Phía sau trang sách

Tuyết: Thứ tro trắng chôn lấp những hi vọng

Sau thành công vang dội của “Tên tôi là Đỏ”, Orhan Pamuk tiếp tục chứng tỏ ông là ứng cử viên sáng giá cho giải Nobel với “Tuyết” – tác phẩm được Margaret Atwood ca tụng là “cuốn sách không thể thiếu của thời đại chúng ta”.

Published

on

Tiểu thuyết tựa lối đi nhỏ xuyên qua bầu không khí mờ ảo được tuyết che phủ để tìm đến trái tim của những kẻ khắc khổ bị đóng băng từ tận bên trong. Những con người ấy, những người sống trong vòng tay của tuyết, ngày ngày đắm chìm vào cái lạnh buồn bã đẹp vô hạn, liệu họ thấy gì từ tinh thể sáu cạnh huyền ảo tinh khôi, hay chưa kịp chạm đến đã vỡ tan. Tôi cứ tưởng có thể bắt gặp cảnh tượng này ở mọi nơi có tuyết. Nhưng tôi phải chờ đến Kars, thành phố tuyết, khi cái đẹp và sự đổ vỡ cách nhau chỉ trong gang tất mới cảm nhận rõ ràng được. Và lắm lúc, Orhan Pamuk đẩy ranh giới đó về zero, biến mọi chuyện trở nên khó đoán sau bức màn trắng xóa. Tuyết hội tụ đủ các yếu tố làm nên tên tuổi Orhan Pamuk, mặt khác cũng chứa đựng những bí mật của riêng nó.

Tóm tắt tác phẩm:

Tiểu thuyết xoay quanh hành trình kiếm tìm hạnh phúc đích thực đời mình của thi sĩ Ka – một người sống lưu vong sau mười hai năm trở về quê nhà để gặp mặt người bạn học Ipek. Xen lẫn câu chuyện tình yêu là bức tranh chính trị đẫm mùi khói súng ở thành phố biên giới Kars diễn ra giữa các thế lực Hồi giáo cực đoan và nhà nước thế tục với những khát vọng khó hiểu của những kẻ lãnh đạo (Lam và Sunay Zaim). Điểm tô bức tranh rối rắm đó là tin đồn về những cô gái tự sát để phản đối lệnh cấm khăn trùm đầu cùng số phận bi thảm của những thiếu niên Hồi giáo trẻ trung vô tình trở thành nạn nhân hay bất đắc dĩ phải làm nhân chứng cho tấn thảm kịch. Tất cả diễn ra trên nền cơn bão tuyết suốt ba ngày ba đêm biến Kars thành một màu trắng chết chóc.

Giống như Patrick Modiano của những con phố Paris, Mạc Ngôn gắn bó với miền đất Cao Mật hay như Dublin qua ngòi bút James Joyce; Orhan Pamuk là nhà văn sinh ra từ một thành phố – đứa con của Istanbul. Những trang viết của ông thấm đẫm tình yêu và nỗi nhớ với cố đô văn hiến, trong gần như tất cả các tác phẩm của mình: từ tiểu thuyết lịch sử Pháo đài Trắng, hay như Cuốn sách Đen viết tại New York, cho tới dấu ấn nghệ thuật của Tên tôi là Đỏ, cùng câu chuyện tình yêu tại Bảo tàng Ngây thơ và đỉnh cao phải kể tới Istanbul – Hồi ức và thành phố. Ngay từ những trang đầu của Istanbul, Orhan Pamuk đã khẳng định:

Conrad, Nabokov, Naipaul – những nhà văn này được biết đến là do đã thành công trong việc thiên di giữa các ngôn ngữ, quốc tịch, văn hóa, xứ sở, đại lục, và ngay cả nền văn minh. Trí tưởng tượng của họ lấy dưỡng chất từ sự lưu vong, một sự nuôi dưỡng được chiết ra không phải từ gốc rễ, mà từ việc không có gốc rễ. Tuy nhiên, sự tưởng tượng của tôi đòi hỏi tôi phải ở lì trong cùng một thành phố, cùng một con đường, cùng một căn nhà, nhìn mãi vào một cảnh tượng. Số phận của Istanbul là số phận của tôi. Tôi gắn liền với thành phố này bởi vì nó đã làm cho tôi trở thành tôi như bây giờ.

