Sáng tác

Truyện ngắn: Mèo ăn thịt người (Murakami Haruki)

Tôi mua một tờ báo tại bến cảng và lướt qua bài viết về một người phụ nữ lớn tuổi bị lũ mèo ăn thịt. Bà đã bảy mươi tuổi và sống một mình ở vùng ngoại ô nhỏ gần Athens.

Published

on

1

Tôi mua một tờ báo tại bến cảng và lướt qua bài viết về một người phụ nữ lớn tuổi bị lũ mèo ăn thịt. Bà đã bảy mươi tuổi và sống một mình ở vùng ngoại ô nhỏ gần Athens – một cuộc sống êm đềm, chỉ có bà và ba con mèo bà nuôi cùng sống trong căn hộ một buồng nhỏ. Ngày nọ, bà lão đột ngột ngã quỵ trong tư thế úp mặt xuống ghế sofa – chắc là một cơn trụy tim. Chẳng ai biết đã phải mất bao lâu khiến bà qua đời sau khi bị ngã quỵ xuống thế. Bà lão vốn không có bất cứ thân thích nào, kể cả bạn bè hay qua lại thăm nom, và phải trải qua cả một tuần trước khi thi thể của bà được phát hiện. Các cửa nẻo trong nhà đều đóng chặt, khiến cho lũ mèo bị mắc kẹt. Đồ khô, hoặc chắc phải có chút gì ăn được trong tủ lạnh, nhưng bọn mèo tài nào đột biến đến mức tự mở cửa tủ được. Trên bờ vực của sự chết đói, lũ mèo buộc phải ăn thịt của chủ chúng.

Tôi đọc bài báo này cho Izumi nghe, nàng đang ngồi ở phía đối diện tôi. Vào những ngày hửng nắng, nàng và tôi thường thả bộ xuống bến cảng, mua một tờ báo Athens bản tiếng Anh và gọi cà-phê ở cửa tiệm gần sở thuế, rồi tôi sẽ tóm tắt lại bằng tiếng Nhật bất cứ điều gì hay hay mình đã xem qua. Đó là mức độ lịch trình hằng ngày của chúng tôi trên đảo. Nếu có vài chuyện gì đó đặc biệt gây hứng thú cho cả hai, thì tôi và nàng sẽ bắt đầu tranh luận một lúc. Tiếng Anh của Izumi khá sõi, nàng có thể tự đọc hết các bài viết một mình. Nhưng tôi chưa bao giờ thấy nàng đụng đến tờ báo nào.

“Em thích có người đọc cho mình nghe”, nàng giải thích. “Mơ ước từ bé đấy. Em là một đứa trẻ – được ngồi ở một nơi đầy nắng, ngó lăm lăm lên bầu trời hay biển gì đấy, rồi có người đọc to lên cho em nghe. Em cũng không quan tâm đến những gì họ đọc – báo, sách giáo khoa, truyện tiểu thuyết. Gì cũng được. Nhưng chẳng có ai làm điều này cho em trước đó cả. Nên em nghĩ rằng anh đang lấp đầy những cơ hội bị mất ấy. Mà, em cũng thích giọng của anh.”

Thì chúng tôi đang có cả bầu trời và bờ biển ở đây. Tôi cũng rất tận hưởng cảm giác đọc to lên thành tiếng. Khi còn ở Nhật, tôi vẫn thường đọc to sách ảnh lên cho cu con mình nghe. Đọc to thành tiếng là một điều khác hẳn so với việc đọc bằng mắt. Một điều gì đó bất ngờ vọng lên trong tâm tưởng của bạn, một loại cộng hưởng khác khó xác định khiến tôi cảm thấy khó cưỡng lại được.

Nhấp một ngụm cà-phê đắng, tôi chầm chậm đọc mẩu tin ngắn cho Izumi. Tôi thử tự đọc trước vài dòng, nghiền ngẫm xem thế nào để chuyển chúng qua tiếng Nhật, sau đó thì dịch lớn. Vài con ong bất thần xuất hiện trong vô định để liếm chút mứt vị khách trước đó đã làm dây lên bàn. Chúng mất một lúc để vỗ cánh, rồi như chợt nhớ ra điều gì, chúng lượn vài vòng trong không khí như một nghi thức bay đầy kiểu cách, vo ve vòng quanh bàn đôi lần, rồi sau đó – lại thêm vài lần nữa như để khởi động lại bộ nhớ – mới đậu xuống mặt bàn. Sau khi tôi đọc hết toàn bài báo, Izumi vẫn ngồi đó, bất động, khuỷu tay chống lên mặt bàn. Nàng đặt những đầu ngón tay của bàn tay phải đối lên những ngón của bàn tay trái thành hình một chiếc lều. Tôi khẽ đặt tờ báo lên đùi mình và nhìn chằm chằm vào bàn tay thon nhỏ của nàng. Còn nàng thì nhìn tôi qua khe hở giữa những ngón tay mình.

“Rồi sao nữa?” nàng hỏi.

“Thế thôi”, tôi đáp, và gấp tờ báo lại. Rút chiếc khăn mùi-xoa ra khỏi túi rồi lau vệt cà phê đọng lại trên khóe môi. “Ít ra đó là tất cả những gì bài báo đề cập.”

“Nhưng điều gì đã xảy ra với bọn mèo chứ?”

Tôi nhét chiếc khăn mùi-xoa lại vào túi. “Anh không biết. Nó không nói.”

Izumi bĩu môi qua một bên, đây là một thói quen nhỏ của riêng nàng. Bất cứ lúc nào khi nàng định đưa ra ý kiến? Khi luôn phải điền vào một mẫu đơn khai báo ngắn? Nàng sẽ thường bĩu môi như thế, như thể đang giật mạnh một tấm ga trải giường mịn mướt thì lại lòi ra một nếp nhăn đi lạc. Thuở ban đầu khi mới gặp nàng, tôi cảm thấy thói quen này thực sự cuốn hút.

“Báo chí toàn cá mè một lứa cả, dù anh có đi đến tận đẩu tận đâu”, cuối cùng nàng tuyên bố. “Chả bao giờ họ chịu cho mình biết những điều mình muốn biết cả.”

Nàng lấy một điếu Salem ra khỏi hộp, đưa lên môi, và quẹt một que diêm. Mỗi ngày nàng đều hút một gói Salem – không hơn, không kém. Nàng bóc một gói mới vào buổi sáng và hút cạn nó cho đến cuối ngày. Tôi thì không hút thuốc. Vợ tôi đã khiến tôi bỏ thuốc lá vào 5 năm trước, khi cô ấy đang mang thai.

“Cái mà em thực sự muốn biết ấy à?” Izumi mào đầu, những lọn khói từ điếu thuốc của nàng âm thầm cuộn mình vào không khí, “Là đã xảy ra chuyện gì với lũ mèo sau đó? Phải chăng các cơ quan chức năng đã giết hết bọn chúng vì bọn chúng nhỡ ăn tươi con người? Hay là họ đã nói “Chúng mày đã thật sự trải qua một khoảng thời gian khó khăn rồi”, rồi vỗ nhẹ vào đầu chúng và cho lên đường luôn? Anh nghĩ sao?”

Tôi nhìn chằm chằm vào lũ ong đang bay vo ve trên bàn và nghĩ về chuyện đó. Trong một khoảnh khắc, lũ ong nhỏ đang bồn chồn liếm mứt và ba con mèo đã nuốt thịt bà lão chợt gộp thành một trong tâm trí tôi. Một con hải âu đang kêu quàng quạc chói tai chồng chéo với tiếng ù ù của lũ ong, rồi trong một hoặc hai giây gì đó ý thức của tôi đã đi lạc trên biên giới giữa thực tế và vô thực. Tôi đã ở đâu? Và tôi đang làm gì ở đây? Tôi không thể níu kéo lấy thực tại. Tôi hít một hơi sâu, nhìn đăm đắm lên trời, và quay sang Izumi.

“Anh không có ý tưởng gì cả.”

“Nghĩ thử xem, nếu anh là thị trưởng hay cảnh sát trưởng của thành phố đó thì anh sẽ làm gì với lũ mèo?”

“Làm sao để tống chúng vào một trại giáo dưỡng” Tôi nói. “Cải tạo chúng thành một đám mèo ăn chay.”

Izumi không hề nhếch mép cười. Nàng kéo một hơi thuốc và từ từ nhả ra một luồng khói. “Chuyện này làm em nhớ về một bài giảng sau khi em bắt đầu vào học ở trường dòng cấp 2. Em đã nói với anh là em từng học ở một trường dòng rất nghiêm ngặt chưa? Ngay sau lễ khai giảng thôi, một trong các bà sơ đứng đầu đã xếp chúng em vào trong một khán phòng, sau đó bà lên bục giảng và bắt đầu thuyết giáo về giáo lý Công Giáo. Bà nói với chúng em rất nhiều thứ? Nhưng mà những chuyện em nhớ nhất là gì? Điều duy nhất thực sự làm em nhớ rõ ư? Đó chính là chuyện bị đắm tàu trên một hòn đảo sa mạc cùng với một con mèo.”

“Nghe thú nhỉ”, tôi tiếp lời.

“Các em đang ở trong một con tàu đắm”, bà nói với chúng em. “Những người duy nhất được nằm trong xuồng cứu sinh là em và một con mèo. Rồi em dạt vào một hòn đảo hoang vô danh và không có bất cứ thứ gì ăn được. Tất cả những gì các em có là lượng nước và số lương khô đủ cho một người ăn trong cỡ mười ngày”. Bà nói tiếp, “Phải, tất cả các em, tôi muốn các em hãy thử hình dung mình trong hoàn cảnh đó. Nhắm mắt lại và cố tưởng tượng ra nó. Các em đang bị lạc trong hoang đảo, chỉ có em và một con mèo. Em không có nhiều thực phẩm để ăn. Các em có hiểu không? Em đang đói rã rời và khát cháy cổ, và cuối cùng em sẽ chết. Em nên làm gì? Có nên chia sẻ chút thực phẩm dự trữ ít ỏi cho con mèo ấy hay không? Không, các em không nên làm vậy. Đó sẽ là một sai lầm. Các em là những tạo vật trân quý được chính Đức Chúa Trời chọn, còn con mèo thì không. Đó là lý do vì sao các em nên ăn hết số đồ ăn dự trữ ấy một mình.” Các bà sơ đã cho chúng em một cái nhìn nghiêm trọng chết người như thế. Em thậm chí đã bị shock một tẹo. Điều gì có thể trở thành vấn đề cấp thiết đến mức phải kể một câu chuyện thế này cho lũ chíp hôi mới bắt đầu nhập học ở trường cơ chứ? Em đã thầm nghĩ rằng, ồ quao, mình đang được giao trứng cho một nơi kiểu gì thế này?”

2

Izumi và tôi đang sống trong một căn hộ cao cấp trên một hòn đảo Hy Lạp nhỏ. Đây là mùa nghỉ, và hòn đảo không hẳn là một địa điểm du lịch, vì vậy giá thuê khá rẻ. Không ai trong hai chúng tôi đã nghe về hòn đảo này trước khi đặt chân đến đó. Nó nằm cạnh biên giới Thổ Nhĩ Kỳ, vào những ngày trời trong nắng đẹp, bạn có thể nhìn ra được những ngọn núi xanh của Thổ. Còn những hôm lộng gió, dân địa phương nói giỡn rằng thậm chí còn có thể ngửi thấy được mùi thịt nướng xiên luôn. Bỏ mấy chuyện giỡn hớt ấy qua một bên, hòn đảo của chúng tôi nằm cạnh bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ rồi mới đến hòn đảo Hy Lạp gần nhất kế tiếp, và ở đó – thấp thoáng ngay trước mắt – chính là vùng Tiểu Á.

Giữa quảng trường thành phố có đặt một bức tượng anh hùng của nền độc lập Hy Lạp. Ông đã lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa trên đất liền của Hy Lạp và lên kế hoạch nổi dậy chống lại quân Thổ Nhĩ Kỳ, về sau bọn này đã chiếm quyền kiểm soát hòn đảo. Nhưng quân Thổ đã bắt được và tra tấn ông đến chết. Chúng dựng lên một chiếc cọc sắt sắc nhọn giữa quảng trường gần bến cảng, lột truồng vị anh hùng vô phương chống cự và đặt hạ thân ông ta xuống cọc. Sức nặng của cơ thể đẩy lút cây cọc qua hậu môn, xuyên qua phần còn lại của thân người cho đến khi nó chui ra khỏi miệng ông. Một cách hành hạ cực kỳ chậm và dã man để bức tử. Bức tượng được dựng lên ngay tại chỗ được cho là đã xảy ra sự việc. Khi nó được xây dựng lần đầu, hẳn nó đã phải gây ấn tượng lắm, nhưng ở thời điểm hiện tại khi kinh qua đủ gió biển, bụi đất và phân của lũ mòng biển thậm chí còn khiến người ta không thể nhìn ra được từng đường nét đặc trưng của người đàn ông. Dân địa phương hầu như còn không thèm liếc qua bức tượng ấy một cái, và người anh hùng trông như thể đã quay lưng lại với tất cả mọi người, hòn đảo này, và cả thế giới.

Khi Izumi và tôi ngồi ở cửa tiệm cà-phê ngoài trời quen thuộc, nhấm nháp chút cà-phê hoặc bia, lơ đãng nhìn ra những chiếc thuyền neo ở bến cảng hay những ngọn đồi Thổ Nhĩ Kỳ xa xăm, như thể chúng tôi đang ngồi ở rìa Âu Châu. Những ngọn gió này là những ngọn gió thổi ở rìa thế giới. Một thứ sắc màu hoài niệm khó thể lờ đi được đang lấp đầy nơi này. Nó khiến cho tôi cảm thấy mình đang âm thầm bị nuốt chửng bởi một thực tại lạ lẫm, một thứ xa lạ và ngoài tầm với, mơ hồ nhưng dịu dàng đến lạ lùng. Và cái bóng của chất màu ấy đã bao phủ lên toàn bộ mọi khuôn mặt, đôi mắt, và cả làn da của những người dân đang tụ tập quanh bến cảng.

Thi thoảng tôi lại không nắm bắt được thực tế mình là một phần của cảnh tượng hiện tại. Cho dù tôi đã cố níu lấy biết bao nhiêu khung cảnh đang diễn ra quanh mình, bất kể tôi đã cố hít thở lấy biết bao không khí, thì vẫn không có được thứ kết nối hữu cơ giữa tôi và tất cả những điều ấy.

Hai tháng trước, tôi còn đang sống với vợ và cậu con trai 4 tuổi ở một căn hộ 3 phòng ngủ ở khu Unoki, Tokyo. Không phải là một nơi rộng rãi gì, cũng chỉ là một căn hộ cơ bản với đầy đủ tiện nghi. Vợ tôi và tôi có phòng ngủ riêng của mình, cu con trai cũng vậy, rồi đến phòng còn lại phục vụ cho việc nghiên cứu riêng của tôi. Một căn hộ yên tĩnh với tầm nhìn khá đẹp. Vào những ngày cuối tuần, vợ chồng con cái sẽ cùng nhau tản bộ dọc theo bờ sông Tama. Khi đến mùa xuân, những cây hoa anh đào bên sông vừa nở rộ, tôi sẽ đặt thằng cu con của mình lên yên sau xe đạp rồi cả hai bố con cùng chở nhau đi xem đội Tokyo Giants Triple A trong kỳ huấn luyện mùa xuân.

Tôi làm việc tại một công ty thiết kế tầm trung chuyên về bố cục sách và tạp chí. Gọi tôi là “Nhà thiết kế” thì nghe có vẻ kêu hơn thực chất, vì công việc này khá rành mạch và khô khan. Chẳng có gì rực rỡ lung linh hay giàu tính tưởng tượng cả. Trong hầu hết thời gian, lịch trình của chúng tôi luôn phải bận rộn. Và cứ vài lần mỗi tháng, tôi toàn phải kéo mọi người lại làm việc thâu đêm trong văn phòng. Có vài công việc còn làm tôi phát chán đến chảy cả nước mắt. Tuy nhiên tôi chẳng quá bận tâm với công việc lắm, với lại công ty cũng là một nơi khá thoải mái. Vì tôi cũng là người có thâm niên trong công ty nên tôi có thể tự chọn công việc và nói những thứ mình muốn nói. Ông chủ tính cách ok, còn đồng nghiệp cũng đã hợp tác dài lâu. Mức lương lại không tệ chút nào. Vì vậy nếu không có chuyện gì xảy ra, có lẽ tôi sẽ tiếp tục ở lại công ty trong thời gian gần nữa. Và đời tôi – cũng giống như con sông Moldau – hoặc là, nói chính xác hơn, như những dòng nước vô danh đã tạo nên con sông Moldau ấy – sẽ còn tiếp tục chảy, rồi chảy xiết hơn; cho đến khi hòa mình vào đại dương mênh mông.

Nhưng rồi tôi đã gặp Izumi.

3

Izumi thua tôi 10 tuổi. Chúng tôi gặp nhau trong một lần họp bàn công việc. Một cái gì đó đã được kích lên giữa hai chúng tôi trong lần đầu tiên cả hai chạm phải mắt nhau. Đây không phải là loại chuyện có thể xảy ra thường xuyên. Cả hai gặp nhau hai lần sau đó, chỉ để bàn về chi tiết của dự án chung. Tôi sẽ đến văn phòng của nàng hoặc nàng đến sở làm của tôi. Những cuộc gặp của chúng tôi thường khá ngắn ngủi, có nhiều người khác tham gia nữa, nói chung cũng chỉ là những cuộc họp bàn chuyện làm ăn thông thường mà thôi. Rồi thì dự án của chúng tôi cũng kết thúc, thế nhưng, một nỗi cô đơn khủng khiếp đã quét qua tôi. Như thể một điều gì đó quan trọng đã bị cưỡng ép để giật lấy khỏi tầm tay. Tôi đã không cảm thấy như thế trong nhiều năm rồi. Và tôi nghĩ nàng cũng cảm thấy vậy.

