sâu vào tâm trí tôi".

Nhà văn Kawabata Yasunari. Ảnh: Estate of Yousuf Karsh
Nhà văn Kawabata Yasunari. Ảnh: Estate of Yousuf Karsh

Kawabata Yasunari (1899-1972) sinh ra ở Osaka, mồ côi năm lên hai tuổi. Từ đó, ông và người chị ruột sống cùng ông bà ngoại và gia đình người dì. Qua thời gian, những sáng tác văn chương, tiểu luận mỹ học và phê bình văn học của Kawabata vẫn luôn hấp dẫn nhiều nhà nghiên cứu văn học khắp thế giới, do phản ánh nhiều phương diện văn hóa và đề cao tinh thần người Nhật. Nhiều tác phẩm của Kawabata từng xuất bản trong nước, gồm: Đẹp và buồnHồTiếng núiXứ tuyếtBồ công anh.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Book trailer

Quán thiền trong Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Đường xưa mây trắng là tác phẩm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Cuốn sách kể về cuộc đời Đức Phật, mà ai đọc vào cũng cảm nhận được điều hay lẽ phải. Giáo lý nhà Phật được tác giả phân tích dễ hiểu, dễ nắm bắt.

Thầy Thích Nhất Hạnh (tên khai sinh Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm 1926, tại Huế). Ông là Thiền sư nổi tiếng người Việt Nam. Ông hiện là nhà sư có ảnh hưởng lớn đến Phật giáo trên toàn thế giới. Không những là nhà tu hành, Thích Nhất Hạnh còn hiện diện là một nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu. Đến nay, ông đã viết được hơn 100 cuốn sách.

Hầu như tác phẩm nào của ông cũng gây được sự chú ý không chỉ ở những người theo Phật giáo, mà ở nhiều độc giả, ở mọi lứa tuổi, ngành nghề, tôn giáo khác. Tác phẩm Đường xưa mây trắng của Thầy Thích Nhất Hạnh có thể được coi như là một cuốn tiểu thuyết về cuộc đời Đức Phật, mà trong sách, tác giả gọi là Bụt. Bụt là phiên âm từ âm Buddha trong tiếng Phạn.

Quán thiền trong Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Tác phẩm Đường xưa mây trắng - Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Cuộc đời Đức Phật được kể qua con mắt của chú bé chăn trâu Svasti, sau xuất gia, trở thành một vị đệ tử của Phật. Svasti từng cúng dường cỏ bồ đề cho cho Đức Phật suốt 49 ngày trước khi thành đạo. Đây có thể là góc nhìn khác lạ của tác giả so với nhiều người kể về Đức Phật.

Qua đôi mắt đứa trẻ, mọi sự vật, sự việc sẽ được kể chân thật, hồn nhiên, không có gì phải giấu diếm. Đức Phật hiện diện lên trước hết, không phải là một thần linh, mà là một con người giản dị, có cuộc sống và mơ ước như bao người. Mơ ước của Đức Phật là làm lợi cho muôn loài.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Tác phẩm Đường xưa mây trắng được chia làm 81 chương, trong mỗi chương là những cảnh xưa, người xưa được hiện diện lên sống động. Giáo lý nhà Phật được nói dễ hiểu, gọn gàng. Những tập tục của người xuất gia xưa, hay cách quán thiền cũng được tác giả lồng ghép vào khéo léo.

Câu chuyện diễn ra tự nhiên, không có một gượng ép nào. Tác giả cho thấy sức tưởng tượng thiên tài của mình, người đọc có thể tưởng rằng, tác giả phải là người sống bên cạnh Đức Phật mới có thể viết tỉ mỉ, lý thú như vậy, nếu như không đọc tên người viết.