Điều này biến Tuyết trở thành tác phẩm đặc biệt của ông, xét về mặt bối cảnh. Lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất tính tới thời điểm hiện tại, Orhan Pamuk để cho câu chuyện không xảy ra ở Istanbul mà ở Kars. Kars là tên thành phố biên giới phía đông bắc của Thổ Nhĩ Kỳ, đồng thời trong tiếng Thổ, kar lại có nghĩa là tuyết. Kars có thể được coi như là nước Thổ thu nhỏ, với một cộng đồng đa sắc tộc gồm người Thổ, người Kurd, người Azerbaijan và cả người Armenia – đây đã từng là thủ đô của Armenia và cũng chính tại đây họ rơi vào cuộc thảm sát. Cùng một thời điểm, ở Kars luôn tồn tại các thế lực Hồi giáo chính trị mâu thuẫn với nhà nước thế tục lẫn một bộ phận nhỏ người dân theo đạo Cơ đốc. Bằng cách mượn tuyết để xóa đi các dấu vết đặc trưng của Kars, nhà văn biến Kars thành một thực thể sống nơi ông thỏa sức tạo nên các ý niệm của mình. Thành phố bị tuyết chia cắt bây giờ trông cứ như con rùa khổng lồ cõng trên lưng hòn đảo, làm cho hòn đảo tách biệt với đại dương. Nếu đồng nhất Orhan Pamuk với Istanbul, thì Kars sẽ là người bạn đặc biệt của ông, thành phố thổ lộ cho ông nhiều hơn vẻ bề ngoài của nó. Khi trở lại với vẻ bề ngoài, mặc dù nhà văn luôn phủ nhận mình là nhà hoạt động chính trị, nhưng Kars, với các đặc điểm kể trên, rõ ràng là mảnh đất màu mỡ cho những chính khách phô diễn tài năng. Orhan Pamuk không hề giấu diếm toàn cảnh bức tranh chính trị ấy, tuy vậy, lại chẳng dễ dàng để lần ra quan điểm của ông. Xét về nội dung, điểm này cũng đặc biệt không kém. Nhưng liệu chỉ có chính trị?

Không khó tìm thấy câu trả lời. Nó nằm ngay lối vào câu chuyện, những dòng miêu tả một người đàn ông giữa lúc say ngủ:

Ông sống lưu vong đã được mười hai năm bên Đức song chưa bao giờ bận tâm nhiều đến chính trị. Lòng đam mê đích thực, mọi suy nghĩ của ông, là đều dành cho thi ca.

Vài dòng đơn giản nhưng hàm chứa cả cuốn sách. Người đàn ông ấy tên Kerim Alakuşoğlu, vì không ưa cho lắm nên ông tự gọi mình là Ka. Một người đàn ông sống lưu vong song chưa bao giờ bận tâm chính trị, và suy nghĩ của ông hướng về thi ca. Thi ca, chính thi ca mới là điểm đích thực cần quan tâm chứ chẳng phải chính trị hay bất cứ điều gì khác. Như vậy, nhà văn không ngần ngại gợi ý cho chúng ta, những độc giả bị khung cảnh của Kars làm choáng ngợp, rằng chúng ta phải tiếp cận cuốn sách theo hướng văn chương, hãy tìm kiếm chất thơ đằng sau mỗi câu chuyện, chớ để vẻ ngoài chính trị kia đánh lừa mà vô tình ta biến thành người lưu vong ở Kars.

Ka quay về Kars nhằm kiếm tìm hạnh phúc sau những năm dài tha hương và cũng tại đây, nhà thơ bị kéo vào một cuộc đảo chính, bị kẹp vào giữa Hồi giáo chính trị và giới quân sự Thổ. Bi kịch xảy đến buộc một người Âu hóa như ông đối mặt với sự lựa chọn tâm linh. Ông đã phải đấu tranh nội tâm rất lâu giữa việc tin hay không tin vào Thượng đế. Cho đến lúc Ka chết, tôi tin cán cân vẫn chưa ngã hẳn về bên nào. Càng bất hạnh hơn khi không những không có được hạnh phúc, Ka còn chẳng thể quay về được thời điểm bất hạnh trước kia. Cuộc đời ông cứ trượt dài trong nỗi bế tắc. Vào những giây phút hạnh phúc ngắn ngủi của mình, Ka sống với nỗi âu lo bất hạnh thường trực nhưng tại những giờ khắc đen tối nhất nhà thơ lại cảm thấy hạnh phúc. Cảm xúc hỗn loạn đã đưa Ka vào thế giới đa chiều của tuyết – tinh thể sáu cánh trong suốt có tâm chính giữa với ba trục tưởng tượng xoay tròn nhiều vòng trong không trung trước khi chạm đất – niềm cảm hứng để lần đầu tiên sau bốn năm Ka mới viết được thơ, bài thơ đề tên Kar – Tuyết.