Một tuần lễ sau đó, nàng gọi đến sở làm của tôi nói về một số vấn đề nhỏ và chúng tôi tán gẫu một chút. Tôi nói đùa, và nàng bật cười. “Cô có muốn ra ngoài uống chút gì không?” Tôi hỏi. Chúng tôi đi đến một quán bar nhỏ và làm vài ly. Tôi không thể nhớ chính xác được những chuyện cả hai đã nói, nhưng chúng tôi đã tìm ra được hàng triệu chủ đề và dường như trò chuyện đến bất tận. Với một sự rõ rệt như tia la-ze, tôi có thể nắm bắt được bất cứ điều gì nàng muốn cất lời. Cả những điều tôi không thể giải thích rành mạch với bất cứ ai khác cũng tình cờ đến với nàng một cách chính xác khiến tôi phải kinh ngạc. Cả hai chúng tôi đều đã có gia đình, cũng không phàn nàn gì về đời sống vợ chồng của mình cả. Chúng tôi yêu người phối ngẫu và trân trọng họ. Tuy nhiên đây có phải là một phép mầu nhỏ được đặt trước hay không? Lướt ngang qua một người mà bạn có thể thể hiện mọi cảm xúc một cách thực sự rõ rệt, hoàn toàn. Hầu hết mọi người đều phải đi đến hết cuộc đời mà không gặp được một người giống như vậy. Sẽ là một sai lầm nếu dán cho nó cái mác “Luyến ái”. Nó giống như một sự thấu cảm tuyệt đối hơn.

Chúng tôi bắt đầu ra ngoài thường hơn để uống với nhau. Công việc của chồng nàng luôn khiến anh ta phải ra ngoài khá muộn, vì vậy nàng được tùy ý đi lại tự do theo ý thích. Khi chúng tôi ở bên nhau, mặc dù chỉ đơn giản để thời gian trôi qua thì khi liếc nhìn đồng hồ đeo tay cả hai đều phát hiện ra rằng mình chỉ còn có thể bắt chuyến tàu cuối. Thật khó để nói lời tạm biệt. Có quá nhiều thứ mà cả hai chúng tôi muốn nói với nhau.

Không ai trong hai chúng tôi cố tình dụ hoặc về việc lên giường, nhưng chúng tôi đã ngủ với nhau. Cả hai đã luôn chung thủy với vợ chồng mình cho đến tận thời điểm đó, có điều cả tôi và nàng đều không hề cảm thấy tội lỗi, vì lý do đơn giản là chúng tôi cần phải làm điều đó. Cởi bỏ lớp vướng bận, nhẹ nhàng mơn trớn làn da, ôm chặt lấy nàng và trượt sâu vào bên trong, rồi cùng lên đến đỉnh – tất cả những điều đó chỉ là phần mở rộng tự nhiên thêm cho cuộc trò chuyện giữa chúng tôi. Thật tự nhiên rằng việc ân ái của tôi và nàng không phải chỉ là hứng thú thèm muốn về thể xác; nó chỉ là một hành động êm dịu, dễ chịu, để tước đi mọi sự phỉnh phờ. Tuyệt vời nhất vẫn là những cuộc trò chuyện khẽ của chúng tôi ở trên giường sau khi đã qua cơn hoan ái. Tôi ôm sát lấy thân thể trần trụi của nàng, và nàng cuộn mình lại trong vòng tay của tôi. Và rồi hai chúng tôi rủ rỉ với nhau về những bí mật bằng thứ ngôn ngữ riêng của mình.

Chúng tôi đến gặp nhau bất cứ khi nào có thể. Thật kỳ lạ, hoặc cũng chẳng lạ gì, chúng tôi đã hoàn toàn tin rằng mối quan hệ này có thể kéo dài mãi mãi, hoặc làm lễ cưới ở phía bên kia bán cầu, mối quan hệ giữa cả hai với nhau đều chẳng phát sinh vấn đề gì. Chúng tôi đã tự thuyết phục mình rằng chuyện này sẽ chẳng bao giờ bị rò rỉ. Chắc hẳn là chúng tôi đã làm tình với nhau rồi, nhưng điều đó thì làm đau được đến ai? Vào những đêm ân ái với Izumi, tôi đều về nhà muộn và phải tìm cách nói dối vợ tôi, và đúng là tôi cảm thấy áy náy lương tâm thật, nhưng dường như đó không hẳn là một sự phản bội thực sự. Izumi và tôi đã có một mối quan hệ chặt chẽ nhưng chưa hoàn toàn sâu sắc.

Và nếu như không có chuyện gì xảy ra, có lẽ chúng tôi sẽ tiếp tục như thế vĩnh viễn, nhấm nháp món Vodka pha Tonic, lăn lộn trên những tấm drap trải giường bất cứ khi nào có thể. Hoặc dường như chúng tôi cũng đã quá mệt mỏi với việc phải lừa dối người phối ngẫu của mình và quyết định để cuộc hôn nhân này chết đi theo lẽ tự nhiên, từ đó cả hai có thể quay về cuộc sống thoải mái ít kiểu cách. Dù thế nào đi nữa, tôi cũng không nghĩ mọi chuyện sẽ chuyển sang hướng xấu đi. Tôi không thể chứng minh điều đó, tôi chỉ có linh cảm như thế. Tuy nhiên như một khúc cua của số phận – không thể nào tránh được, khi hồi tưởng lại – đã nhúng tay can thiệp vào, chồng của Izumi nghe phong thanh được về chuyện chúng tôi. Sau khi nổi cơn thịnh nộ với nàng, anh ta đã điên cuồng xông vào nhà tôi trong trạng thái hoàn toàn không kiểm soát được. Như chưa đủ may mắn, vợ tôi lại đang ở nhà một mình vào thời điểm đó và thế là toàn bộ mọi chuyện đã trở nên bung bét. Khi tôi về đến nhà, vợ tôi yêu cầu tôi giải thích hết tất cả những điều vừa xảy ra. Tôi đã kể với cô ấy chính xác những điều đã diễn ra. “Nó không giống như là tình yêu”, tôi giải thích. “Đó là một mối quan hệ đặc biệt nhưng khác hẳn với những gì anh có với em, như ban ngày và ban đêm ấy. Em không hề phát hiện ra bất cứ điều gì đang diễn ra, đúng không? Điều đó chứng tỏ là chuyện không hề như em nghĩ đâu”.

Nhưng vợ tôi từ chối lắng nghe. Đó là một cú sốc quá lớn, cô ấy đã bị đóng băng theo đúng nghĩa đen và không mở miệng nói một lời nào với tôi. Qua hôm sau, cô gom hết tất cả đồ đạc cho vào xe và lái đến nhà bố mẹ ở Chigasaiki, dắt luôn con trai theo cùng. Tôi đã cố gọi cho cô vài cú điện thoại nhưng cô không hề bắt máy. Thay vào đó là bố cô. “Tao không muốn nghe bất cứ thứ lý do lý trấu nào từ mày”, ông cảnh cáo, “Và sẽ lại càng không có chuyện tao để con gái tao quay trở lại với một thằng chó đẻ như mày ”. Ông ấy vốn đã ngăn cản cuộc hôn nhân của chúng tôi ngay từ đầu, và giờ qua giọng nói của ông, tôi biết cuối cùng điều ông ngăn cấm đã được chứng minh là đúng.

Với một sự mất mát hoàn toàn, tôi phải nghỉ việc mấy ngày và chỉ nằm gục trên giường. Izumi gọi cho tôi. Nàng cũng đang ở một mình. Chồng nàng đã bỏ nàng, như đã lường trước, nhưng trước đó không hề tát nàng lấy một cái. Anh ta đã lấy một cái kéo và cắt hết tất cả những bộ y phục nàng sở hữu. Từ áo khoác đến đồ lót, tất cả đều bị vứt rải rác. Nàng cũng không biết anh ta đã đi đâu. “Em mệt quá”, nàng nói, “Em không biết phải làm gì nữa đây. Mọi thứ đã bị hủy hoại hết thảy rồi, và nó sẽ không bao giờ giống như trước nữa. Anh ấy sẽ không quay về.” Giọng nàng nức nở qua điện thoại. Nàng và chồng nàng vốn là một cặp yêu nhau từ thời trung học. Tôi rất muốn vỗ về nàng, nhưng tôi có thể nói gì được đây?

“Cùng đi đâu đó và uống nhé”, nàng gợi ý. Chúng tôi đi đến Shibuya và uống lút đến đêm. Vodka Gimlet cho tôi, còn Daiquiri cho nàng. Tôi cũng quên mất việc để ý cả hai đã uống bao nhiêu. Lần đầu tiên khi chúng tôi gặp nhau, cả hai không có nhiều điều để nói. Sau rốt, chúng tôi giã rượu bằng cách đi bộ đến Harajuku, uống cà-phê và ăn sáng tại tiệm Denny’s. Ấy chính là lúc nàng đưa ra ý tưởng đến Hy Lạp.

“Hy Lạp?” Tôi hỏi.

“Chúng ta không thể ở lại Nhật nữa”, nàng trả lời, nhìn sâu vào mắt tôi.

Tôi quay trở về ý tưởng ấy trong đầu mình. Hy Lạp ư? Rượu Vodka đã ngâm sũng bộ não tôi khiến nó không thể lần theo logic.

“Em đã luôn muốn đến Hy Lạp”, nàng trả lời. “Ước vọng của em đấy. Em rất muốn đến đó vào tuần trăng mặt, nhưng chúng em không có đủ tiền. Giờ thì đi nhé? Chỉ anh và em thôi. Và mình cứ việc sống ở đó, anh thấy đấy, chả phải nghĩ ngợi chuyện gì nữa cả. Lưu lại Nhật Bản thêm ngày nào chỉ tổ làm mình lao đao ngày ấy thôi, cũng sẽ chẳng có tin tốt lành gì đến nữa hết.”

Tôi chẳng có bất cứ hứng thú đặc biệt nào với Hy Lạp, nhưng tôi phải đồng ý với nàng. Chúng tôi đã tính toán số tiền của cả hai đang có. Nàng có hơn hai triệu rưỡi Yên tiền tiết kiệm, còn tôi cũng dành dụm được khoảng một triệu rưỡi. Bốn triệu Yên – cỡ bốn mươi ngàn đô-la.

“Bốn mươi ngàn đô có thể sống được vài năm ở một vùng quê Hy Lạp”, Izumi nói. “Vé máy bay lượt về đã giảm giá chỉ cỡ bốn ngàn thôi. Vậy là hết ba mươi sáu ngàn. Cứ cho là mình xài cỡ một ngàn đô mỗi tháng, thế là đủ tiêu trong ba năm rồi. Hai triệu rưỡi còn lại cứ việc cất để dự phòng. Nào, anh nói gì đi chứ? Đi nào. Mọi chuyện cứ để hạ hồi phân giải.”

Tôi nhìn ra xung quanh. Mới sáng sớm tiệm Denny’s đã đầy ắp những cặp vợ chồng trẻ. Chúng tôi là cặp đôi duy nhất tuổi đã ngoài băm. Và chắc chắn cũng là cặp đôi duy nhất đang thảo luận về chuyện mang hết tiền của mình trốn qua Hy Lạp sau một vụ ồn ào thảm họa. Thật là một mớ hỗn độn, tôi nghĩ. Tôi nhìn chằm chằm vào lòng bàn tay của mình suốt một hồi lâu. Liệu đây có phải lúc cuộc sống đích thực của tôi đã đến?

“Được rồi”, cuối cùng tôi nói. “Triển thôi.”

4

Vào ngày hôm sau, tôi gửi đơn xin từ chức. Sếp tôi đã nghe loáng thoáng những lời đồn đãi và quyết định rằng tốt nhất là cho tôi nghỉ phép vô thời hạn. Các đồng nghiệp của tôi cũng giật nảy mình khi hay tin tôi muốn bỏ việc, nhưng không có ai cố hết sức để bắt chuyện với tôi về việc đó. Bỏ việc không phải là điều gì quá khó khăn, sau hết thảy mọi sự, tôi đã nhận ra được điều này. Một khi anh đã quyết định thoát khỏi việc gì đó, có rất ít phần anh không thể gạt nó đi. Không. Không phải là rất ít. Mà một khi anh đã quyết tâm rồi thì không có gì là không thể thoát khỏi. Và khi anh đã quyết định tung hê hết, anh thấy mình muốn rời bỏ ngay luôn những thứ đấy. Giống như việc anh đi đánh bạc bằng tất cả số tiền mình có và quyết định, cái khỉ gì, ông đây đặt cược hết phần còn lại. Có quá nhiều rắc rối để níu giữ lấy phần còn lại ấy.

Tôi đóng gói hết tất cả những đồ đạc mình nghĩ là cần rồi cho vào một va-li Samsonite màu xanh cỡ trung. Izumi cũng lấy một lượng hành lý tương tự.

Khi chúng tôi bay ngang qua Ai Cập, tôi đột nhiên bị bóp nghẹt bởi một nỗi sợ hãi khủng khiếp rằng ai đó đã mang nhầm túi của tôi. Phải có hàng chục ngàn túi Samsonite giống hệt nhau trên thế giới. Có lẽ nào khi tôi đến Hy Lạp, mở va-li ra, và thấy nó bị nhồi nhét cả tá vật dụng của người nào khác. Một cơn lo âu nghiêm trọng bủa vây lấy tôi. Nếu cái va-li bị thất lạc, sẽ chẳng còn gì liên kết được tôi với cuộc đời mình? Chỉ còn Izumi. Tôi chợt cảm thấy như thể mình đã bốc hơi mất. Đó là cảm giác kỳ lạ nhất. Người đang ngồi trên chiếc máy bay đó không còn là tôi. Bộ não tôi đã bị gắn kết sai lạc với một cái vỏ nào đó giống như tôi. Tâm trí tôi trở nên hoàn toàn hỗn loạn. Tôi phải trở về Nhật Bản và quay lại bên trong cơ thể thật của mình. Nhưng đây là một chiếc tàu bay, đang bay ngang qua Ai Cập, và sẽ không quay đầu. Lớp da thịt tôi đang tạm thời chiếm hữu này cảm giác như thể được làm bằng bột thạch cao. Nếu tôi tự cào xước bản thân mình, từng mảng miếng sẽ bong tróc ra. Tôi bắt đầu run lên một cách vô kiểm soát không thể ngừng lại được. Tôi biết rằng nếu những chấn động này tiếp diễn lâu hơn thì cơ thể tôi đang trú ngụ sẽ vỡ tan ra và hóa ngay thành bụi. Máy bay đã mở điều hòa không khí, nhưng người tôi như nổ tung vì đổ mồ hôi. Lớp áo sơ-mi bết chặt vào da. Một mùi khủng khiếp nảy nòi phát ra từ tôi. Suốt thời gian đó, Izumi đã giữ chặt lấy tay tôi và thỉnh thoảng ôm tôi vào lòng. Nàng không nói một lời nào, nhưng nàng biết tôi đang cảm thấy thế nào. Cơn chấn động kéo dài trong nửa tiếng; tôi muốn chết – muốn áp nòng súng lục vào tai và bóp cò, để tâm trí và xác thịt mình tan thành tro bụi.

Sau khi cơn chấn động từ từ rút đi, tôi chợt cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Tôi thả lỏng cơn căng thẳng và để bản thân mình nhẹ trôi giữa dòng chảy của thời gian. Tôi chìm vào một giấc ngủ sâu. Và khi mở mắt ra, nằm phía dưới tôi đã là những dòng nước xanh rì của vùng biển Aegean.

5

Vấn đề lớn nhất mà chúng tôi phải đối mặt trên hòn đảo này là hầu như không có gì để làm. Việc làm, không. Bạn bè, không. Hòn đảo không có rạp chớp bóng, sân banh quần hoặc sách để đọc. Chúng tôi rời Nhật Bản đột ngột đến nỗi tôi hoàn toàn quên đem cả sách theo. Tôi đành đọc hai cuốn tiểu thuyết lấy được ở sân bay, một ấn bản về những bi kịch của Aeschylus.

Izumi đã mang theo, tôi đọc lại hai lần. Để phục vụ cho khách du lịch, các ki-ốt ở bến cảng cũng có vài tờ báo bản tin tiếng Anh, nhưng không có gì khiến tôi chú ý. Đọc là niềm say mê của tôi, và tôi luôn tưởng tượng rằng nếu có thời gian rảnh rỗi mình sẽ đắm chìm trong sách, nhưng tréo ngoe thay, ở đây có tôi – với tất cả mọi thời giờ trên thế gian này nhưng lại chẳng có gì để đọc.

Izumi bắt đầu học tiếng Hy Lạp. Nàng mang theo một văn bản tiếng Hy Lạp, và lập một biểu đồ các liên hợp động từ mà nàng mang theo, đọc to những động từ như đang niệm bùa chú. Nàng đi đến những điểm mà nàng có thể giao tiếp với các chủ tiệm bằng thứ tiếng Hy Lạp trúc trắc của mình, và cả những người hầu bàn khi chúng tôi cùng bước vào quán cà-phê, thế nên chúng tôi đã làm quen được với vài người. Không chịu thua kém, tôi cũng ra sức trau dồi tiếng Pháp của mình. Tôi nghĩ rằng một ngày nào đó nó sẽ có ích, nhưng trên hòn đảo nhỏ buồn hiu này tôi chưa từng lướt qua được một người nói tiếng Pháp nào bao giờ. Ở trong thị trấn chúng tôi có thể nói tiếng Anh. Một số người già còn có thể nói được tiếng Ý và tiếng Đức. Thế nên, tiếng Pháp đâm ra trở thành vô dụng.