Tâm sự về cuốn sách này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng viết: “Tôi còn nhớ là tôi đã viết Đường xưa mây trắng ở trong cái quán của Xóm Thượng. Hồi đó chưa có lò sưởi trung ương, trong phòng chỉ có một cái lò sưởi đốt củi thôi và trời rất lạnh. Tay phải tôi viết còn tay trái thì đưa ra hơ trên lò sưởi. Tôi đã viết những chương của Đường xưa mây trắng với rất nhiều hạnh phúc.

Thỉnh thoảng tôi đứng dậy pha trà để uống. Mỗi ngày viết mấy giờ cũng như được ngồi uống trà với đức Thế Tôn. Và tôi biết trước người đọc sẽ rất có hạnh phúc vì khi viết mình cũng đang có rất nhiều hạnh phúc. Viết Đường Xưa Mây Trắng không phải là một lao động mệt nhọc mà là cả một niềm vui lớn. Đó là một quá trình khám phá. Có những đoạn tôi cho là khó viết, như đoạn Bụt độ cho ba anh em ông Ca Diếp.

Tài liệu thường nói là Bụt độ ba anh em đó nhờ thần thông của Ngài, nhưng khi viết thì tôi đã không để cho Bụt dùng thần thông mà cứ để Bụt sử dụng từ bi và trí tuệ của Ngài để độ ba ông ấy. Bụt có rất nhiều trí tuệ, rất nhiều từ bi, tại sao Bụt không dùng mà lại phải dùng thần thông? Và tôi có một niềm tin rất vững chắc là mình sẽ viết được chương đó. Chương này là một trong những chương khó nhất của Đường Xưa Mây Trắng nhưng cuối cùng tôi đã thành công. Chương khó thứ hai là chương nói về cuộc trở về của Bụt để thăm gia đình. Ngài đã thành Phật rồi, Ngài đã thành bậc toàn giác rồi, nhưng về thăm gia đình thì Ngài vẫn còn là một đứa con của cha, của mẹ, vẫn là một người anh của các em.

Viết như thế nào để Bụt vẫn còn giữ lại được tính người của Ngài. Cũng nhờ niềm tin đó mà tôi thành công. Quý vị đọc lại, sẽ thấy Bụt về thăm nhà rất tự nhiên. Cách Ngài nắm tay vua cha đi từ ngoài vào, cách Ngài đối xử với em gái, cách Ngài đối xử với Yasodhara và Rahula, rất tự nhiên. Tôi có cảm tưởng là có chư Tổ gia hộ nên tôi mới viết như vậy được. Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh”.

Một trích dẫn hay trong tác phẩm Đường xưa mây trắng - Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Đường xưa mây trắng được biết đến là cuốn sách đã bán được nhiều triệu bản, được dịch ra hơn 20 tiếng trên thế giới. Sau khi đọc được cuốn sách này, nhà tỉ phú Ấn Độ Bhupendra Kuman Modi đã quyết định tài trợ 120 triệu USD để các nhà làm sản xuất dựa theo Đường Xưa Mây Trắng dựng thành phim.

Qua cuốn sách Đường xưa mây trắng, thầy Thích Nhất Hạnh đã vẽ lại phần nào khung cảnh xưa: “Trong bóng me im mát vị khất sĩ Svastika đang thực tập phép quán niệm hơi thở. Chú ngồi trong tư thế hoa sen. Từ hơn một tiếng đồng hồ, chú đã ngồi thực tập như thế một cách chăm chú. Đó đây trong tu viện Trúc Lâm, hàng trăm vị khất sĩ cũng đang ngồi thực tập thiền quán, hoặc trong bóng tre, hoặc tron những chiếc am lá nhỏ đựng rải rác khắp nơi trong tu viện, xen lẫn giữa những bụi tre xanh tươi và khỏe mạnh”.

Đọc cuốn sách này, chúng ta học được nhiều điều hay của Đức Phật, đó là cách nói chuyện, cách hành động, cách lý giải cuộc sống. Và đặc biệt, là cách quán thiền, cách tĩnh tâm trước những biến động của đời người.

Theo báo Pháp luật

Đọc bài viết

Cafe sáng