Để làm việc đó, ông vẽ ra một tinh thể tuyết riêng dựa theo hình các bông tuyết trong sách vở, sau đó ông xếp tất cả các bài thơ sáng tác ở Kars lên chỗ của chúng. Hệt như cấu trúc của cuốn thơ mới, tất cả những gì đã biến con người ông thành thi sĩ Ka, được vẽ lên tinh thể tuyết này. Theo quan điểm của ông, mỗi người phải có một bông tuyết như vậy, một dạng bản đồ tâm linh của cuộc đời. Các trục HỒI ỨC, LÝ TRÍ và TUỞNG TUỢNG Ka mô phỏng từ sơ đồ cây tri     thức con người của Bacon. Ông cũng viết rất cụ thể và tường tận về những nỗ lực của mình nhằm giải thích ý nghĩa của các điểm trên nhánh rẽ của hình lục lăng này.

Ảnh: listelist.com

Căn tính của Ka, cái chất làm nên con người ông cô đọng trong Tuyết thông qua những cái tên và những liên tưởng. Có lẽ vì vậy, định mệnh đã an bài cho Tuyết và Ka cùng một kết cục. Ông không thể hoàn thành được nó, dù sau khi trở lại Đức thời gian của ông còn nhiều. Số phận hay là Thượng đế mà ông chẳng thực lòng tin đã vĩnh viễn khép lại mong muốn hóa thân thành bông tuyết của Ka: là Ka chứ không phải là kar hay Kars, không phải là Tuyết. Trước khi kịp chạm đất, bông tuyết của ông bị cơn gió làm vỡ thành nhiều mảnh và ông sẽ mãi khuyết đi một phần của mình. Ông chẳng bao giờ tìm lại được phần linh hồn mất đi đó, bởi nó đã biến mất sau khi tuyết ở Kars tan chảy. Ôm theo sự mất mát ấy, Ka sống trong nỗi cô đơn những năm cuối đời, một cuộc đời dang dở Kars trao cho ông đồng thời lấy mất của ông. Cuối cùng tuyết sẽ lại tan. Rồi Ka chết.