Không có gì để làm, chúng tôi đi rong khắp nơi. Chúng tôi thử cố gắng câu cá ở bến cảng nhưng không bắt được con nào. Vấn đề không phải là thiếu cá; mà là nước quá trong. Lũ cá có thể nhìn từ hướng mồi móc câu lên đến mặt của những kẻ đang cố bắt chúng. Hẳn phải là một con cá dở hơi lắm mới bị bắt theo cách đó. Tôi mua một cuốn sổ phác thảo và bộ màu nước tại một cửa hàng địa phương để đi loanh quanh hòn đảo phác họa khung cảnh với con người. Izumi thường ngồi bên cạnh tôi, ngắm các bức tranh, trong lúc ghi nhớ những liên hợp từ Hy Lạp. Dân địa phương cũng thường đến xem tôi vẽ phác họa. Để giết thời gian, tôi thường vẽ chân dung của họ, có vẻ như đó là một cú vang lớn. Nếu tôi tặng họ tranh, họ thường sẽ đãi chúng tôi uống bia. Có lần, một người ngư dân đã biếu hẳn chúng tôi nguyên cả con bạch tuộc lớn.

“Anh có thể trở thành một bức chân dung sống động đấy,” Izumi nói “Anh có tài. Và anh dư sức mở một doanh nghiệp nhỏ tại đây. Nếu khoa trương lên rằng anh là một nghệ sĩ Nhật Bản thì kiểu gì người ta cũng bu nghẹt xung quanh anh thôi.”

Tôi bật cười, nhưng nét mặt nàng thật sự nghiêm túc. Tôi thử mường tượng cảnh mình đi bộ dọc hòn đảo Hy Lạp, lấy những bức vẽ chân dung để đổi chác, thưởng thức bia miễn phí thường xuyên. Cũng không phải một ý kiến tồi, tôi kết luận.

“Và em sẽ trở thành một hướng dẫn viên cho khách du lịch đến từ Nhật Bản”, Izumi nói tiếp. “Chúng ta cần phải có nhiều thời gian hơn, và điều đó sẽ giúp chúng ta đến hết đời. Tất nhiên, chuyện đó có nghĩa là em sẽ phải nghiêm túc học tiếng Hy Lạp.

“Em có thực sự nghĩ rằng chúng ta sẽ phải mất cỡ hai năm rưỡi không có gì làm không?” Tôi hỏi.

“Chừng nào chúng ta không bị cướp hay bị bệnh hoặc gặp chuyện gì đó, trừ những việc không lường trước được. Thì chúng ta vẫn có thể sống được. Tuy nhiên, vẫn sẽ tốt hơn nếu mình luôn chuẩn bị cho những điều bất ngờ.”

Cho đến tận lúc đó, tôi hầu như chẳng bao giờ phải đến chỗ bác sĩ, tôi đã nói với nàng thế.

Izumi nhìn tôi chằm chằm, mím môi lại, và nhếch chúng qua một bên.

“Nếu em nói là em đã có thai”, nàng mào đầu. “Anh sẽ làm gì? Anh có thể tự bảo vệ mình tốt nhất có thể, nhưng mọi người vẫn phạm phải sai lầm. Nếu điều đó xảy ra, tiền của chúng ta có thể đổ ra khá nhanh đấy”

“Nếu chuyện đó xảy ra, mình vẫn có thể quay về Nhật mà.” Tôi đáp.

“Anh vẫn không hiểu ư?” Nàng lặng lẽ nói, “Chúng ta không bao giờ có thể trở về Nhật nữa rồi.”

6

Izumi vẫn tiếp tục việc học tiếng Hy Lạp của nàng, còn tôi thì vẫn vẽ phác họa. Đây là khoảng thời gian bình yên nhất trong toàn bộ cuộc đời tôi. Chúng tôi ăn uống giản tiện và rón rén nhâm nhi những bình rượu rẻ tiền nhất. Hàng ngày, chúng tôi vẫn thường leo lên ngọn đồi gần đó. Trên đỉnh đồi có một ngôi làng nhỏ, từ nơi ấy có thể nhìn thấy những hòn đảo khác xa hơn. Với tất cả bầu không khí trong lành và những bài luyện thể dục, tôi đã sớm quay lại trạng thái tốt nhất. Sau khi mặt trời lặn xuống hòn đảo, bạn hầu như sẽ không nghe được bất cứ âm thanh gì. Và trong sự tĩnh lặng đó,Izumi và tôi khẽ khàng quấn lấy nhau và nói đủ thứ chuyện trên đời. Không có nỗi lo lắng về chuyến tàu cuối, hay sự vội vã cùng những lời dối trá phải nói với người phối ngẫu của mình. Thật tuyệt vời ngoài sự tin tưởng. Mùa thu dần đi qua từng chút một, và đông đến sớm hơn. Gió lộng, mặt biển dần sáng ánh đèn.

Ấy là quanh khoảng thời gian chúng tôi đọc được mẩu chuyện về mèo ăn thịt người. Trong cùng tờ báo ấy, có cả bản tin thông báo tình trạng của Nhật Hoàng đang dần xấu đi, nhưng chúng tôi mua nó chỉ để kiểm tra tỷ giá hối đoái. Đồng Yên đang tăng vọt lên so với đồng Drachma. Điều này rất quan trọng với chúng tôi; đồng Yên càng tăng mạnh bao nhiêu, thì chúng tôi lại càng có nhiều tiền bấy nhiêu.

“Nói về chuyện lũ mèo ấy mà”, tôi mở lời sau vài hôm đọc mẩu tin đó, “Hồi bé anh có nuôi một con mèo, song nó lại biến mất một cách kỳ quặc lắm.”

Izumi có vẻ muốn nghe nhiều hơn. Nàng ngẩng mặt lên từ tờ biểu đồ liên hợp từ của mình và nhìn tôi “Sao nữa?”

“Hồi đó anh học cấp 2, chắc là năm thứ 3. Nhà anh sống trong một căn hộ công ty cấp có hẳn một khu vườn rộng. Trong vườn có trồng một cây thông rất xưa, cao lắm, em chỉ có thể nhìn thấy đỉnh của nó thôi. Một ngày kia, anh đang ngồi bên hiên nhà đọc sách, trong lúc con mèo tam thể anh nuôi đang chơi đùa trong vườn. Con mèo cứ chạy vòng quanh thân nó, thỉnh thoảng bọn mèo sẽ hay làm vậy. Nó vẫn thường chú tâm làm điều đó, hoàn toàn không biết thật ra anh đang dõi theo nó. Càng nhìn lâu anh càng sợ hãi. Con mèo dường như đang bắt lấy cái gì đó, nhảy vòng quanh, lông dựng đứng từ đầu đến đuôi. Hình như nó đang trông thấy cái gì đó mà anh không thấy được. Cuối cùng nó bắt đầu chạy vòng vòng xung quanh gốc cây thông, giống như con hổ trong phim “Chú bé da đen Sambo” ấy. Rồi nó vội vã phi thẳng lên nhánh cây cao nhất. Anh chỉ còn có thể trông thấy khuôn mặt nhỏ của nó lấp ló sau những nhành lá trên cùng. Con mèo vẫn đang ở trong trạng thái bị kích động và căng thẳng, nó nấp mình trong những rặng cây, nhìn chằm chằm vào thứ đó. Anh cố gọi tên nó, nhưng nó vẫn hành động như thể nó không nghe thấy tiếng anh.”

“Tên con mèo là gì?” Izumi hỏi.

“Cũng chẳng nhớ nữa,” tôi đáp lại nàng. “Dần dần, màn đêm buông xuống, và càng lúc một tối hơn, anh vô cùng lo sợ và chờ cả một lúc lâu để đợi con mèo leo trở xuống. Cuối cùng, chỉ còn lại bóng tối toàn bích. Và từ đó mọi người không bao giờ trông thấy nó nữa.”

“Đấy cũng không hẳn là điều bất thường lắm đâu” Izumi nói. “Lũ mèo thường hay biến mất như thế, nhất là khi chúng nóng lên, chúng thường trở nên rất căng thẳng và không còn nhớ cách về nhà. Con mèo hẳn đã leo xuống cây thông và bỏ đi đâu đó khi anh không nhìn thấy thôi.”

“Anh cho là vậy” tôi trả lời. “Nhưng lúc đó anh vẫn chỉ là một thằng nhóc, nên anh đã lạc quan nghĩ rằng con mèo ấy quyết định sống trong thân cây luôn rồi. Có vài lý do gì đó khiến nó không thể trở xuống. Mỗi ngày anh đều sẽ ngồi bên hiên nhà và nhìn lên cây thông, hy vọng được thấy nó đang nhìn ra giữa những nhánh cây.”

Izumi có vẻ đã hết hứng với chuyện đó. Nàng châm điếu Salem thứ hai, rồi ngẩng đầu lên và nhìn tôi:

“Có khi nào anh nhớ đến con trai mình không?” Nàng hỏi.

Tôi không biết trả lời sao cho phải. “Thỉnh thoảng”, tôi đáp thật lòng. “Nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Chỉ khi nào có chuyện gì đó gợi cho anh nhớ đến nó thôi.”

“Anh không muốn gặp thằng bé à?”

“Đôi khi sẽ có chứ”, tôi đáp. Nhưng đó chỉ là một lời nói dối, tôi chỉ cố rằng đó là cách tốt nhất mình nên cảm thấy thôi. Bất cứ khi nào tôi ở bên cạnh thằng cu con, tôi đều nghĩ thằng bé là điều dễ thương nhất tôi từng được thấy. Bất cứ khi nào tôi về nhà muộn, tôi đều đi đến phòng ngủ của con trai tôi, chỉ để được nhìn ngắm khuôn mặt say ngủ của thằng bé. Đôi khi tôi còn có ham muốn được ôm ghì chặt đến mức thằng bé có thể vỡ mất. Bây giờ tất cả mọi thứ thuộc về thằng cu con – gương mặt, giọng nói, cử chỉ của nó – đều đã tồn tại ở một vùng đất xa xôi. Tất cả những gì có thể gợi nhớ cho tôi chỉ là mùi xà-phòng của nó. Tôi thích tắm chung với cu con và kỳ cọ cho nó. Thằng bé có một làn da nhạy cảm, thế nên vợ tôi luôn cất cho nó một thỏi xà-bông đặc biệt. Tất cả những gì khiến tôi gợi nhớ đến con trai mình là mùi xà-phòng đó.

“Nếu anh muốn quay trở về Nhật, đừng để em cản trở anh,” Izumi nói. “Đừng lo lắng về em, em sẽ tự biết chăm sóc tốt bản thân mình.”

Tôi gật đầu. Nhưng biết rằng điều đó sẽ không xảy ra.

“Em tự hỏi con trai anh sẽ nghĩ về anh thế nào khi thằng bé lớn lên?” , Izumi tiếp tục. “Giống như là con mèo đã biến mất trên cây thông.”

Tôi phì cười, “Có lẽ vậy” Tôi nói.

Izumi di nát điếu thuốc lá của mình và thở dài. “Chúng ta đi về nhà và làm tình nhé, được không?”

“Vẫn đang là ban ngày mà”, tôi bảo.

“Thì có gì không ổn à?”

“Không gì cả”, tôi đáp.

7

Sau đó, khi tôi thức dậy vào giữa đêm, Izumi đã không còn ở đó nữa. Tôi nhìn qua đồng hồ bên cạnh giường. Mười hai giờ rưỡi. Tôi lảo đảo tìm ngọn đèn, bật công-tắc lên và nhìn quanh căn phòng. Mọi thứ đều thinh lặng như thể đã bị kẻ nào đó đánh cắp và rắc thứ bụi tịch mịch lên trên. Có hai đầu lọc hiệu Salem nằm trong gạt-tàn thuốc, cùng một vỏ bao thuốc lá rỗng nằm bên cạnh. Tôi bước ra khỏi giường và nhìn ra phòng khách. Izumi không có ở đó. Nàng cũng không có ở trong bếp hay buồng tắm. Tôi mở cửa và nhìn ra sân trước. Chỉ có một cặp ghế salon bọc nhựa vinyl đang tắm mình trong ánh trăng sáng vằng vặc. “Izumi,” tôi nhỏ giọng hỏi. Không có ai. Tôi lại gọi, lần này to hơn nữa. Tim tôi đập thình thịch. Đây có phải là giọng của tôi không? Nghe có vẻ quá lớn, không chút tự nhiên nào. Vẫn không có tiếng trả lời. Một cơn gió nhẹ từ biển thổi xào xạc trên cánh đồng cỏ. Tôi đóng cửa; quay trở lại bếp, và rót cho mình nửa ly rượu, để bình tĩnh lại.

Ánh trăng sáng rực tràn vào cửa sổ nhà bếp, hắt lên tường một chiếc bóng cổ quái trải dài xuống sàn nhà. Toàn bộ mọi thứ trông như thể biểu tượng của một vở kịch tiên phong. Tôi bất thần nhớ ra, cái đêm mà con mèo biến mất trên cây thông chính xác cũng trông như thế này, một đêm trăng tròn không chút gợn mây. Sau bữa cơm tối hôm đó, tôi lại đi đến hiên nhà để tìm con mèo. Đêm càng sâu hơn, ánh trăng càng sáng rõ. Với vài lý do không hiểu nổi, tôi không thể dời mắt mình khỏi cây thông được. Đôi khi tôi chắc mẩm rằng mình đã nhìn thấy ánh mắt con mèo, đang rực sáng giữa những cành cây. Nhưng đó chỉ là ảo giác.

Tôi tròng chiếc áo len dày và quần Jeans vào người, chụp lấy mớ xu lẻ trên bàn cho vào túi và đi ra ngoài. Izumi hẳn là đã khó ngủ và ra ngoài đi dạo. Chỉ có thể là thế thôi. Gió đã lặng hoàn toàn. Tất cả những gì tôi có thể nghe được là âm thanh của đôi giày tennis tôi đi đang lăn mình trên sỏi, giống như âm thanh của một bộ phim điện ảnh. Izumi chắc phải đi đến bến cảng, tôi quyết định. Chỉ có một con đường vào bến cảng, vì vậy tôi không thể để lạc mất nàng. Ánh đèn trong những ngôi nhà dọc hai bên đường cũng đã tắt, chỉ còn ánh trăng nhuộm bạc cả mặt đất. Trông như thể đang ở dưới đáy biển sâu.

Khoảng nửa đường đến bến cảng, tôi nghe loáng thoáng có tiếng nhạc và dừng lại. Ban đầu tôi nghĩ đó có phải là ảo giác không? Như khi áp suất không khí thay đổi và bạn nghe thấy tiếng chuông trong tai. Nhưng khi cẩn thận lắng nghe, tôi có thể nhận ra đó là một giai điệu. Tôi khẽ nín thở và cố lắng nghe chăm chú nhất có thể. Không nghi ngờ gì nữa, đó chính là âm nhạc. Có ai đó đang chơi nhạc. Là nhạc sống hẳn hòi, không phải mở dàn máy. Nhưng là loại nhạc cụ gì? Đàn măng-đô-lin như Anthony Quinn đã nhảy trong “Zorba the Greek” ư? Đàn măng-đô-lin? Nhưng ai lại chơi đàn măng-đô-lin vào giữa đêm? Và ở đâu mới được chứ?

Âm nhạc dường như xuất phát từ ngôi làng trên đỉnh đồi nơi chúng tôi leo lên mỗi ngày để tập thể dục. Tôi đứng giữa ngã tư, tự hỏi mình phải làm gì, phải đi về hướng nào đây. Izumi hẳn đã nghe thấy cùng một loại âm nhạc tại chính nơi này. Và tôi có một linh cảm rõ rệt rằng nếu nàng đã nghe được, hẳn nàng đã hướng đến nơi phát ra nó.

Tôi lao xuống và quay lại ngay ngã tư, trèo lên con dốc vốn đã thông thạo. Không có cây cối nào lót đường, chỉ có những bụi rậm gai cao đến đầu gối nằm trong bóng tối dọc vách đá. Càng đến gần, tiếng nhạc càng trở nên to rõ. Tôi cũng nhận ra được giai điệu rõ ràng hơn. Nó chứa đựng một sự hào nhoáng đậm chất hội hè. Tôi tưởng tượng rằng hẳn đang có một buổi dạ yến nào đó được tổ chức trong ngôi làng nằm trên đỉnh đồi. Rồi tôi nhớ lại ngày hôm ấy, ở bến cảng, chúng tôi đã được chứng kiến một ​​đám rước dâu đầy sinh động. Đây hẳn phải là một tiệc cưới, diễn ra vào ban đêm.

Ngay sau đó, không một lời cảnh báo, tôi biến mất.

Có thể đó là ánh trăng, hoặc tiếng nhạc nửa đêm. Mỗi một bước chân tôi đi, tôi càng cảm thấy mình chìm sâu hơn vào một vùng cát lún, nơi tôi mất dần đi bản sắc; Đấy là cảm xúc tôi trải qua trên thân tàu bay, khi bay ngang qua Ai Cập. Đây không phải là-tôi-đang bước đi dưới ánh trăng. Đó không phải là tôi mà là một sự tráo đổi, được tạo thành từ bột thạch cao. Tôi chà tay vào mặt mình. Nhưng đó không phải là mặt tôi. Cũng không phải là tay tôi. Tim tôi dội thình thịch vào lồng ngực, đưa máu chảy khắp cơ thể với tốc độ điên cuồng. Thân xác này chỉ là một con rối bằng thạch cao, một con hình nhân voodoo, đã bị lũ phù thủy nào thổi vào đó làn hơi sinh mệnh ngắn ngủi. Sự nồng ấm của cuộc đời thực đã lạc trôi mất. Những cơ bắp giả tạm bợ của tôi đang diễn ra theo từng chuyển động. Tôi đã luôn là một con rối, chỉ để hiến sinh.

Vậy con người thật của tôi giờ đang ở đâu? Tôi tự hỏi.

8

Đột nhiên, giọng nói của Izumi vang lên từ trong vô định. “Con người thực của anh đã bị lũ mèo ăn mất rồi. Trong lúc anh đang đứng đây, lũ mèo đói khát đã ăn thịt anh – nuốt trọn anh. Chỉ còn lại xương mà thôi.”

Tôi nhìn xung quanh. Dĩ nhiên chỉ là ảo giác thôi. Tất cả những gì tôi trông thấy là đất đá, những bụi cây thấp, và cái bóng nhỏ bé của chúng. Tiếng nói đó ở trong đầu tôi.

Dừng ngay việc suy nghĩ những ý nghĩ u ám đó lại đi, tôi tự nhủ. Như thể cố gắng tránh một cơn sóng khổng lồ, tôi bám vào một tảng đá ở dưới đáy biển và cố nín thở. Cơn sóng chắc chắn sẽ đi qua. Mày chỉ đang mệt mỏi thôi, tôi tự nói với mình, và bị quá tải nữa. Hãy nắm lấy một cái gì đó có thật. Một vật không quan trọng cũng được. Chỉ cần lấy cái gì đó thật. Tôi cho tay vào túi để nắm lấy đồng xu. Mồ hôi rịn đầy lòng bàn tay.

Tôi cố gắng nghĩ về cái gì khác. Căn hộ đầy nắng của tôi ở Unoki. Bộ sưu tập đĩa ghi âm mà tôi để lại. Bộ sưu tập nhạc Jazz nhỏ xinh của tôi. Thể loại tôi yêu thích nhất là của các nghệ sĩ Piano Jazz da trắng thập niên 50s và 60s. Lennie Tristano, Al Haig, Claude Williamson, Lou Levy, Russ Freeman … Hầu hết các album đều không được xuất bản, và mất rất nhiều thời gian với tiền bạc để thu thập chúng. Tôi đã cẩn thận vòng qua các cửa hàng thâu âm nhiều lần, giao dịch mua bán với các nhà sưu tập khác, từ từ xây dựng bộ sưu tập của riêng mình. Hầu hết các màn biểu diễn không phải được gọi là “thượng thặng”. Nhưng tôi yêu cái bầu không khí độc đáo, thân mật mà những tập đĩa hát cũ mốc meo này truyền đến. Thế giới sẽ là một nơi chán òm nếu nó được tạo thành chỉ với những thứ “thượng hạng”, nhỉ? Mọi chi tiết của những chiếc vỏ đĩa đó đã trở lại với tôi. Như thể trọng lượng và sức nặng của toàn bộ số album ấy đang nằm trong tay tôi vậy.

Nhưng bây giờ chúng đã biến mất mãi mãi. Và bởi chính tay tôi đã tự hủy hoại chúng. Sẽ chẳng bao giờ tôi được nghe những đĩa nhạc ấy trong đời mình nữa.

Tôi nhớ vị khói thuốc khi tôi hôn Izumi. Cả cảm giác về đôi môi và lưỡi của nàng nữa. Tôi nhắm mắt lại. Tôi muốn có nàng ngay bên cạnh tôi. Tôi muốn được nàng nắm chặt lấy tay, như khoảnh khắc đã trải qua khi chúng tôi bay ngang Ai Cập, và sẽ không bao giờ buông ra.

Con sóng cuối cùng đã lướt qua tôi và trôi thật xa; cùng với tiếng nhạc.

Có phải họ đã ngừng chơi không? Hẳn đấy cũng là một khả năng. Đã gần một tiếng đồng hồ rồi còn gì. Hoặc đã chẳng có tiếng nhạc nào ngay từ đầu cả. Điều đó cũng là hoàn toàn có thể. Tôi đã không còn tin tưởng vào thính giác của mình nữa. Tôi nhắm chặt mắt lại và chìm sâu trong ý thức của chính mình. Rơi thẳng xuống một đường ranh giới mỏng manh, vô trọng lượng trong thứ bóng tối đó. Nhưng tôi chẳng nghe thấy bất cứ âm thanh gì. Không một tiếng vọng.

Tôi liếc nhìn đồng hồ. Và nhận ra mình không hề đeo cái nào cả. Thở dài, đút lại hai tay vào túi quần. Thực sự tôi cũng chẳng quan tâm đến thời gian mấy. Tôi lại nhìn lên bầu trời. Mặt trăng luôn là một hòn đá lạnh lẽo, với làn da bị ăn mòn một cách thô bạo trong nhiều năm. Những vệt bóng mờ trên bề mặt của nó giống như những nốt ung nhọt đang ngoác miệng vươn rộng thêm thứ xúc tu đáng ghê tởm. Ánh trăng như đang vờn lấy tâm trí loài người. Và làm cho lũ mèo biến mất. Có lẽ nó cũng đã khiến cho Izumi biến mất. Dường như nó đã lên kế hoạch sắp đặt rất kỹ, bắt đầu từ đêm trước đó.

Tôi kéo căng, uốn cong cánh tay, và cả những ngón tay của mình. Liệu tôi có nên tiếp tục, hay phải quay trở lại con đường mình vừa đi? Izumi đã đi đâu mất rồi? Nếu như không có nàng, tôi phải sống như thế nào chỉ với bản thân mình trên hòn đảo khỉ ho cò gáy này? Nàng là người duy nhất giữ lấy một kẻ vừa tạm bợ vừa dễ vỡ tan như tôi.

Tôi tiếp tục leo lên dốc. Tôi đã đi khá xa và cũng có thể đã lên đến đỉnh. Thật sự có tồn tại tiếng nhạc ở đó không? Tôi phải tự mình kiểm chứng lấy, ngay cả khi chỉ còn lại những đầu mối mờ nhạt. Trong năm phút, tôi đã leo đến đỉnh. Nhìn về phía Nam, ngọn đồi dốc xuống biển, bến cảng, và cả thị trấn đều đã ngủ say. Ánh sáng phát ra từ những ngọn đèn đường đã thắp sáng con đường biển. Phía bên kia của ngọn núi bị bao phủ trong bóng tối. Không có dấu hiệu nào cho thấy một lễ hội sống động đã diễn ra ở đây, dù chỉ trong một thời gian ngắn ngủi trước đó.

Tôi quay trở lại căn nhà và rót cho mình một cốc Brandy. Tôi đã cố ngủ, nhưng không được. Cho đến tận lúc hừng đông, tôi vẫn bị mặt trăng kìm chặt. Rồi đột nhiên, tôi liên tưởng đến hình ảnh của lũ mèo đó, đói khát đến gần chết trong căn hộ bị khóa chặt. Tôi – con người thật sự của tôi – đã chết rồi, nhưng lũ mèo thì còn sống, chúng nhai thịt tôi, cắn xé quả tim, hút máu tôi, nuốt chửng dương vật của tôi. Xa xa, tôi có thể nghe thấy tiếng chúng liếm hút não mình. Như những mụ phù thủy của Macbeth, ba con mèo nhỏ đang bu quanh chiếc đầu vỡ toác của tôi, soàm soạp húp thứ súp đặc bên trong. Đầu lưỡi thô ráp của chúng liếm lên những nếp gấp mềm mại trong đầu tôi. Và với mỗi cái liếm ấy, ý thức của tôi nhấp nháy như một đốm lửa rồi vụt tắt.

Hết.

Truyện ngắn Mèo ăn thịt người (Hito-kui Neko) được in lần đầu tiên trong tuyển tập truyện ngắn Cây liễu mù và cô gái ngủ (Mekurayanagi to, nemuru onna) xuất bản năm 1991. Bản tiếng Anh do Philip Gabriel chuyển ngữ được đăng trên tạp chí The New Yorker số ngày 4 tháng 12, 2000.

Nguyễn Thảo Trang
dịch từ bản tiếng Anh của Phillip Gabriel

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Sáng tác

Truyện ngắn | Đành Tâm Chối Bỏ – Dazai Osamu

Published

on

Lời người dịch:

Dazai Osamu (1909-1948) là một đại văn hào Nhật Bản, thành viên chủ chốt của nhóm văn học “Vô lại phái” (Buraiha 無頼派), một nhóm nhà văn có khuynh hướng nổi loạn và tự hủy sau chiến tranh thế giới thứ hai. Ông rất thành công với thể loại “tiểu thuyết tự thuật” (shi shosetsu 私小説 – tư tiểu thuyết). Những tác phẩm quan trọng của ông như “Thất lạc cõi người”, “Tà dương”, “Nữ sinh” hay những truyện ngắn đặc sắc khác đều có liên hệ đến cuộc đời bi thảm của ông. Dazai trầm mình tự sát cùng với người tình Tomie vào năm 1948 ở tuổi ba mươi chín, sau bốn lần nỗ lực trước đó không thành.

Nhân dịp kỷ niệm 77 năm ngày mất của văn hào Dazai, chúng tôi xin được gửi đến quý độc giả hai truyện ngắn mang tính tự thuật nhất của Dazai, lần đầu tiên được dịch ra Việt ngữ là “Hải âu” và “Đành tâm chối bỏ”.

Truyện ngắn “Hải âu” là bản tuyên ngôn tư tưởng của Dazai Osamu về văn học cũng như về niềm tin yêu gửi gắm vào thế hệ trẻ tuổi. Nhiều quan điểm riêng của ông về niềm tin yêu cái đẹp, sự cố gắng sống và viết thành thật, vai trò của sự hối hận, phản tỉnh trong văn chương…đều được miêu tả đậm nét, không dấu giếm. Có thể xem đây là một truyện mang tính tự thuật nhất của văn hào Dazai về nghề văn. Truyện được chúng tôi dịch từ nguyên tác “Kamome” (鷗) trong tập “Tiếng dế nỉ non” (きりぎりす), nhà xuất bản Shinchosha tái bản lần thứ 73 năm 2018 , từ trang 123 đến 145.

Còn truyện ngắn đặc sắc “Đành tâm chối bỏ” (Ubasute) viết về chuyến tự sát đôi không thành với H, một người phụ nữ trong đời Dazai, đã phản bội Dazai đi theo một người họa sĩ. Ở ranh giới sinh tử, nhân vật Kashichi (là hình bóng Dazai) đã lấy lại sức mạnh để thẳng thắn chia tay và sống tiếp tục cuộc đời mình. Trong tác phẩm chúng ta cũng nhận thấy rõ nỗi dằn vặt day dứt về thế gian, cuộc sống và tình yêu của Dazai.

Chính Dazai trong một truyện ngắn tự thuật khác “Tám cảnh sắc Tokyo” đã viết về truyện ngắn này như sau:

“Vào mùa hè năm ba mươi tuổi, lần đầu tiên tôi mới nghiêm túc quyết ý đi theo con đường văn chương. Nghĩ lại thì đó là một ý nguyện muộn màng. Tôi đã ráng hết sức viết văn trong căn phòng bốn chiếu rưỡi không có lấy một đồ đạc gì cho ra hồn. Cơm tối của nhà trọ tôi để lại một phần trong hộp cơm, lén nắm lại thành cơm nắm để lót dạ khi làm việc khuya. Lần này tôi không viết di thư di chúc gì cả. Mà là viết để sống. Có một vị tiền bối đã khích lệ tôi. Cho dù thế gian khinh ghét cười nhạo tôi thì chỉ có vị tác gia tiền bối đó trước sau vẫn đối xử với tôi thân thiết. Tôi phải báo đáp lại sự tin tưởng đáng quý ấy. Cuối cùng tôi cũng viết xong tác phẩm “Đành tâm chối bỏ” (Ubasute). Truyện này tôi viết lại thành thực việc tôi và H dự tính tự sát tại suối nước nóng Minakami…” (*)

(*) Dazai Osamu, “Tám cảnh sắc Tokyo” trích trong tập “Thất lạc cõi người”, Hoàng Long dịch, Nxb Hội Nhà Văn và Phương Nam ấn hành, tái bản lần thứ 12, trang 218.

Truyện được chúng tôi dịch từ nguyên tác “姥捨て” trên trang mạng kho sách ngoài trời Aozora: https://www.aozora.gr.jp/cards/000035/files/2256_19985.html.

Xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả như một nén tâm hương tưởng nhớ một đời văn tài hoa “nhất phiến tài tình thiên cổ lụy”. Mong rằng chúng ta luôn giữ cho mình một tấm lòng thành thực “nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ” (一片冰心在玉壺 (một mảnh lòng trong sáng như băng trong bình ngọc, thơ Vương Xương Linh) cùng với văn chương.

Hoàng Long

./.

ĐÀNH TÂM CHỐI BỎ

Dazai Osamu

Khi đó, hai người đã bàn bạc với nhau.

“Được rồi. Chúng ta sẽ hoàn thành chuyện này nào. Ngay từ đầu em đã quyết ý rồi. Thật đấy anh ạ”, Kazue thì thầm bằng giọng khác lạ.

“Không thể được. Chuyện em quyết ý thì anh hiểu. Anh không phải là định chết một mình mà nghĩ đến chuyện là tự buông xuôi một mình bản thân anh thôi. Em còn có cả cha mẹ và em trai nữa. Anh biết là em còn để tâm đến chuyện đó nên không thể chấp nhận được đâu”, vừa phân trần những lý lẽ thiệt hơn như thế, Kashichi vừa quyết ý chết.

“Nếu anh định chết thì chúng ta sẽ cùng chết. Chắc thần linh sẽ tha thứ cho chúng ta thôi”.

Rồi hai người bắt đầu nghiêm túc chuẩn bị.

Một người vợ yêu tha thiết một con người sai trái với một người chồng hủy hoại cuộc sống hàng ngày của mình đến mức đẩy người vợ mình vào hành động như thế cả hai đều gắn kết với nhau trong ý định tìm đến cái chết. Đó là một ngày chớm xuân. Tiền sinh hoạt phí tháng này còn khoảng mười bốn, mười lăm yên. Hai người lén mang đi theo. Ngoài ra, tất cả những bộ quần áo mặc đắp đổi của hai người chỉ là một manh áo dotera của Kashichi, một bộ awase của Kazue, hai cái đai lưng. Tất chỉ còn có thế. Kazue gói tất cả vào chiếc khăn kuroshiki, cắp nách mang rồi hai vợ chồng cùng sánh vai nhau đi ra ngoài, một điều thật hiếm thấy. Người chồng không có áo măng tô. Thay vào đó, anh mặc một chiếc kimono vải vùng Kurume, đội chiếc mũ lưỡi trai, quàng chiếc khăn lụa màu xanh nước biển tồi tàn, chỉ có đôi guốc gỗ geta là còn trắng tinh như mới. Người vợ cũng không có áo khoác. Cả áo choàng haori và kimono đều dệt bằng vải meisen hoa văn mũi tên, chiếc khăn choàng đỏ nhạt hàng ngoại quốc khoác phía nửa nửa thân người trên không cân xứng. Hai người tạm chia tay nhau ngay gần chỗ tiệm cầm đồ.

Vào buổi trưa nơi nhà ga Ogikubo, dòng người ra vào tấp nập. Kashichi lặng lẽ đứng đợi trước nhà ga, châm một điếu thuốc. Kazue đảo mắt tìm kiếm anh và khi nhận ra hình dáng của Kashichi, nàng chạy bổ đến như thể gần như vấp ngã.

“Thành công, thành công lớn rồi”, nàng nói như reo lên. “Người ta cho em mượn đến mười lăm yên đấy, ngu ngốc quá nhỉ”.

Người đàn bà này không thể chết được. Mình không thể để cho nàng chết. Nàng có bị đời vùi dập tàn nhẫn như mình đâu chứ. Nàng vẫn còn sức để mà sống còn cơ mà. Đây đâu phải là một người chết. Chỉ việc lên kế hoạch tự sát chắc chắn đã là lời tạ lỗi dành đến thế gian rồi. Chỉ vậy thôi là đủ. Chắc chắn nàng sẽ được tha thứ thôi. Vậy là đủ rồi. Còn mình sẽ chết một mình.

“Em khéo xoay xở thật đấy”, Kashichi mỉm cười khen ngợi. Anh muốn vỗ nhẹ lên vai nàng.

“Vậy tất cả là mình có chừng ba mươi yên. Mình có thể đi du lịch đây đó một chút đấy anh”.

Hai người mua vé tàu đến Shinjuku. Xuống ga Shinjuku, hai người đi đến hiệu thuốc. Họ mua một hộp thuốc ngủ loại lớn rồi lại đi đến một tiệm khác mua thêm một hộp nữa. Vì Kazue đứng đợi bên ngoài, chỉ có mình Kashichi bước vào mỉm cười hỏi mua nên người bán thuốc không nghi ngờ gì cả. Cuối cùng hai người vào cửa hàng Mitsukoshi, đến quầy dược phẩm. Vì khách hàng qua lại đông đúc nên hai người có chút can đảm mà mua thêm hai hộp thuốc ngủ nữa. Nữ nhân viên thu ngân khuôn mặt nhỏ thó đầy nghiêm túc, liếc đôi mắt đen nhìn anh có vẻ hồ nghi, nếp nhăn hiện rõ nơi ấn đường. Khuôn mặt của cô ta tỏ vẻ khó chịu. Kashichi cũng cảm thấy hoảng loạn. Anh không thể nặn ra được một nụ cười mỉm gượng gạo nào. Hộp thuốc lạnh lùng được giao ra. Phía sau chúng ta người ta đang kiễng chân lên mà nhìn đấy. Kashichi biết vậy nên cố tình nép sát vào Kazue, đi xuyên qua dòng người. Mặc dù hai người điềm tĩnh bước đi nhưng người ngoài nhìn vào sẽ thấy một vẻ gì đó dị dạng. Kashichi cảm thấy buồn bã vô cùng. Sau đó, cũng tại Mitsukoshi, Kazue mua một đôi tất trắng, Kashiochi cũng mua thêm một gói thuốc lá ngoại thượng hạng rồi mới rời đi. Hai người đón taxi đi đến Asakusa. Hai người vào rạp chiếu phim, xem bộ phim “Trăng mọc trên hoang thành” đang công chiếu. Mở đầu phim là hình ảnh hàng rào và mái trường tiểu học ở một vùng quê và tiếng ngân nga của trẻ nhỏ. Điều đó làm Kashichi rơi nước mắt.