Hà cớ gì Ka phải đi đến lựa chọn sống còn như vậy? Không chọn hay chọn cả hai có được chăng? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần xoáy sâu vào đời sống ở Kars: Hồi giáo chính trị, nước Thổ thế tục, những chiếc khăn trùm đầu và cả về những số phận dở dang khác. Trước tiên là xung đột đức tin, và nói tới đức tin không thể thiếu Hồi giáo, thứ có vị trí đặc biệt quan trọng trong văn chương Orhan Pamuk, xuất hiện với tần suất gần như tuyệt đối. Nhưng phải tới Tuyết, tôn giáo này được đẩy lên cực độ, trở nên sống còn của toàn tiểu thuyết. Orhan Pamuk có một tình yêu đặc biệt với đất nước ông, nhà văn đưa Kars trở về màu sắc đặc trưng của Thổ Nhĩ Kỳ: cái ngã ba của thế giới, từ thành Troy cổ đại cho tới những Consantinople rồi Istanbul và những Erzurum, Kars; nơi suy nghĩ con người luôn chia làm hai như eo Bophorus vĩ đại. Tại đất nước này, người ta hoặc sống trong đức tin mãnh liệt về một Thượng đế chí tôn hoặc quay lưng lại với nó. Khi hai thái cực chẳng thể dung hòa, xung đột xảy ra và máu sẽ đổ. Cuộc đối đầu giữa hai nhân vật Lam và Sunay Zaim, những vụ khủng bố của phe Hồi giáo và những cuộc đảo chính của phe thế tục, là một ví dụ điển hình của nước Thổ. Lam và Sunay Zaim, gọi chung là nhà hoạt động chính trị, sẽ chẳng bao giờ hình dung ra hậu quả to lớn họ tạo ra từ lời nói con con. Rồi lúc bọn họ chết, thì đó là chết cho lý tưởng, cho những điều họ bảo vệ, không lâu sau sẽ trở thành những huyền thoại, tượng đài được tôn vinh kính ngưỡng. Vậy còn những người như Necip, Fazil thì sao? Đây mới là tầng lớp hứng chịu hậu quả nặng nề nhất. Cả hai chỉ là những học sinh tôn giáo trẻ trung đầy nhiệt huyết, đang sống những tháng ngày hồn nhiên nhất của cuộc đời. Ở cái tuổi ấy, Thượng đế mới manh nha tồn tại trong đức tin các cậu bé. Chẳng phải khi xưa chính Muhammad cũng phải tới bốn mươi tuổi mới nhận được thiên khải đó ư. Đoàng một phát, trái tim non nớt của Necip vỡ vụn, tôi cảm nhận được lúc ấy, tận sâu thẳm trong Fazil đã bắt đầu xuất hiện vết nứt. Chàng trai mãi mãi chẳng tìm thấy đức tin được nữa, vầng trăng lưỡi liềm chàng hằng ao ước thẫm một màu máu. Chàng gục ngã ngay trước cổng thiên đàng, thiên đàng màu trắng có bông tuyết nhỏ tan vào giữa con ngươi và Thượng đế của chàng biến mất khi còn chưa thành hình. Hỡi tuyết kia, ai cho ngươi rơi trên những ước vọng?

Với sự thật đau buồn này, tôi tin rằng Orhan Pamuk đang muốn cho cả thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây thấy rằng: Hồi giáo không phải tà giáo, và vẫn còn đó rất nhiều cậu trai như Necip, những người không bao giờ bị bạo lực vấy bẩn.

Nếu có một điểm tương đồng được tất cả những người ngồi đầu và giữa phòng     thống nhất, thì Necip nhận ra có đạn thật sau loạt súng thứ ba, song cậu lại hiểu sự kiện đó theo một hướng riêng.

Hai giây trước khi trúng đạn, cậu đứng dậy và nói đủ to để nhiều người nghe thấy (tuy không được thu vào băng video):“Dừng lại, đừng bắn! Súng có đạn thật đấy!”

Những gì mọi người trong phòng đến lúc này đã cảm thấy bằng trái tim nhưng lý trí vẫn cố cưỡng lại, thế là đã được nói ra.

Phía bên kia thành phố là Kadife và cuộc chiến giữa những chiếc khăn trùm đầu. Khác với những bạn bè đồng trang lứa của mình, Kadife không chọn cách tự tử để phản đối. Cô ví việc mình tháo khăn trùm đầu như là biểu tượng đấu tranh. Những người phụ nữ, đặc biệt những cô bé như Kadife chẳng còn có thể sống đời bình thường được nữa. Họ sống trong sự dở dang do cái bóng quá lớn của chiếc khăn tạo ra. Họ trở thành quả bóng mà dù Hồi giáo chính trị hay Nhà nước thế tục đều muốn đá về cầu môn đối phương. Chẳng ai đứng ra nhận lấy trách nhiệm về những thiếu nữ tự tử cả, chỉ toàn đổ lỗi lẫn nhau. Kadife, có lẽ cô cũng không nhận ra mình cũng chỉ là quả bóng. Cứ cho rằng cô là quả bóng gai góc đi nữa, thì điều cô làm được bất quá làm xước chân các nhà hoạt động chính trị. Cuối cùng rồi cô sẽ bị đá đi. Nếu may mắn, cô giữ được cuộc sống. Còn không, quả bóng xì hơi và xẹp xuống. Nó muôn đời nằm đó trên sân, đừng mơ có ai nhặt lấy, suy cho cùng ai lại muốn quả bóng xẹp chứ. Cho tới khi một đợt tuyết mới rơi xuống, lấp đi cái hố quả bóng tạo ra, và làm mọi thứ đều trông trăng trắng giống nhau. Dưới lớp tuyết dày, tôi tưởng chừng không thể bắt kịp những phụ nữ ấy, tuyết làm cho họ bí ẩn hơn và đẹp hơn, nhưng điều đó chỉ làm cho đàn ông say đắm họ hơn. Ka đã yêu họ, tôi cũng yêu họ.