“Nghe nói các đôi tình nhân”, Kashichi nói với vợ mình trong bóng tối rạp chiếu. “Họ vừa xem phim vừa nắm tay nhau như thế này đấy”. Nói rồi Kashichi ngại ngùng dùng cánh tay phải của mình giấu dưới cái mũ lưỡi trai tìm đến tay trái của Kazue, thử nắm chặt lấy bàn tay nhỏ bé xem sao nhưng giữa hai vợ chồng đang ở trong tình thế khổ sở nên Kashichi cảm thấy mình chẳng sạch sẽ gì và sợ hãi nữa nên lặng lẽ buông tay ra. Kazue cười khúc khích. Nhưng không phải nàng cười vì trò đùa vụng về của Kashichi mà cười vì một động tác gây hài chán ngắt trên bộ phim đó.

Đây đúng là người phụ nữ tuyệt vời, hiền thục mà chỉ việc xem phim cũng khiến nàng trở nên hạnh phúc. Mình không thể giết một người như thế này được. Thật sai lầm khi để cho nàng phải chết.

“Mình sẽ chết đấy. Em thấy vậy được không?”

“Được mà anh”, Kazue vừa chăm chú xem phim vừa trả lời anh.

“Bởi vì anh muốn chết một mình thôi mà”.

Kashichi chợt cảm thấy cơ thể người phụ nữ thật là kỳ diệu. Khi hai người rời khỏi rạp chiếu phim thì trời đã tối. Kazue nói nàng muốn ăn sushi. Kashichi không thích sushi lắm vì có mùi tanh. Hơn nữa đêm nay anh muốn ăn thứ gì đó cao cấp hơn chút.

“Thôi anh không thích sushi đâu”.

“Nhưng em muốn ăn mà”.

Chính Kashichi đã dạy cho Kazue cái tính ích kỷ như thế, đã minh họa cho nàng cái cách uy hiếp giả vờ bằng khuôn mặt ngoan hiền nhu thuận đó.

Tất cả hành vi rồi sẽ quay trở lại mình thôi.

Tại tiệm sushi, hai người có uống chút rượu. Kashichi gọi món hàu chiên. Anh tự nhủ thầm với mình rằng đây là bữa ăn cuối cùng ở Tokyo rồi mỉm cười gượng gạo. Kazue ăn sushi cá ngừ.

“Có ngon không em?”

“Dở lắm anh”, nàng còn phồng má lên mà nhấn mạnh “dở thật đấy”.

Cả hai người không nói chuyện gì nhiều.

Rời khỏi quán sushi, hai người đến rạp biểu diễn hài kịch manzai. Rạp đông không có chỗ ngồi. Ngay cửa rạp người đứng lố nhố nhưng hai người vẫn cố gắng chen vào đứng xem, thỉnh thoảng lại còn phá ra cười nữa. Khán giả quá đông chen chúc nên Kazue dần bị kéo xa khỏi Kashichi đến gần mười mét. Kazue dáng người thấp bé nên nàng phải cố rướn người nhìn lên sân khấu qua vai người khác trông khổ sở vô cùng. Nhìn nàng như một thiếu nữ nhà quê vậy. Giữa vòng vây khán giả, Kashichi chốc chốc lại rướn người lên dõi theo bóng dáng của Kazue. Anh dõi nhìn nàng còn nhiều hơn nhìn lên sân khấu. Kazue ôm chặt cái túi được bọc bằng khăn furoshiki màu đen trước ngực, trong đó có cất mấy hộp thuốc ngủ nhưng vẫn xoay đầu bên này bên kia để nhìn lên sân khấu xem nghệ sĩ biểu diễn. Thỉnh thoảng nàng quay lại tìm bóng dáng của Kashichi. Thỉnh thoảng hai mắt chạm nhau nhưng hai người đều không cười. Kashichi làm ra vẻ mặt bình thản nhưng trong lòng anh lại rất yên tâm.

Nàng chăm sóc mình biết bao nhiêu. Không được quên điều đó. Tất cả trách nhiệm mình sẽ gánh vác. Nếu thế gian chỉ trích nàng, mình phải ra sức bảo vệ bằng mọi giá. Nàng là một người tốt. Điều đó thì mình biết. Và mình tin.

Chuyện sắp tới thì sao? Không được, không thể được. Mình đâu thể mỉm cười cho qua. Chỉ riêng chuyện này là mình không thể bình tĩnh nổi. Không thể nào chịu nổi nữa.

Hãy tha thứ cho tôi. Đây là chủ nghĩa vị kỷ cuối cùng của tôi đấy. Lý luận tôi có thể chịu đựng được. Thế nhưng cảm giác thì không thể nào chịu đựng nổi. Tôi không thể gắng gượng thêm được nữa rồi.

Làn sóng cười đùa lan rộng trong rạp hài kịch. Kashichi nháy mắt với Kazue rồi hai người cùng bước ra ngoài.

“Mình đi Minakami em nhé?”

Trước đó, vào mùa hè năm ngoái hai người đã cùng đi nghỉ ở một lữ quán suối nước nóng tên là Tanigawa Onsen sâu trong núi, cách ga Minakami khoảng một giờ đi bộ.

Tuy là một mùa hè khổ sở thật đấy nhưng mà cũng vì quá khổ sở mà giờ đây nó lại trở thành một kỷ niệm đẹp đẽ ngọt ngào như tấm bưu thiếp đậm đà màu sắc. Núi sông trong cơn mưa rào trắng xóa thật là buồn đến chết người.

Nghe đến Minakami, tinh thần Kazue chợt phấn chấn hẳn lên.

“Nếu vậy em phải mua hạt dẻ ngào đường mới được, bà chủ cứ nói thèm ăn mãi thôi”.

Kazue cũng hay làm nũng với bà chủ lữ quán và bà chủ cũng có vẻ mến nàng nữa. Lữ quán như một dãy trọ nghiệp dư, chỉ có mỗi ba phòng, không có bồn tắm riêng trong nhà. Hai người phải đi đến cái lữ quán lớn bên cạnh còn không thì phải ngâm mình nơi bãi tắm lộ thiên nhỏ ven bờ sông xa mãi tít phía dưới Tanigawa mà ngày mưa thì phải mang dù còn đêm thì phải mang theo đèn lồng hay nến thắp nữa. Hai vợ chồng già chủ lữ quán hình như không có con cái gì và tuy chỉ có ba phòng cho thuê nhưng đôi khi khách cũng đến đông. Những lúc như thế vợ chồng chủ quán tất bật và Kazue có xuống giúp đỡ việc bếp núc hay gây phiền hà gì cho họ nữa không biết. Món ăn thì có thêm đậu nành lên men natto cá hồi nữa, nhà trọ bình thường làm gì có món này. Kashichi cảm thấy vô cùng thoải mái khi ở đây. Bà chủ lữ quán bị những cơn đau răng hành hạ, Kashichi nhìn thấy vậy không nỡ mới tặng bà vài viên aspirin. Phương pháp này hiệu quả vô cùng, bà chủ uống xong cứ thế mà lăn ra ngủ khiến ông chủ vốn hay cưng chiều bà vợ cứ đi loanh quanh với vẻ mặt lo lắng. Kazue thấy cảnh đó thì phá lên cười. Một lần Kashichi đang gục đầu đi dạo nơi bãi cỏ gần đó bất chợt nhìn qua chỗ hành lang lữ quán thì thấy vị phu nhân già đó đang ngồi lặng lẽ nơi góc tối dưới cầu thang hành lang nhìn anh thẫn thờ. Điều đó đã trở thành bí mật quý giá của Kashichi. Tuy nói là bà chủ quán nhưng bà cũng chỉ tầm bốn mươi bốn, bốn mươi lăm tuổi, có khuôn mặt phúc hậu quý phái, tính tình điềm đạm dịu dàng. Ông chủ thì cứ như đứa con nuôi của bà chủ vậy. Kazue tìm mua hạt dẻ ngào đường. Kashichi nói nàng mua nhiều nhiều một chút.

Khi đến ga Ueno, hai người đã bắt đầu ngửi thấy mùi quê hương xa cách. Kashichi lúc nào cũng lo sợ không biết có người nào cùng quê nhìn thấy mình không? Đặc biệt tối hôm đó những người bán hàng và nữ phục vụ dáng vẻ hớn hở cứ như đang lang thang trong ngày nghỉ vậy khiến anh càng phải để ý hơn. Tại cửa hàng, Kazue đã mua một ấn bản đặc biệt của truyện trinh thám hiện đại Nhật Bản còn Kashichi thì mua một chai whisky nhỏ. Hai người lên chuyến tàu lửa khởi hành đi Niigata lúc mười giờ rưỡi.

Sau khi an định chỗ ngồi đối diện nhau, hai người mới khẽ mỉm cười.

“Anh này, anh thấy điệu bộ em như vậy bà chủ sẽ lấy làm lạ hay không?”

“Không sao cả đâu. Em cứ nói là chúng ta đến Asakusa xem phim rồi trên đường về chồng tôi say túy lúy cứ nằng nặc đòi đến thăm bà chủ lữ quán ở Minakami nên bất đắc dĩ tôi cứ thế đưa anh ấy đây vậy. Em chỉ cần nói thế là ổn thỏa thôi”.

“Đúng vậy nhỉ”, Kazute đồng tình. Rồi nàng lại nói tiếp.

“Bà chủ mà thấy mình đến chắc sẽ ngạc nhiên lắm đây”, dáng vẻ của nàng đúng là tàu lửa chưa khởi hành thì không sao yên tâm được.

“Chắc bà ấy sẽ vui lắm đấy”, tàu bắt đầu chạy. Kazue làm vẻ mặt điềm nhiên liếc nhìn chỗ sân ga đợi tàu như thể mọi chuyện đã xong xuôi. Với tâm thế đã sẵn sàng mọi chuyện, nàng mở cái gói hành lý quấn bằng khăn furoshiki trên đầu gối, lấy ra tạp chí truyện trinh thám và bắt đầu lật trang. Kashichi cảm thấy đôi chân mỏi nhừ, nhưng ngực thì cứ phập phồng không yên. Anh chậm rãi nhấp whisky với tâm trạng như thể mình đang uống thuốc vậy.

Nếu mình có tiền thì đâu phải để cho Kazue chết chứ. Nếu như người đàn ông của nàng mà tính tình dứt khoát hơn một chút thì mọi chuyện đã khác rồi. Anh không nỡ lòng nào mà nhìn. Sự tự sát của nàng đúng là vô nghĩa.

“Này em có nghĩ anh là một người tốt không?”, Kashichi đột nhiên hỏi. “Anh nghĩ chắc chỉ có mình anh là cố gắng trở thành một người tốt thôi nhỉ?”

Anh bất chợt nói lớn làm Kazue kinh ngạc hoảng sợ sau đó nàng cau mày tức giận. Kashichi lại mỉm cười yếu ớt.

“Nhưng mà”, anh cố tình hạ thấp giọng. “Em vẫn chưa đến mức bất hạnh như vậy. Căn bản em là một người phụ nữ bình thường không xấu cũng chẳng tốt. Bản chất của em vốn là một người phụ nữ bình thường mà. Nhưng anh thì khác. Anh vốn là một kẻ tệ hại lắm, còn dưới mức bình thường nữa kia?”

Con tàu đi qua Akabane, qua Omiya và cứ thế chạy miệt mài trong bóng tối. Có thể vì say rượu whisky và bị tốc độ của đoàn tàu thúc đẩy nên bất giác Kashichi trở nên hoạt bát hùng hồn.

“Bị đàn bà ghét bỏ nhưng không sao thoát khỏi họ, suốt ngày cứ lẽo đẽo quẩn quanh mãi, anh biết đó tệ hại lắm. Ngu ngốc nữa. Nhưng mà anh đâu phải là đứa trẻ ngoan. Anh ghét phải trở thành một đứa trẻ ngoan ngoãn lắm. Anh là người tốt, bị đàn bà lừa gạt nhưng không sao rũ bỏ được người ta còn bắt người ta chết chung nữa. Bạn bè văn nghệ của anh sẽ nói thật là thuần khiết, thế gian sẽ cười chê là một con người yếu đuối bạc nhược. Người ta chắc sẽ nói những lời đồng cảm tùy tiện như thế đấy. Nhưng anh thì thua cuộc trước nỗi đau khổ của mình nên phải chết. Chứ đâu phải chết vì em chút nào đâu. Chỗ tệ hại của anh nhiều không kể xiết. Anh quá dựa dẫm vào người khác, quá tin tưởng vào sức lực con người. Chuyện đó và nhiều thất bại đáng xấu hổ khác của anh, anh biết cả chứ. Dù gì đi nữa anh cũng muốn sống một cuộc đời bình thường như con người ta, và đã không ngừng cố gắng cho đến bây giờ đấy. Em có hiểu không? Đó là cọng rơm duy nhất anh cố bám víu vào. Anh luôn cố gắng hết sức như thể thêm một chút sức nặng nữa cọng rơm sẽ đứt gãy vậy. Em hiểu chứ? Anh không phải là kẻ yếu đuối bạc nhược. Chỉ là phải gánh vác nỗi sầu khổ quá nặng nề mà thôi. Đó là sự ngu si và lòng căm hận. Thế nhưng nếu nói điều đó ra mà không nói một cách rõ ràng thì người ta sẽ căm ghét. Ngay cả em người quá tin tưởng vào sự mạnh mẽ của cái mặt dày trơ trẽn này của anh cũng sẽ xem thường mà nói “người đàn ông này luôn miệng nói là khổ sở nhưng chỉ là làm bộ làm tịch, kiểu cách mà thôi”.

Kazue lầm bầm điều gì đó.

“Nhưng mà, không sao hết. Không phải là anh chỉ trích hay phê phán gì em cả. Em là người tốt, lúc nào cũng ngoan hiền. Em là người mà người ta nói sao thì tin vậy. Anh không hoàn toàn có ý chỉ trích gì đâu. Ngay cả đám bạn cũ của anh, có học vấn hơn em gấp nhiều lần mà còn chẳng hiểu được nỗi đau khổ của anh nữa. Họ còn chẳng tin vào tình yêu của anh nữa. Mà cũng đâu phải là vô lý. Tại anh tệ hại quá mà”.

Khi anh nói vậy và mỉm cười, trong thoáng chốc Kazue trở bên tự đắc.

“Em hiểu mà. Nhưng đủ rồi đó. Người ta nghe được thì kỳ cục lắm anh”.

“Chắc em không hiểu chút gì đâu. Có lẽ với em anh là kẻ vô cùng ngu ngốc. Có lẽ bây giờ trong góc nào đó khuất kín của tim anh, ý định cố gắng làm một người tốt vẫn còn ẩn nấp đâu đó. Chính vì thế mà anh mới khổ sở đây này. Anh đã sống chung với em sáu, bảy năm rồi nhưng em vẫn chưa một lần nào ghét bỏ cả. Không, anh không có ý chỉ trích gì em hết cả đâu. Điều này là đương nhiên thôi. Có phải là trách nhiệm của em đâu mà”.

Kazue không nghe gì hết. Nàng im lặng đọc tạp chí. Kashichi làm vẻ mặt nghiêm trọng, nhìn ra phía cửa sổ toa tàu tối đen, lẩm bẩm một mình như độc thoại.

“Không phải đùa đâu. Tại sao anh lại là người tốt như thế này chứ? Mọi người cứ chê bai anh đủ thứ, nào là nói dối, lười biếng, kiêu ngạo, xa xỉ, kẻ dụ dỗ đàn bà và nhiều tên gọi xấu xa đáng sợ nữa. Thế nhưng anh chỉ im lặng mà thôi. Không biện giải một lời nào cả. Anh cũng có niềm tin riêng của mình chứ. Có điều anh không thể nào nói ra được cả. Nếu vậy thì còn ra thể thống gì nữa chứ. Không, anh nghĩ đó chính là sứ mệnh lịch sử. Anh không thể sống với hạnh phúc của riêng mình thôi. Mình sẽ đóng một vai phản diện trong lịch sử. Tội ác của Giuda càng ghê gớm thế nào thì ánh sáng nhân từ của chúa Giêsu càng lớn lao chừng đó. Anh nghĩ mình là một loại người tự hủy diệt chính mình. Đó là thế giới quan của anh. Anh thử thực hiện một phản đề mạnh mẽ. Càng nhấn mạnh đến cái xấu của việc tự hủy thì cái bàn đạp của nguồn ánh sáng khỏe mạnh sinh ra từ đó càng bật trở lại dữ đội hơn. Anh tin như vậy và nguyện cầu cho điều đó. Còn bản thân anh thì sao cũng được cả. Anh nghĩ nếu vai trò của mình là phản lập pháp mà có thể đóng góp chút gì đó cho sự tươi sáng ngày mai thì anh chết đi cũng được. Thực sự chuyện này sẽ không ai cười chê đâu. Anh nghĩ vậy đấy. Anh ngu ngốc thật. Có lẽ anh đã sai ở chỗ nào rồi đây. Có lẽ anh có chút tự phụ ở chỗ nào đó đây. Có lẽ chính điều đó là một giấc mơ ngọt ngào. Cuộc sống đâu phải là một vở kịch chứ. Dù sao anh đã thua cuộc và gần chết rồi nên những lời nói riêng với em là hãy cố gắng lên thì đúng là sai lầm thật đấy. Ngay cả chó cũng còn không thèm ăn bữa tiệc từ mùi xú uế của xác anh khi vứt bỏ mạng sống của mình nữa. Có lẽ nó còn gây phiền hà cho người được cho nữa. Vì nếu không giúp ích gì cho sự phồn vinh của họ, thì điều đó có nghĩa gì đâu…”

Cửa sổ toa tàu chỉ im lặng, chắc chắn không có câu trả lời.