“Ông xem xét cuộc đời quá đỗi đơn giản,” Kadife bác lại. “Thay cho tự sát vì tình, người ta chỉ cần đợi ít lâu là tình yêu sẽ không còn giằng xé. Nghèo đói cũng không phải nguyên nhân thực thụ. Những người không chịu nổi đòn roi có thể lấy trộm ít tiền của chồng rồi bỏ trốn, như thế giản dị hơn nhiều.”

“Thôi được vậy lý do thực sự là gì?”

“Tất nhiên lý do thực sự của mọi cuộc tự sát là lòng kiêu hãnh. Ít nhất thì với    đàn bà.”

“Vì lòng kiêu hãnh của họ bị tổn thương trong tình yêu?”

“Ông không hiểu gì hết!” Kadife đáp. “Phụ nữ không tự sát vì lòng kiêu hãnh của họ bị tổn thương, mà để chứng tỏ họ kiêu hãnh chừng nào.”

Như một nguyên lý nhị nguyên tất yếu, tình yêu ở Kars ra đời từ sự chia rẽ và cùng lúc sự chia rẽ làm tình yêu càng thêm mãnh liệt. Với những người phụ nữ và những người đàn ông đặc biệt như thế, dễ dàng nhận ra tình yêu giữa sẽ không đi theo logic thông thường. Đó không phải là thứ tình cảm theo kiểu phương Tây mà cũng chẳng phải ngôn tình phương Đông, nó mang màu sắc nước Thổ rõ rệt. Tại Kars, tính cách Thổ phát lộ hơn bao giờ hết trong mối tình của Ka, Ipek, Lam và Kadife.


Nếu buộc phải mô tả tình yêu ở Kars, tôi không có cách nào tốt hơn mượn bông tuyết của Ka. Trong bông tuyết của tôi, cũng có ba trục toạ độ: Lý trí, Tưởng tượng và Hồi ức; những tình cảm, những câu chuyện trên ba trục sẽ ảnh hưởng lẫn nhau tuỳ theo mức độ liên quan xa gần. Tình yêu, sẽ là tâm của bông tuyết. Nó giữ cho tinh thể trong suốt ấy xoay vòng trong không trung đủ để các trục giao thoa với nhau nhưng không đủ để xoá bỏ các trục. Sau đó nó sẽ hoặc tan chảy hoặc hoà vào tầng tầng lớp lớp các bông tuyết ngày đêm phủ lấy Kars. Kết quả tạo ra thật mỹ mãn, bức tranh tình yêu trở nên trắng và lạnh, đẹp và mờ ảo hơn bao giờ hết. Cuối cùng, khi tuyết ngừng rơi, tình yêu không biến mất mà chuyển vào những dạng hình khác bí ẩn không kém trong vòng tuần hoàn của tuyết. Rất khó duy trì một cân bằng xúc cảm tinh tế đến như vậy suốt cuốn tiểu thuyết, và Orhan Pamuk lần nữa chứng minh tài năng của ông.

Ka luôn luôn trải nghiệm một khoảnh khắc hạnh phúc trong kinh sợ, cốt để sự bất hạnh nối tiếp không quá lớn. Do vậy mà lúc này trong khi ôm Ipek – vì tình yêu thì ít mà vì nỗi sợ sinh ra từ đó thì nhiều – ông tin rằng cô sẽ khước từ ông, rằng sự gần gũi đang nảy nở sẽ đột ngột tan vỡ, và niềm hạnh phúc không xứng đáng của ông sẽ biến thành sự khước từ và tủi hổ xứng đáng, song cũng nhờ thế mà ông sẽ tìm được thanh thản cho mình.

Chỉ một mảnh ghép nữa là bức tranh hoàn chỉnh: Orhan – người kể chuyện. Cũng giống nhiều tiểu thuyết khác của mình, Orhan Pamuk lại xuất hiện trong Tuyết khi cơn bão đã tan, khi mọi việc đi đến hồi kết. Nhưng như vậy không có nghĩa là vai trò của ông không quan trọng. Nhà văn duy trì bản thể của mình ở lằn ranh giữa cái bên trong và bên ngoài, giữa thế giới tiểu thuyết và thế giới thực. Việc dung hòa hai thái cực dẫn tôi tới câu hỏi lớn về sự tồn tại: liệu một nhà văn sẽ làm đến mức nào để giữ hay loại bỏ sự hiện diện của mình đối với độc giả? Nếu ở Tên tôi là Đỏ, tiếng nói của cậu bé Orhan yếu ớt chỉ có thể cảm thán mà không thế thay đổi câu chuyện thì tại Tuyết, bóng dáng người kể chuyện Orhan Pamuk dường như có mặt trong cả tiểu thuyết mặc dù thứ ông tạo ra được chỉ là những dòng tự sự từ ký ức của thi sĩ Ka bạn ông. Điều này tạo cho tôi một nghi ngờ liệu rằng đó có phải là Ka hay là Op (rút gọn theo cách của Ka) hay phải chăng Ka chính là Op. Tuy vậy, tôi không cố đào sâu tìm hiểu chân tướng vì đó có thể là cạm bẫy hay lối cụt mà một khi dấn bước, tôi sẽ tìm thấy con người khác không chỉ của Ka hay Op mà còn của tôi. Tôi càng nghi ngờ hơn và càng không dám nghi ngờ. Tôi chấp nhận rằng cũng như tôi, Op đã bỏ một phần của ông ấy lại ở Kars.

Ảnh: IMDb.com

Để kết thúc, tôi xin mượn lời Fazil nói với Orhan ở cuối tác phẩm:

“Nếu ông để tôi xuất hiện trong một cuốn tiểu thuyết nói về Kars thì tôi muốn nói với độc giả rằng họ không nên tin những gì ông viết về tôi, về tất cả chúng tôi. Không ai hiểu được chúng tôi khi xa cách như thế.”

Vì vậy bạn cũng đừng tin tôi mà hãy dấn thân vào Tuyết để tìm niềm tin của riêng mình.

Hết.

3V

Xem tất cả những bài viết của 3V tại đây.


Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Những thương hiệu quốc dân ‘vang bóng một thời’

Theo VnExpress – Xà bông Cô Ba, máy may Sinco, nước ngọt Con Cọp, kem đánh răng Hynos và Dạ Lan từng là những cái tên dẫn đầu thị trường, nhưng dần sa sút khi công ty chủ quản bỏ thương hiệu hoặc bán vốn cho đối tác.

Published

on

Xà bông Cô Ba là nhãn hiệu do ông Trương Văn Bền thành lập năm 1932 ở khu vực chợ hóa chất Kim Biên (quận 5, TP HCM).

Trong cuốn Sài Gòn tạp pín lù, học giả Vương Hồng Sển nói rằng hình ảnh in trên bao bì viên xà bông là cô Ba Thiệu, con thầy Thông Chánh, quê gốc Trà Vinh. Bà là người đăng quang cuộc thi hoa hậu đầu tiên tổ chức năm 1865 ở Sài Gòn. Tuy nhiên, cũng có thông tin khác cho rằng người phụ nữ này là vợ ông Trương Văn Bền. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Xà bông Cô Ba được ưa chuộng khắp miền Nam lúc bấy giờ nhờ chất lượng tốt, giá thành phải chăng. Theo lời học giả Vương Hồng Sển, xà bông "bán chạy vo vo", sản xuất đến đâu hết đến đó. Thương hiệu này có giai đoạn đánh bật sự độc quyền của Hãng xà bông Marseille (Pháp).

Đất nước thống nhất, công ty của ông Trương Văn Bền hoạt động theo mô hình doanh nghiệp nhà nước với tên gọi Nhà máy công tư hợp doanh xà bông Việt Nam, sau đó đổi tên thành Công ty Sản xuất và Thương mại Phương Đông. Sản phẩm xà bông Cô Ba dần vắng bóng khỏi thị trường. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Cuối năm 2017, Công ty Bất động sản An Dương Thảo Điền mua 48,68% cổ phần Công ty Phương Đông. Lãnh đạo công ty nói rằng Xà bông Cô Ba vẫn có chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng nên sẽ khôi phục dây chuyền sản xuất với sản lượng ước tính vài chục tấn mỗi năm, chủ yếu để bảo tồn thương hiệu gần trăm tuổi.