Kashichi đứng dậy, lảo đảo đi tìm nhà vệ sinh. Sau khi vào nhà vệ sinh, đóng cửa lại đàng hoàng, Kashichi do dự một chút rồi tập trung chắp hai tay lại. Dáng vẻ nguyện cầu. Không có chút làm bộ làm tịch nào cả.

Khi tàu đến ga Minakami thì đã là bốn giờ sáng. Trời vẫn còn tối. Lớp tuyết dày đáng lo ngại gần như đã tan hết, chỉ hai người còn lại trong bóng tối nhạt mờ nơi sân ga. Mặc dù nghĩ rằng với tình hình này mình có thể đi bộ đến suối nước nóng Tanigawa trong núi nhưng Kashichi vẫn thận trọng đánh thức người tài xế taxi đang ngủ phía trước nhà ga.

Chiếc xe lượn vòng theo hình dích zắc, chậm chạp bò lên trên núi. Tuyết bao phủ núi đồi ngập tràn đến mức nhuộm sáng cả bầu trời u tối.

“Trời lạnh thật đấy nhỉ. Tôi không ngờ lại lạnh như thế này. Ở Tokyo giờ này vẫn còn có người mặc áo vải serge mà đi dạo đấy chứ?”

Anh giải thích với người tài xế lúc chỉnh trang lại y phục của mình. “A, rẽ phải ngay chỗ đó nhé”.

Khi đến gần lữ quán, Kazue chợt trở nên hoạt bát. “Chắc giờ hai ông bà vẫn còn đang ngủ đấy chứ?”, rồi nàng nói tiếp với người tài xế. “Vâng, lên trước một chút nữa ạ”.

“Được rồi, dừng lại”, Kashichi nói. “Còn lại chúng ta đi bộ thôi”. Phía trước là con đường chật hẹp.

Rời khỏi xe taxi, Kashichi và Kazue cởi tất chân và cùng nhau đi bộ khoảng năm mươi mét đến chỗ lữ quán. Tuyết trên đường đang tan bám một lớp mỏng ướt át nguy hiểm vào đôi guốc hai người đang mang. Khi Kashichi định gõ cửa lữ quán, thì Kazue đang đi chậm phía sau anh một chút vội vàng chạy lên mà nói.

“Để em gõ cửa cho. Chính em đánh thức bà chủ dậy mới được”.

Vẻ mặt của nàng thật đúng như đứa trẻ đang muốn tranh công vậy.

Vợ chồng chủ lữ quán vô cùng kinh ngạc. Nói đúng hơn là họ hoảng hốt một cách thầm lặng.

Kashichi một mình xăm xăm lên tầng hai, vào căn phòng mà anh từng nghỉ lại mùa hè năm trước, với tay bật công tắc đèn. Anh nghe tiếng Kazue vọng đến.

“Tại vì chồng con cứ nhất quyết phải đến chỗ bà bằng được đấy mà. Nghệ sĩ đúng là trẻ con bà nhỉ?”

Kazue vui vẻ cười đùa như thể không để tâm đến lời nói đối đó. Nàng tiếp tục nói về chuyện ở Tokyo người ta đang mặc áo serge mà đi dạo ngoài đường.

Bà chủ lặng lẽ lên tầng hai, chậm chạp mở cánh cửa chớp rồi nói.

“Lâu rồi cậu mới đến nhỉ?”

Bên ngoài, trời đã sáng hơn mấy phần. Dãy núi trắng tinh gần như hiện ra ngay trước mắt. Khi Kashichi thử nhìn xuống thung lũng, anh có thể thấy lờ mờ một dòng sông đen đang chảy dưới lớp sương mù buổi sáng.

“Lạnh kinh người”, anh nói dối dù trời không lạnh đến mức như vậy. “Muốn uống rượu ghê”

“Cậu vẫn ổn cả chứ?”

“À, ổn lắm. Tôi mập ra đây này”.

Kazue tự mình mang lên một cái bàn sưởi kotatsu lớn.

“A nặng quá. Này bà ơi, con mượn cái bàn sưởi này của ông một chút nhé. Ông cũng nói con có thể mượn đấy. Lạnh ghê nơi”

Không nhìn về phía Kashichi, nàng cứ thế mà nói đùa chơi một mình theo cách rất kỳ khôi.

Nhưng khi chỉ còn lại hai người, nàng ngay lập tức trở nên nghiêm túc.

“Em mệt rồi. Giờ mình đi tắm rồi ngủ một giấc thôi anh”.

“Có lẽ mình xuống chỗ tắm lộ thiên phía dưới được đấy nhỉ?”

“Có lẽ được đấy anh. Ông chủ cũng nói ông xuống đó ngâm mình mỗi ngày mà”.

Ông chủ mang một đôi giày rơm lớn, tiếp tục giẫm lên lớp tuyết mới rơi hôm qua đã bị giẫm cứng tạo thành đường đi chỉ dẫn cho Kashichi và Kazue. Hai người theo sau xuống đến dòng sông dưới thung lũng trong ánh rạng đông. Hai người cởi kimono để trên tấm chiếu rơm do ông chủ mang đến rồi ngâm mình trong làn nước ấm. Thân hình Kazue thật đầy đặn tròn trịa. Thật không sao nghĩ được là tối hôm nay cơ thể đó sẽ trở thành vật chết.

Chờ cho ông chủ đi khỏi, Kashichi mới nói.

“Khu vực đó đấy nhỉ?”

Nói xong Kashichi hất cằm về phía dãy núi trắng với sương mù buổi sáng đang chậm chạp phủ vây.

“Nhưng tuyết dày quá. Không biết mình có leo lên được không anh?”

“Vậy thì mình đi xuống phía hạ lưu một chút. Phía ga Minakami tuyết không dày lắm đâu”.

Hai người cùng nhau thảo luận về nơi sẽ chết.

Khi trở về lữ quán, hai người đã thấy chăn mền trải sẵn. Ngay lập tức Kazue trườn vào và bắt đầu đọc tạp chí. Phía dưới chân nàng là một lò lửa lớn, có vẻ ấm áp vô cùng. Còn Kashichi cuộn tấm chăn của mình lại, ngồi khoanh chân trước bàn, sát với lò than và uống rượu. Mồi nhắm là cua đóng hộp và nấm đông cô sấy khô. Còn có cả táo nữa.

“Này, em có muốn ở thêm một đêm nữa không?”

“Vâng”, Kazue vừa đọc tạp chí vừa trả lời. “Em thì sao cũng được. Nhưng có vẻ mình không còn đủ tiền đấy anh”.

“Vậy mình còn khoảng bao nhiêu?”, Kashichi vừa hỏi vừa cảm thấy xấu hổ đỏ bừng mặt mũi.

Vẫn còn do dự. Đáng căm ghét. Điều cẩu thả nhất trên đời. Mình thật vô dụng. Mình vẫn còn chưa quyết ý như vậy phải chăng là vì vẫn còn quyến luyến ham muốn thân hình của người phụ nữ này chăng?

Kashichi khổ sở.

Mình còn ý muốn sống tiếp với người phụ nữ này nữa sao? Nhưng còn nợ nần, số tiền vay mượn bất chấp đạo lý thì sao? Thanh danh nhơ nhuốc, tiếng xấu nửa dại nửa điên thì phải làm sao đây? Nỗi khổ sở bệnh tật mà ai cũng mỉa mai không chịu tin thì phải làm sao chứ? Rồi còn gia đình họ hàng nữa chứ.

“Này, có vẻ như em phải chịu thua trước gia đình của anh rồi nhỉ. Có vẻ là vậy rồi”.

Kazue mắt vẫn nhìn vào quyển tạp chí, trả lời ngay lập tức.

“Đúng vậy. Dù sao em cũng là người con dâu mà không ai ưa nổi cả”.

“Không, không thể nói hoàn toàn như vậy được. Nhưng em cũng có một phần thiếu cố gắng nữa”.

“Đủ rồi đấy”, Kazue nói và ném quyển tạp chí đi. “Anh chỉ suốt ngày nói lý lẽ. Vì thế mà em rất ghét đấy”.

“A, ra vậy? Thì ra em căm ghét anh à? Thật là thất lễ quá đi”, Kashichi nói giọng say sưa lè nhè.

Tại sao mình không ghen tức nhỉ? Phải chăng mình quá tự phụ kiêu ngạo chăng? Chắc chắn là mình không căm ghét chính mình rồi? Mình có thể tin điều đó đấy. Mình cũng không thèm nổi giận nữa. Một người như vậy có phải là quá đỗi yếu đuối bạc nhược hay không? Có lẽ chính cái cách cảm nhận của mình như vậy mới là ngạo mạn không biết chừng? Nếu như vậy thì tất cả những suy nghĩ của mình đều là tệ hại hết cả. Cách sống của mình từ xưa đến giờ cũng đều là hư hỏng hết. Đó cũng chẳng phải là điều vô lý hay bí ẩn gì mà tại sao mình không thể đơn giản là cảm thấy căm ghét được chứ? Chẳng phải lòng ghen tuông như thế mới đơn thuần và đẹp đẽ hay sao? Chính cơn nổi giận lôi đình muốn trừng phạt kẻ ngoại tình mới là sự trung thực cao nhất chứ? Chính cái tư thế uất ức muốn chết đi vì bị đả kích do bị vợ mình phản bội mới là nỗi buồn thanh thuần chứ nhỉ? Nhưng mà mình là gì chứ? Mình là người do dự không dứt khoát, là người tốt, nào là đạo đức, tôn nghiêm, tiền vay mượn, trách nhiệm, sự nhờ vả, phản đề, nghĩa vụ lịch sử, gia đình họ hàng… A, không thể nào được.

Kashichi nghĩ mình muốn vung gậy loạn xạ để đập vỡ đầu mình.

“Ngủ một giấc rồi xuất phát. Quyết định vậy đi”.

Kashichi với tay lấy đại tấm nệm futon của mình rồi vùi người vào đó.

Có vẻ đã khá say nên Kashichi có thể ngủ được. Khi anh mơ màng thức dậy thì đã quá trưa. Kashichi không thể nào chịu nổi sự cô đơn hiu quạnh. Anh bật ngay dậy vừa nói lạnh quá lạnh quá rồi gọi người ở nhà dưới mang rượu lên.

“Này, dậy đi em. Mình xuất phát nào”.

Kazue ngủ với cái miệng he hé mở ra. Nàng mở mắt dậy thảng thốt.

“A, mình ngủ đến giờ này luôn à?”

“Không, chỉ mới quá trưa một chút thôi. Nhưng anh không chịu nổi nữa rồi”.

Mình không muốn nghĩ ngợi thêm gì nữa. Mình chỉ muốn chết thật nhanh thôi.

Rồi sau đó mọi chuyện diễn biến nhanh chóng. Kashichi để Kazue nói với ông bà chủ là hai người muốn đi tham quan suối nước nóng gần đây rồi rời lữ quán. Bầu trời xanh thoáng đãng, vì hai người vừa xuống núi vừa muốn ngắm quang cảnh trên đường đi nên không gọi xe taxi. Đi đến một quãng xa ngoái nhìn lại thì thấy bà chủ lữ quán đang chạy đuổi theo sau.

“Này bà chủ đang đến đấy”, Kashichi nói với vẻ bất an.

“Này, cầm lấy”, bà chủ lữ quán đỏ mặt đưa cho Kashichi một gói giấy.

“Vải sồi đấy. Tôi tự se sợi làm thành đấy. Không có gì đâu”.

“Cám ơn bà nhé”, Kashichi nói.

“Bà lo lắng cho chúng cháu quá”, Kazue nói. Rồi hai người cảm thấy nhẹ nhõm làm sao.

Khi Kashichi hăm hở bước đi thì nghe bà chủ nói.

“Đi cẩn thận nhé”.

“Chà bà chủ cũng giỏi giang ghê nơi”.

Phía sau hai người, bà chủ vẫn còn đứng chào. Kashichi đột nhiên quay người lại và nói.

“Bà chủ, bắt tay cái nào”.

Bị nắm tay thật chặt, vẻ mặt bà chủ trở nên ngượng ngùng và có phần sợ hãi nữa.

“Anh ấy say rượu đó mà”, Kazue đứng bên cạnh giải thích.

Thì ra say rượu à? Hai người chia tay bà chủ tươi cười rồi chậm chạp xuống núi. Tuyết đã mỏng dần. Kashichi bắt đầu thì thầm bàn bạc với Kazue là chỗ này nhỉ hay là chỗ kia thì được. Kazue nói thôi để gần phía ga Minakami hơn một chút để bớt cảm thấy cô đơn. Và rồi khu phố Minakami bắt đầu hiện ra dưới tầm mắt.

“Không còn do dự gì nữa hết nhỉ?”, Kashichi làm ra vẻ vui vẻ mà nói.

“Vâng”, Kazue nghiêm túc gật đầu.

Kashichi cố ý đi vào khu rừng sam phía bên trái con đường. Kazue lầm lũi theo sau. Tuyết gần như đã tan hết. Lá rụng chất chồng dày đặc ẩm ướt. Không sao cả, cứ tiến lên thôi. Chỗ dốc thì lần mò leo lên. Ngay cả cái chết cũng phải cần nỗ lực. Cuối cùng cũng tìm được bãi cỏ rộng đủ chỗ cho hai người ngồi. Chỗ này cũng có ít nắng rọi vào và cả một con suối nhỏ nữa.

“Chỗ này đi nhé”, hai người đã thấm mệt.

Kazue lấy cái khăn tay trải ra ngồi xuống và bị Kashichi cười chế nhạo. Kazue gần như im lặng. Kashichi lấy từng hộp thuốc ra và xé bao bì. Anh lấy thuốc ra và nói.

“Loại thuốc này anh rành lắm. Em chỉ cần uống chừng này là đủ thôi”.

“Sao ít vậy? Chùng này có đủ chết không anh?”

“Người mới sử dụng lần đầu chỉ cần như vậy thôi là đủ chết rồi đấy. Còn anh uống tùy tiện đã quen nên phải gấp mười lần em mới được. Nếu còn sống thì anh thật không thể nào nhìn em mà chịu nổi đâu”. Nếu còn sống thì đúng là ngục tù đấy.

Tuy vậy, chẳng phải việc mình để cho Kazue sống sót chính là cách trả thù ti tiện đó hay sao? Không lẽ lại giống tiểu thuyết thông tục viết để chiều lòng người đến thế? Kashichi thậm chí còn cảm thấy phát cáu lên, đổ hết thuốc đầy cả lòng bàn tay, rồi dùng nước suối mà uống cạn. Kazue thấy thế cũng vụng về lấy thuốc uống cùng.

Hai người hôn nhau rồi cùng ngả người nằm xuống.

“Chà, thôi vĩnh quyết từ đây. Người nào còn sống sót thì phải sống cho mạnh mẽ lên nhé”.

Kashichi biết rằng chỉ với số thuốc ngủ này thì mình vẫn chưa thể chết được. Anh lặng lẽ di chuyển thân mình ra đến rìa vách đá, tháo dây đai lưng áo, buộc ngang cổ, một đầu buộc vào thân cây gì giống như cây dâu để đến khi anh vừa thiếp ngủ thì người cũng trượt ra ngoài vách đá rồi bị siết cổ đến chết. Anh đã lên kế hoạch trước. Vì thế mà Kashichi mới cố ý chọn bãi cỏ trên vách đá này. Anh thiếp đi và lơ mơ nhận thấy mình bị trượt ngã.

Lạnh quá. Anh mở mắt ra. Trời đất tối đen. Ánh trăng lênh láng. Đây là nơi đâu?

Hốt nhiên anh nhận ra mình còn sống.

Kashichi đưa tay lên cổ. Dây đai lưng vẫn quấn chặt. Lưng anh lạnh ngắt. Anh đã trượt xuống vũng nước. Và bất chợt hiểu ra. Anh đã không rơi thẳng theo vách đá mà cơ thể anh nghiêng qua trượt xuống vũng nước trên mỏm đá thôi. Nước rỉ ra từ con suối đọng thành vũng lạnh đến nỗi anh muốn đông cứng lại từ đầu đến chân. Mình vẫn sống. Chưa thể chết được. Đây là một sự thực nghiêm túc. Nhưng trên tất cả, không được để cho Kazue chết. A, còn phải ráng sống, ráng mà sống thôi.

Tứ chi bải hoải, đứng dậy cũng chẳng phải dễ dàng gì. Dùng toàn bộ sức lực, Kashichi ráng ngồi dậy, tháo chiếc đai lưng một đầu đang buộc vào thân cây ra khỏi cổ, khoanh chân ngồi trong vũng nước, nhìn quanh quẩn. Không thấy bóng dáng của Kazue đâu cả.

Kashichi bò xung quanh tìm kiếm Kazue. Dưới vách đá có một vật thể màu đen. Nhìn giống như một con chó nhỏ. Khi anh lần mò bò xuống vách đá để nhìn cho kỹ hơn thì đúng là Kazue. Kashichi thử nắm lấy chân nàng xem thử thì thấy lạnh toát. Không lẽ chết rồi sao? Anh dùng lòng bàn tay đặt nhẹ lên miệng của Kazue để kiểm tra hơi thở. Không có. Ngu ngốc thật. Chết luôn rồi à? Sao ích kỷ như thế chứ? Tự nhiên anh cảm thấy tức giận một cách kỳ lạ. Kashichi thô bạo nắm lấy cổ tay Kazue để xem mạch đập. Mạch đập yếu ớt như tơ. Còn sống. Vẫn còn sống. Anh đưa tay lên ngực nàng thử xem. Vẫn còn ấm. Gì đây chứ. Thật là ngu ngốc mà. Mình ghét phải sống. Cũng ghê gớm, ghê gớm đấy. Anh thấy tội nghiệp quá đỗi. Chỉ với chừng đó thuốc làm sao có thể chết được cơ chứ. Cảm thấy chút gì đó như niềm hạnh phúc, Kashichi nằm xuống cạnh Kazue và sau đó anh cũng chẳng biết trời trăng mây gió gì nữa.

Khi Kashichi thức dậy lần thứ hai, anh thấy Kazue bên cạnh đang ngáy rền. Kashichi nghe thấy mà cảm thấy xấu hổ. Đúng là một người phụ nữ khỏe mạnh thật.

“Này, Kazue, tỉnh dậy đi em. Mình còn sống. Hai đứa mình vẫn còn sống cả đấy”. Kashichi vừa mỉm cười khổ sở vừa lay bờ vai của Kazue.

Kazue nằm ngủ rất yên bình. Những cây sam núi cao vút đứng lặng lẽ trong đêm khuya, nửa vầng trăng lạnh lẽo treo trên đầu ngọn cây hình mũi kim sắc nhọn. Không hiểu sao Kashichi trào nước mắt. Rồi anh bật khóc thổn thức. Mình vẫn còn là một đứa trẻ. Tại sao một đứa trẻ lại phải chịu đớn đau khổ sở như thế này?

Đột nhiên Kazue nằm bên cạnh anh hét lên.

“Đau quá bà ơi. Ngực con đau quá”, giọng nàng nghe như tiếng sáo.

Kashichi kinh ngạc. Giọng nàng lớn đến mức nếu có người đi qua nơi con đường dưới núi mà nghe thấy thì chắc chịu không nổi.

“Kazue à. Đây không phải là lữ quán đâu. Bà chủ không có ở đây đâu mà”.

Chắc chắn Kazue không hiểu. nàng cứ kêu gào đau lắm đau lắm rồi lăn lộn khổ sở nhào xuống phía dưới. Kashichi nghĩ không khéo con dốc thoai thoải này sẽ đưa thân hình Kazue xuống đến tận con đường phía dưới núi nên vội vàng ráng sức lăn người đuổi theo theo sau. Bị một cây sam lớn ngáng đường, Kazue bám chặt vào đó rồi gào lớn.

“Lạnh quá, bà ơi. Mang cho con cái lò sưởi kotatsu đi”.

Khi Kashichi tiến lại gần và nhìn khuôn mặt Kazue phản chiếu dưới ánh trăng thì thấy hình dáng nàng gần như không phải là con người nữa. Mái tóc sổ tung ra bám dính đầy lá mục, rối tung rối mù như thể tóc của nhân vật bị sư tử nhập trong kịch Kabuki, như tóc của Sơn mụ trong truyền thuyết.

Mình phải mạnh mẽ lên, chỉ còn lại một mình cũng phải mạnh mẽ lên. Kashichi lảo đảo đứng dậy, ôm lấy thân hình Kazue, cố sức đưa nàng về lại phía khu rừng sam. Ngã quỵ, bò lên, trượt xuống, bám vào thân cây, cấu cào mặt đất, từng chút từng chút, Kashichi đưa Kazue về phía khu rừng. Nỗ lực miệt mài suốt mấy tiếng đồng hồ liên tục.

A, thôi đủ rồi. Người đàn bà này quá nặng nề với mình. Nàng là người tốt nhưng quá thừa với mình. Mình là kẻ yếu ớt vô lực. Mình phải khổ sở vì con người này cho đến hết đời sao? Không được, chán rồi. Chia tay đi thôi. Mình đã cố gắng tận cùng sức lực. Đó là lúc Kashichi quyết tâm dứt khoát. Người đàn bà này không được. Chỉ có mình cứ bám víu mãi. Thôi người đời nói gì cũng mặc kệ. Mình sẽ chia tay với người đàn bà này thôi.

Bình minh đến gần, bầu trời chuyển sang màu trắng. Kazue cũng dần dần trở nên ngoan hiền trở lại. Sương sớm phủ khắp khu rừng.

Cứ đơn giản thẳng thắn thôi. Thẳng thắn đơn giản vào. Đừng cười sự đơn giản của từ “nam tính”. Con người không có cách sống nào khác hơn sống đơn giản đâu.

Kashichi cẩn thận dùng tay gỡ từng chiếc lá sam bám trên đầu Kazue đang nằm ngủ bên cạnh mình.

Mình yêu người đàn bà này. Mình yêu nàng mà không hiểu tại sao. Chính nàng là nguồn cơn của nỗi khổ đau của mình. Nhưng mà thôi đủ rồi. Mình đã có được sự mạnh mẽ để vừa yêu vừa cách xa. Để sống sót thì ngay cả tình yêu cũng phải hy sinh. Điều này chẳng phải là đương nhiên hay sao chứ? Con người trên thế gian này đều sống như vậy cả mà. Sống đương nhiên như thế. Đâu còn cách sống nào khác đâu. Mình không phải thiên tài cũng chẳng phải kẻ điên khùng gì.

Kazue cứ ngủ ngon lành cho đến quá trưa. Trong khoảng thời gian đó, Kashichi cứ vừa loạng choạng mà làm đủ việc như cởi bộ quần áo kimono sũng nước của mình phơi khô rồi đi quanh quẩn tìm đôi guốc của Kazue, chôn những hộp thuốc rỗng xuống đất, dùng khăn tay lau những vết bùn đất trên quần áo của Kazue.

Khi Kazue thức dậy và nghe Kashichi kể về chuyện đêm hôm qua, nàng liền vội cúi đầu.

“Xin lỗi anh”. Kashichi mỉm cười.

Kashichi giờ có thể đi bộ nhưng Kazue thì vẫn chưa. Hai người cứ ngồi yên một lúc lâu, bàn bạc chuyện hôm nay và về sau. Tiền bạc thì còn khoảng gần mười yên. Kashichi thì có ý muốn hai người cùng quay trở về Tokyo nhưng Kazue thì nói là bộ quần áo kimono của mình quá bẩn thỉu không thể cứ thế mà lên tàu được đâu. Cuối cùng hai người thống nhất phương án là Kazue sẽ đón xe taxi, quay trở lại lữ quán Tanigawa, nói dối với bà chủ là mình đi tản bộ đến chỗ suối nước nóng kia rồi bị té ngã mà lấm lem hết quần áo, rồi ở lại đó nghỉ ngơi tĩnh dưỡng còn Kashichi thì lên tàu về Tokyo trước mang theo tiền bạc và quần áo quay trở lại đón sau. Vì quần áo của Kashichi đã khô nên anh một mình rời khỏi khu rừng sam, xuống đến phố Minakami mua bánh gạo, kẹo caramal và nước chanh rồi quay về cùng ăn với Kazue. Kazue nhấp một ngụm nước chanh và nôn ra.

Hai người ở bên nhau cho đến khi trời tối. Cuối cùng Kazue cũng có thể nhúc nhắc đi lại được. Hai người cùng nhau lẻn ra khỏi khu rừng. Sau khi đón taxi cho Kazue quay về lữ quán suối nước nóng, Kashichi một mình trở về Tokyo bằng tàu lửa.

Sau đó Kashichi bộc bạch mọi chuyện với chú của Kazue và nhờ vả mọi chuyện còn lại. Người chú vốn kiệm lời, nghe thế thì nói.

“Thật là đáng tiếc quá”.

Vẻ mặt chú thể hiện sự tiếc nuối thật sự.

Người chú đi đón Kazue trở về cho nàng tá túc ở nhà mình.

“Con bé Kazue này cứ như con gái của ông bà chủ lữ quán vậy. Đêm đến nó cứ trải nệm futon giữa hai ông bà mà ngủ ngon lành. Đúng là kỳ lạ thật”. Người chú nói và lắc đầu cười. Ngoài ra không còn nói thêm bất cứ điều gì nữa.

Người chú này rất tốt. Cho dù là Kashichi đã chia tay hẳn hoi với Kazue mà vẫn không giữ kẽ gì, thỉnh thoảng vẫn cứ cùng Kashichi đi chơi bời uống rượu. Nhưng có đôi lúc, người chú như nhớ ra điều gì và bất chợt nói.

“Kazue cũng tội nghiệp thật đấy chứ”.

Mỗi lần như vậy, Kashichi lại cảm thấy yếu đuối và khó xử vô cùng.

Hoàng Long dịch từ nguyên tác Nhật ngữ

Đọc bài viết

Sáng tác

Truyện ngắn | Hải Âu – Dazai Osamu

Published

on

Lời người dịch:

Dazai Osamu (1909-1948) là một đại văn hào Nhật Bản, thành viên chủ chốt của nhóm văn học “Vô lại phái” (Buraiha 無頼派), một nhóm nhà văn có khuynh hướng nổi loạn và tự hủy sau chiến tranh thế giới thứ hai. Ông rất thành công với thể loại “tiểu thuyết tự thuật” (shi shosetsu 私小説 – tư tiểu thuyết). Những tác phẩm quan trọng của ông như “Thất lạc cõi người”, “Tà dương”, “Nữ sinh” hay những truyện ngắn đặc sắc khác đều có liên hệ đến cuộc đời bi thảm của ông. Dazai trầm mình tự sát cùng với người tình Tomie vào năm 1948 ở tuổi ba mươi chín, sau bốn lần nỗ lực trước đó không thành.

Nhân dịp kỷ niệm 77 năm ngày mất của văn hào Dazai, chúng tôi xin được gửi đến quý độc giả hai truyện ngắn mang tính tự thuật nhất của Dazai, lần đầu tiên được dịch ra Việt ngữ là “Hải âu” và “Đành tâm chối bỏ”.

Truyện ngắn “Hải âu” là bản tuyên ngôn tư tưởng của Dazai Osamu về văn học cũng như về niềm tin yêu gửi gắm vào thế hệ trẻ tuổi. Nhiều quan điểm riêng của ông về niềm tin yêu cái đẹp, sự cố gắng sống và viết thành thật, vai trò của sự hối hận, phản tỉnh trong văn chương…đều được miêu tả đậm nét, không dấu giếm. Có thể xem đây là một truyện mang tính tự thuật nhất của văn hào Dazai về nghề văn. Truyện được chúng tôi dịch từ nguyên tác “Kamome” (鷗) trong tập “Tiếng dế nỉ non” (きりぎりす), nhà xuất bản Shinchosha tái bản lần thứ 73 năm 2018 , từ trang 123 đến 145.

Còn truyện ngắn đặc sắc “Đành tâm chối bỏ” (Ubasute) viết về chuyến tự sát đôi không thành với H, một người phụ nữ trong đời Dazai, đã phản bội Dazai đi theo một người họa sĩ. Ở ranh giới sinh tử, nhân vật Kashichi (là hình bóng Dazai) đã lấy lại sức mạnh để thẳng thắn chia tay và sống tiếp tục cuộc đời mình. Trong tác phẩm chúng ta cũng nhận thấy rõ nỗi dằn vặt day dứt về thế gian, cuộc sống và tình yêu của Dazai.

Chính Dazai trong một truyện ngắn tự thuật khác “Tám cảnh sắc Tokyo” đã viết về truyện ngắn này như sau:

“Vào mùa hè năm ba mươi tuổi, lần đầu tiên tôi mới nghiêm túc quyết ý đi theo con đường văn chương. Nghĩ lại thì đó là một ý nguyện muộn màng. Tôi đã ráng hết sức viết văn trong căn phòng bốn chiếu rưỡi không có lấy một đồ đạc gì cho ra hồn. Cơm tối của nhà trọ tôi để lại một phần trong hộp cơm, lén nắm lại thành cơm nắm để lót dạ khi làm việc khuya. Lần này tôi không viết di thư di chúc gì cả. Mà là viết để sống. Có một vị tiền bối đã khích lệ tôi. Cho dù thế gian khinh ghét cười nhạo tôi thì chỉ có vị tác gia tiền bối đó trước sau vẫn đối xử với tôi thân thiết. Tôi phải báo đáp lại sự tin tưởng đáng quý ấy. Cuối cùng tôi cũng viết xong tác phẩm “Đành tâm chối bỏ” (Ubasute). Truyện này tôi viết lại thành thực việc tôi và H dự tính tự sát tại suối nước nóng Minakami…” (*)

(*) Dazai Osamu, “Tám cảnh sắc Tokyo” trích trong tập “Thất lạc cõi người”, Hoàng Long dịch, Nxb Hội Nhà Văn và Phương Nam ấn hành, tái bản lần thứ 12, trang 218.

Truyện được chúng tôi dịch từ nguyên tác “姥捨て” trên trang mạng kho sách ngoài trời Aozora: https://www.aozora.gr.jp/cards/000035/files/2256_19985.html.

Xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả như một nén tâm hương tưởng nhớ một đời văn tài hoa “nhất phiến tài tình thiên cổ lụy”. Mong rằng chúng ta luôn giữ cho mình một tấm lòng thành thực “nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ” (一片冰心在玉壺 (một mảnh lòng trong sáng như băng trong bình ngọc, thơ Vương Xương Linh) cùng với văn chương.

Hoàng Long

./.

HẢI ÂU

Dazai Osamu

ひそひそ聞える。なんだか聞える。

Hãy nghe lời thì thầm. Người có nghe gì không?

“Tôi cười tôi khóc bâng quơ, người nghe người khóc có ngờ chi không?”

 (Bùi Giáng)

Hải âu là loài chim câm. Nghe như vậy hầu hết mọi người đều thản nhiên thừa nhận mà nói rằng à, ra vậy, có lẽ vậy nhỉ. Nhưng tôi nghe thế thì vô cùng hoảng hốt buồn thương mà thú nhận cảm xúc thất thường của mình là “Trời, sao tội vậy? Thật ư? Bị câm thì thật là buồn”. Đôi khi tôi cảm thấy mình như loài chim hải âu câm lặng đó.

Đã đủ tuổi chín chắn rồi vậy mà ban ngày vì buồn bã chán chường ra ngoài đi dạo, lấy chân đá vào viên sỏi nhỏ trên đường cho nó lăn lăn rồi đi một lúc lại lén lấy chân đá tiếp đến khi định thần thì thấy mình đã chạy đuổi mà đá cùng một viên sỏi đến hai ba quãng đường. Tôi lại đuổi theo đá tiếp. Cứ hai tay đút túi, đá viên sỏi rồi đi như một kẻ ngớ ngẩn ngu si. Quả thật mình là một kẻ bệnh tật quá nhỉ? Mình đã sống sai cách rồi. Có lẽ mình đã hiểu nhầm về việc viết tiểu thuyết. “Được rồi”, tôi thử cất lên một tiếng thì thầm với mình rồi lấy đà nhảy qua vũng nước giữa đường. Vũng nước phản chiếu trời thu trong xanh với mây trắng lững lờ. Vũng nước sao mà đẹp quá, tôi nghĩ thầm. Hốt nhiên, gánh nặng trên vai được tháo xuống, tôi muốn mỉm cười. Chừng nào vũng nước nhỏ này còn tồn tại thì nghệ thuật của tôi sẽ có nền tảng mà dựa vào. Tôi quyết định mình sẽ không bao giờ lãng quên vũng nước đó.

Mình là một gã đáng hổ thẹn. Sống không có phương hướng gì hết. Có lẽ mình chỉ là một người trong số “đám đông” trôi dạt vô định ngả nghiêng phải trái theo từng con sóng đời đưa đẩy thôi chăng? Bây giờ mình lại lên chuyến tàu lửa tốc hành với tốc độ kinh người này để làm gì cơ chứ? Chuyến tàu này đi về đâu mình còn chẳng biết nữa mà. Mà cũng chẳng có ai chỉ cho mình biết. Tàu cứ thế mà chạy với những tiếng rền vang ầm ĩ. Bây giờ là qua núi, bây giờ là bãi biển, bây giờ là cầu sắt, vừa qua cầu thì đến một đường hầm tối tăm, và rồi cánh đồng trải rộng. Tàu đi mải miết, cảnh sắc cứ trôi miệt mài… Tôi bâng quơ thờ thẫn nhìn phong cảnh lướt qua cửa sổ toa tàu. Tôi dùng ngón tay vẽ vời dáng vẻ khuôn mặt nhìn nghiêng trên cửa kính rồi lại xóa đi. Ngày dần tàn, ngọn đèn điện trong toa tàu sáng lên hiu hắt. Tôi lần giở hộp cơm nghèo nàn mang theo ăn trong lặng lẽ. Món cá khô sao mà cô đơn vô hạn, tôi ăn không sót một hạt cơm nào, rồi hút điếu thuốc Bat giá chín xu. Đêm khuya rồi, mình phải ngủ thôi. Thế là tôi ngủ. Dưới gối, tiếng tàu nghiến trên đường ray rền rĩ. Dù vậy thì mình cũng phải ngủ thôi. Tôi nhắm mắt lại. Bây giờ tàu đang qua núi, bây giờ tàu qua vịnh biển…Giọng cô trinh nữ tội nghiệp hát bài ca đó như vang vọng từ dưới đáy thịnh nộ của tiếng tàu rền vang.

Có người nào mà không nhiệt tình ái quốc chứ? Nhưng tôi không thể nói ra điều đó. Tôi không thể trâng tráo nói lớn giọng về điều đó được. Từ trong đám đông, có lần tôi đã lén nhìn những người lính ra trận rồi khóc thút thít. Mình sức khỏe hạng ba. Bẩm sinh cơ thể đã yếu đuối bạc nhược. Ngay cả khi hít xà đơn, tôi cũng cứ thế treo người mà không thể làm nổi một động tác nào. Còn tập thể dục theo đài radio thì còn không tập hết bài luôn. Thân thể đã yếu ớt như thế mà tinh thần lại còn bạc nhược nữa. Đúng là hết thuốc chữa. Mình không có lấy một chút lực nào mà đi chỉ dẫn người ta. Ngay cả lòng ái quốc lặng thầm đây mình nào có thua ai mà không không thể nói ra được. Tôi cảm thấy như những lời tuyên ngôn ái quốc dâng trào đến tận cổ họng mà sao mình vẫn không thế nói được. Không phải là mình biết mà không nói. Lời sắp sửa trào ra khỏi họng luôn mà sao lại không thốt ra được. Tôi cảm giác đó là những lời rất đẹp đẽ và mình bây giờ đang nắm chặt lấy những ngôn từ kia rồi mà càng vội vàng thì nó càng chạy bay chạy biến đi mất. Chỉ còn tôi đỏ mặt tía tai, như kẻ ngu ngốc vô năng mà cứ thế đứng thẫn thờ. Mình không thể viết được một đoạn thơ về lòng ái quốc. Mình chẳng viết được điều gì cả. Có ngày những lời nói ấp ủ của tôi được trút ra với điệu bộ khổ sở thì chỉ là câu “chết đi, vạn tuế” mà thôi. Vốn chẳng biết phương pháp nào diễn tả sự trung thành ngoài cái sự chết ra thì tôi đúng là một gã quê mùa ngu ngốc quá.