Chia sẻ với VnExpress, lãnh đạo An Dương Thảo Điền từng nói: "Tham gia ngành hàng tiêu dùng nhanh là cuộc chơi đòi hỏi vốn lớn và nhiều rủi ro, trong khi đây không phải thế mạnh của chúng tôi nên phương án được ưu tiên là hợp tác với các nhà sản xuất, phân phối có kinh nghiệm. Chúng tôi sẽ đóng góp công thức, bản quyền thương hiệu... để thành lập một liên doanh khôi phục Xà bông Cô Ba".

Trong ảnh là tòa nhà từng là trụ sở của xà bông Cô Ba nằm ở số 20 đường Kim Biên, bên hông chợ Kim Biên.

Nước ngọt Con Cọp có mặt ở hầu hết hàng quán ăn uống trước năm 1975 do tập trung vào phân khúc tiêu dùng bình dân, trong khi Coca-Cola thời đó ở phân khúc cao hơn. Đây là sản phẩm của Usine Belgique, nhà máy sản xuất nước giải khát lớn nhất miền Nam, thuộc tập đoàn BGI (Pháp). Nhà máy này cũng là nơi ra đời của bia Lade trái thơm và bia 33 Export.

Tờ áp phích có dòng chữ "nước ngọt Con Cọp mỗi chai, là nguồn vui mạnh kéo dài tuổi xuân" quen thuộc với người tiêu dùng. Ảnh tư liệu

Hai năm sau ngày đất nước thống nhất, Tập đoàn BGI chuyển quyền sở hữu và bàn giao toàn bộ nhà máy cho nhà nước với tên gọi Nhà máy nước ngọt Chương Dương. Nhãn hiệu Con Cọp biến mất từ đó, thay bằng các dòng sản phẩm xá xị mang thương hiệu Chương Dương. Ảnh lật sau là vị trí Công ty nước ngọt BIG nay là trụ sở công ty nước giải khát Chương Dương, 606 Võ Văn Kiệt.

Máy may Sinco ban đầu được nhập khẩu nguyên chiếc từ Nhật Bản, sau đó có nhà máy lắp ráp và đặt trụ sở chính trên đường Trần Hưng Đạo (quận 1 ngày nay). Nơi đây từng là biểu tượng quen thuộc của người dân Sài Gòn với biểu tượng máy may bàn đạp trên nóc tòa nhà. Hiện nay, tòa nhà đang được sử dụng làm cơ sở cho một phòng khám. Ảnh: Lynn Roylance

Trước ngày đất nước thống nhất, Sinco có đại lý phân phối khắp nội thành Sài Gòn và các tỉnh. Trong các tờ rơi quảng cáo, thương hiệu này giới thiệu ưu điểm chính là "may khéo, thêu đẹp, sửa chữa miễn phí" và cam kết bảo hành 20 năm. Sinco nổi tiếng với độ bền cao, thao tác đơn giản nên được nhiều gia đình và xưởng dạy nghề may ưa dùng.

Sau giải phóng, Sinco được quốc hữu hóa và trở thành Xí nghiệp liên hiệp Máy may Sinco. Doanh nghiệp này được cổ phần hóa những năm đầu 2000 và chuyển hướng sản xuất máy móc phục vụ công nghiệp và nông nghiệp như dây chuyền giết mổ gia cầm, chế biến lúa gạo, tiêu… Trụ sở công ty cũng được dời về huyện Bến Lức, Long An. Ảnh tư liệu

Hynos là hãng kem đánh răng do một người Mỹ gốc Do Thái thành lập và chuyển giao cho ông Huỳnh Đạo Nghĩa sau khi về nước.

Ông chủ mới nhanh chóng cải tiến mẫu mã và đưa Hynos tới gần người tiêu dùng bằng phương thức tiếp thị độc lạ thời đó: phát nhạc quảng cáo ra rả trên loa phóng thanh gần các cửa hàng bách hóa và đặt biển quảng cáo ở những vị trí đắc địa của Sài Gòn.

"Nụ cười anh Bảy Chà" và đoạn quảng cáo "trồng lúa mới có gạo mà ăn, thế mà có người đã phải trồng răng mới có răng mà ăn" làm nên thời kỳ hoàng kim của Hynos vào những năm cuối thập niên 60. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Không chỉ nổi tiếng trong nước, Hynos còn được bán sang các nước trong khu vực Đông Nam Á và Hong Kong, trở thành một trong những biểu tượng thương mại đương thời.

Thực hiện chính sách quốc hữu hóa sau ngày giải phóng, Hynos được nhà nước tiếp quản và sáp nhập với một công ty cùng lĩnh vực thành Xí nghiệp Kem đánh răng Phong Lan, sau đó đổi tên thành Công ty Hóa phẩm P/S. Công ty có giai đoạn chiếm tới 60% thị phần kem đánh răng ở miền Nam. Ảnh: Bill Mullin

Giữa năm 1997, Tập đoàn Unilever đề nghị lập liên doanh trên tinh thần "win-win" với tổng vốn đầu tư hơn 17 triệu USD.

Trong thời gian hợp tác, Hóa phẩm P/S chỉ đảm nhận việc gia công vỏ hộp bằng nhôm mà không được sản xuất kem đánh răng như trước. Sáu năm sau ngày bắt tay, công ty bị đánh bật khỏi liên doanh kèm cam kết về sau không được sử dụng thương hiệu nổi tiếng bậc nhất lúc bấy giờ trên bất kỳ sản phẩm nào.

Đầu năm 2007, những lãnh đạo cũ thành lập Công ty cổ phần P/S để gầy dựng lại hoạt động kinh doanh. Công ty ban đầu gia công vỏ nhôm cho các doanh nghiệp dược phẩm, sau đó sản xuất kem đánh răng mang dòng chữ Hynos cùng hình ảnh quen thuộc "nụ cười anh Bảy Chà". Hàng hóa được tiêu thụ trong các khách sạn, resort và cũng xuất hiện rải rác trên sàn thương mại điện tử. Ảnh: Tommy Japan/Flickr

Tương tự Hynos, kem đánh răng Dạ Lan cũng có một thời lừng lẫy đầu thập niên 90 khi chiếm tới 90% thị phần từ Đà Nẵng trở ra phía Bắc. Thương hiệu này từng có lợi nhuận vài lượng vàng mỗi ngày.

Ông Trịnh Thành Nhơn, người sáng lập Dạ Lan, tự nhận thương hiệu của mình thời đó "là con gái đang độ tuổi xuân sắc" nên được nhiều doanh nghiệp nước ngoài như Colgate, Unilever, P&G đặt vấn đề hợp tác.

Năm 1995, Dạ Lan ký hợp đồng liên doanh với Colgate - thương vụ mà ông Nhơn gọi là "sai lầm lớn nhất cuộc đời". Thương hiệu khi đó được định giá 3,2 triệu USD và ông nắm 30%, đồng thời giữ chức phó tổng giám đốc trong công ty liên doanh.

Chưa đầy một năm hợp tác, Colgate bảo Dạ Lan càng kinh doanh càng lỗ nên cần nhường chỗ cho sản phẩm mang nhãn hiệu của họ. Colgate sau đó thông báo đã dùng hết vốn góp và vay ngân hàng. Khi ông Nhơn đồng ý góp thêm 10 triệu USD với điều kiện được làm tổng giám đốc, có toàn quyền điều hành, đối tác bác bỏ và khơi mào việc phá sản. Ảnh: Ông Trịnh Thành Nhơn cung cấp

Sau vài lần đàm phán căng thẳng, Colgate mua lại cổ phần của ông Nhơn với giá 5 triệu USD kèm điều kiện ông không được tham gia ngành hàng này trong 5 năm tiếp theo.

Ông Nhơn nỗ lực vực dậy thương hiệu Dạ Lan từ khoảng 2016, nhưng tự thừa nhận khoảng cách với những đơn vị dẫn đầu như P/S hay Colgate còn rất xa.

Ông cho biết mỗi ngày đều cố gắng phát triển lại Dạ Lan để bàn giao cho thế hệ sau này. "Tôi không can tâm nhìn con cái tiếp quản một công ty thua lỗ triền miên do mình gây nên. Khi tiền bạc bây giờ không phải là ưu tiên hàng đầu, tôi có một điều bất di bất dịch là không được để mất thương hiệu Dạ Lan bằng bất cứ giá nào", ông nói. Ảnh: Anh Nguyên

Phương Đông - Quỳnh Trần (Theo VnExpress)

Đọc bài viết

Cafe sáng