Mình chỉ là một thị dân yếu đuối và nhỏ bé. Làm được một túi quà úy lạo nghèo nàn, liền đưa cho vợ bảo ra bưu điện gửi đi. Rồi từ chiến trường có thông báo biên nhận trang trọng gửi về. Tôi đọc những dòng chữ đó mà mặt mũi phừng phừng như lửa cháy. Thật xấu hổ làm sao. Nói cho đúng từ thì là sợ hãi đến mức co rúm cả người lại. Tôi chẳng làm được tích sự gì cả. Tôi chẳng thốt ra được lời nào kiên quyết mãnh liệt. Những câu yêu nước trâng tráo tôi không thể nào nói ra. Tôi chỉ có thể viết được những bức thư yếu đuối xun xoe gửi cho những người bạn ở chiến trường. (Nhưng bây giờ tôi đang viết thành thật về mọi thứ). Bức thư ủy lạo của tôi thật là tệ hại, chỉ toàn những lời dối trá mà thôi. Những lời giả dối nịnh bợ trâng tráo đến mức tôi cũng phải nghiến răng kinh ngạc. Tại sao như thế chứ? Tại sao mình lại trở nên ti tiện đối với những người lính đang ngoài chiến trường như vậy? Không phải là mình đã nỗ lực cả sinh mệnh để làm ra một thứ nghệ thuật tuyệt diệu sao? Ngay cả một niềm kiêu hãnh nhỏ nhoi duy nhất đó mà mình cũng đang tâm vứt bỏ à? Người bạn từ chiến trường cũng gửi về bản thảo truyện ngắn, nhờ tôi giới thiệu cho tòa soạn báo. Bản thảo đó viết đầy trên xấp giấy phương Tây, với những nét chữ nhàu nhĩ chen chúc bé như hạt gạo mà có truyện cũng khá dài, kín hết hai trang giấy. Tôi đọc nghiêm túc chăm chú. Không hay chút nào. Cảnh sắc nơi chiến trường được viết trong truyện chẳng có chút khác biệt gì với cảnh sắc tôi tưởng tượng ra khi chống cằm suy tư nơi cái bàn viết ở nhà mình cả. Không có một chút cảm động mới mẻ nào hết. Mặc dù bản thảo viết “tôi vô cùng cảm kích” thế nhưng cái nỗi cảm kích đó được nhồi nhét bởi thứ văn học phổ thông ra vẻ công phu cảm kích theo kiểu tiểu thuyết mà nói ngắn gọn lại thì đầy rẫy những tính chất nông cạn, hời hợt với những dòng tâm đắc tùy tiện mà thôi. Tôi chỉ cần nghĩ đến nỗi vất vả của những binh sĩ máu mồ hôi trộn với bùn lầy là đã thân thể đã dâng trào cảm xúc, kính ngưỡng đến mức không thể nói nên lời rồi. Nhưng bản thân cái từ “kính ngưỡng” nghe trắng trợn quá. Không thể nói được. Không tìm được từ gì để diễn tả. Tôi chỉ ngồi xổm xuống, dùng tay viết lên trên cát rồi lại xóa đi. Cứ miệt mài như vậy. Không thể nói được, không thể viết được gì.

Tuy nhiên trong nghệ thuật thì khác. Mọi người có thể cất tiếng cười trước một nghệ sĩ đường phố già, răng móm mém, lưng còng hơi thở khò khè mà ngay cả mình cũng không nỡ nhìn đang ra sức kéo đàn violon nơi góc đường nhỏ tối tăm kia không? Tôi thấy mình cũng giống như thế. Ngay từ đầu tôi đã là kẻ thảm bại trong xã hội này rồi. Thế nhưng tôi vẫn còn nghệ thuật. Nói đến chủ đề này thật ra tôi cảm thấy vô cùng lúng túng và cũng chẳng đủ năng lực để bàn đến nhưng tôi định chuyên tâm tìm hiểu cho thật rốt ráo rõ ràng. Tôi nghĩ vậy cũng đủ cho sự nghiệp cả một đời nam nhi chi chí. Ngay cả nghệ sĩ đường phố thì cũng có vương quốc của riêng mình. Tôi đọc mấy truyện ngắn mà những người lính kia viết đều cảm thấy không đạt. Có lẽ vì tôi đã kỳ vọng vào xấp bản thảo kia quá nhiều. Thế nhưng tôi nghĩ những truyện ngắn đó đáng ra phải có một tư tưởng hay mối cảm động hoàn toàn tươi mới mà đối với người xếp hạng ba vì sức khỏe kém không thể ra tiền tuyến như mình không thể nào cảm nhận hay nghĩ ra được mới phải chứ. Phải có điều gì đó rộng lớn mênh mang cùng khắp mới phải. Tác phẩm phải tràn đầy sự cảm động và nỗi kinh hoàng vĩnh viễn như thể nhìn thấy thần linh trước mặt mình chứ. Tôi muốn được biết những điều như vậy. Không cần phải làm cử chỉ điệu bộ gì gớm ghê. Một chút thôi cũng được mà. Chỉ cần viết ra một chút cảm kích và lời nguyện cầu chân thật với mình gửi vào một đóa hoa cũng tốt thôi. Chắc chắn là phải có chứ. Tất cả những sự tươi mới đều nằm nơi đó cả. Nói nghe có vẻ kệch cỡm khoa trương nhưng tôi hiểu được điều đó vì có chút trực giác của người làm nghệ thuật. Tuy nhiên tôi không thể nói cụ thể ra được. Vì tôi không biết gì về cảnh chiến trường mà. Tôi cũng không phải là loại người huênh hoang viết tùy tiện những cảm xúc đời thường mà mình chưa từng trải như thể đúng rồi đâu. Mà, không phải, có lẽ là vì tôi bất tài. Nhưng tôi tuyệt đối không thể viết ra được điều gì mà mình chưa từng đích thân trải nghiệm. Ngoài việc nắm chắc lấy cái thế giới nhỏ bé mà mình tin tưởng thì tôi chẳng thể làm gì khác. Tôi biết thân biết phận của mình. Chuyện nơi chiến trường thì đành phải nhờ tất cả vào những người lính nơi chiến trường mà thôi.

Tôi đọc kỹ những bản thảo của những người lính. Tiếc là không hay. Tác phẩm không nói ra được những điều mình tận mắt chứng kiến mà lại kể chuyện chiến tranh bằng những từ ngữ của thứ văn học xấu xa mình được đọc. Người không biết gì chiến tranh lại đi kể chuyện chiến tranh rồi nhận được những lời tán tụng tung hô ngu ngốc từ những người nơi bản quốc thế rồi kiểu cách đó được sao chép đến cả những người lính vốn tường tận về chiến tranh. Đã không biết về chiến tranh thì đừng viết chứ. Đừng làm những chuyện dư thừa không đâu như vậy nữa. Chẳng phải điều đó ngược lại càng gây thêm phiền phức hay sao? Tôi đọc tiểu thuyết của những người lính, cảm thấy căm ghét những “kẻ viết về chiến tranh bằng cách nhìn chiến tranh qua kính viễn vọng” đến mức không tài nào chịu nổi. Chính thứ văn chương hay ho của các người đã phá tan đi “cặp mắt nhìn sự vật” của những người lính thuần khiết đấy. Đó chỉ là ngôn từ của những kẻ làm văn học nơi xứ Nhật Bản này nói ra thôi chứ đối với những người lính trải nghiệm trực tiếp sinh tử nơi chiến trường, những lời đó chẳng nói lên được gì cả. Chẳng phải họ gắng sức viết dưới ngọn nến khi đã có chút thư thả lúc mệt mỏi rã rời hay sao? Chỉ cần nghĩ như thế là thấy rõ rằng đâu có chỗ nào để mà triển khai mỹ học của mình hay suy ngẫm về nghệ thuật đâu. Bức thư đính kèm xấp bản thảo còn ghi thêm rằng ngày mai sinh mệnh tôi thế nào còn không biết nên nhờ cả vào anh cả đấy nữa chứ. Thực tình đối với xấp bản thảo này tôi đã có chút công phu sắp xếp lại (thực ra thì tôi đâu có tư cách gì mà nói vậy). Tôi nói với vợ mình viết lại xấp bản thảo với những con chữ trên xấp giấy nhàu nhĩ sang giấy bản thảo chuyên dụng Nhật Bản bốn trăm chữ một tờ. Thành ra có truyện dài nhất chiếm đến ba mươi mấy tờ bản thảo. Rồi tôi gửi đi những nhà xuất bản tạp chí khác nhau. Tôi viết thêm vài dòng gửi gắm là “Tuy đây là những ngôn từ bộc trực nhưng có vẻ đây là một tác phẩm hay nên có gì nhờ anh giúp đỡ. Một kẻ bất tài vô đức như tôi lại mang bản thảo của những người lính đến gửi chỗ ông thì có vẻ đường đột nhưng tôi thấy những tình cảm chân thành của con người là một điều khác biệt với bản thân tôi. Đối với tôi…”. Khi viết như vậy tôi thấy khựng lại, không xong rồi. Gì mà “Đối với tôi…” cơ chứ? Dối trá cũng vừa phải thôi. Mày bây giờ là thứ rác rưởi của loài người đấy. Có biết không hả?

Tôi biết điều đó chứ. Biết đến mức chán chường. Thế nên tôi mới khựng lại giữa chừng đấy thôi. Năm năm trước tôi đã có thời gian bị loạn thần kinh. Đến khi khỏi bệnh được xuất viện, tôi đứng một mình thờ thẫn trên cánh đồng bị thiêu cháy. Chẳng còn lại một chút gì. Đúng nghĩa là chỉ còn một manh áo mặc trên ngưởi thôi. Còn lại toàn đồ đi vay mượn không trả. Hoa mướp nở bên căn nhà bị thiêu cháy trong cơn sấm chớp. Tôi hiểu nỗi đau đớn trong câu thơ của người xưa kia đến mức thiêu đốt cả lồng ngực. Tôi đã bị tước đoạt cả tư cách làm người.

Bây giờ tôi không thể viết thổi phồng sự thật nữa. Tôi nghĩ vì tôi lưu ý cẩn thận điều này nên độc giả mới tin tưởng tôi. Cái lối khoa trương kênh kiệu tự mãn là điều tôi căm ghét nhất trên đời. Người ta hoàn toàn chẳng xem tôi ra gì cả. Cho dù tôi nói gì đi nữa, người ta cũng chỉ nhìn tôi với ánh mắt kỳ lạ, hay lén nhìn mặt tôi rồi bỏ đi. Những điều thêu dệt hay những bức tranh biếm họa về tôi giống như những nụ cười chế giễu tinh quái về tôi lan truyền không ngừng nghỉ vậy mà tôi chẳng biết chút gì, cứ đi ngáo ngơ ngoài phố. Trong khoảng một hai năm sau, dần dần thằng tôi ngu độn cũng đã từ từ hiểu được chân tướng. Theo như đồn đại của người đời thì tôi đã hoàn toàn là một kẻ cuồng. Hơn nữa còn là cuồng trí từ lúc mới sinh ra. Từ sau khi biết được điều đó, tôi trở nên câm lặng. Không muốn gặp ai cũng không thiết nói gì nữa. Cho dù bị người ta nói gì đi nữa, tôi cũng chỉ mỉm cười cho qua.

Tôi đã trở nên dịu dàng và bao dung hơn.

Từ đó đến giờ đã năm năm trôi qua. Dường như người ta vẫn còn nghĩ tôi là kẻ bán cuồng, dở hơi thì phải. Có những người dù chưa từng gặp tôi lần nào cả nhưng chỉ cần nghe thấy tên tôi hay những đồn đại liên quan đến tôi thôi mà lỡ chạm mặt tôi ở nơi nào đó là như thể nhìn thấy thứ gì gớm ghiếc khó chịu lắm, rồi đảo mắt nhìn tôi với ánh mắt vô lễ đến mức không thể tả thành lời. Tôi biết rõ hết. Có lần tôi đứng trong nhà vệ sinh còn nghe ngay sau mình một giọng nói lớn vọng đến tai tôi  “Chẳng phải cái thằng cha đó là Dazai điên khùng hay sao?” nữa. Mỗi lần như thế tôi lại có một cảm giác vô cùng kỳ lạ. Các người không nhận ra là tôi đã chết lâu rồi à? Chỉ có chút linh hồn là còn sống theo cách nào đó thôi.

Tôi bây giờ không còn là con người nữa. Nghệ thuật gia đúng là một loại sinh vật kỳ quái. Luôn nghĩ mình mang vác cái xác thân đã chết này đến sáu mươi tuổi thì sẽ trở thành một đại tác gia. Tìm kiếm bí mật trong những trang văn mà xác chết đó viết chỉ là vô ích. Cho dù cố gắng bắt chước văn chương của một vong hồn đã chết thì cũng vô vọng mà thôi. Nên bỏ đi là hơn. Dường như có người bạn đang thì thầm vào thằng tôi đang mỉm cười này là “Dazai ngu độn ơi” vậy. Chỉ có thể nói ra từ ngu độn mà thôi sau đó không còn nói gì được nữa. Chỉ cần tin điều này thôi. “Tôi sẽ không phản bội cậu đâu mà”.

Tôi đã đánh mất đi tự ngã của mình. Rồi sau đó thì không còn muốn nói gì nữa. À, còn có thể nói thêm một điều nữa. Kẻ nào không tin tôi là thằng ngu.

Lại nói về chuyện bản thảo của những người lính. Tôi kìm nén sự xấu hổ mà mang gửi gắm cho biên tập viên tạp chí. Thỉnh thoảng có truyện cũng được đăng. Rồi khi nhìn thấy mục giới thiệu quảng cáo tạp chí đó trên một tờ báo lớn, tên của người lính đó đứng ngang hàng với những tiểu thuyết gia nổi tiếng, tôi vui mừng gấp đôi so với khi mẩu truyện nhỏ của tôi được đăng trên tạp chí văn nghệ sáu năm về trước. Thật tạ ơn đời. Tôi vội vàng chạy đến cảm tạ biên tập viên không ngớt lời rồi cắt bài quảng cáo đó gửi ra chiến trường. Thấy mình thật có ích. Đây là sự cống hiến hết mình cho đất nước của tôi rồi. Tôi cũng nhận được bức thư vui mừng cảm tạ từ chiến trường gửi về nữa. Một thời gian sau tôi còn nhận được thêm bức thư cảm tạ của người vợ nơi quê nhà của người lính kia gửi đến. Đúng là một cống hiến nơi hậu phương còn gì nữa. Thế nào? Tôi vẫn là gã suy đồi à? Tôi vẫn còn là gã xấu xa sao?

Tuy nhiên tôi không nói cho ai biết chuyện này cả. Đây là chuyện đàn bà con trẻ nên làm chẳng đáng gì để mà khoe khoang. Tôi chỉ là một kẻ ngốc, viết thứ tiểu thuyết vui chơi, hững hờ bên dòng thời cuộc. Tôi biết thân biết phận mình. Tôi chỉ là một gã thị dân bé nhỏ. Chẳng thể nào đưa ra hiệu lệnh cho thời cuộc gì được cả đâu. Cho nên thỉnh thoảng chỉ rời khỏi nhà, lang thang trong cô độc, đá qua đá lại mấy viên đá trên đường thôi. Có lẽ tôi bệnh thật rồi? Có lẽ tôi đã hiểu sai về tiểu thuyết rồi cũng nên. Cho dù tôi thử phủ định điều đó đi nữa thì lại cũng chẳng có chút tự tin nào. Không tìm ra lời nào xác đáng cả. Cho dù cảm thấy lời sắp trào ra khỏi cổ họng rồi mà sao vẫn không hiểu. Tôi là một kẻ phiêu giạt, cứ mặc cho con sóng đẩy đưa và luôn luôn cô độc. Được rồi, tôi ráng sức nhảy qua vũng nước và cảm thấy nhẹ nhõm. Vũng nước phản chiếu trời thu trong xanh và mây trắng lững lờ trôi. Không hiểu sao tôi lại cảm thấy nhẹn nhõm một cách u sầu. Tôi lần bước trở về nhà.

Khi tôi về đến nhà thì thấy người của tạp chí đang chờ đợi. Dạo gần đây thỉnh thoảng cũng có nhân viên tòa soạn báo hay tạp chí ghé thăm hỏi han tình hình. Căn nhà tồi tàn của tôi nằm sâu khuất nẻo ở Mikata, giữa vùng vườn tược thế mà cậu ta bỏ gần cả ngày trời đi quanh tìm kiếm mà ghé thăm, vừa lau mồ hôi mồ kê chảy ròng ròng vừa nói trời, nhà anh ở xa thật đấy nhỉ. Vì tôi chỉ là một tác giả vô danh, không ăn khách gì cả nên mỗi lần như thế tôi đều sợ hãi khó xử.

“Bệnh tình của anh đã đỡ rồi chứ?”. Thế nào tôi cũng được hỏi như thế ngay câu đầu tiên. Vì đã quen nên tôi cứ thuận miệng trả lời.

“Tốt rồi, còn khỏe hơn cả người thường nữa đấy chứ”.

“Hiện giờ tình trạng của anh ra sao?”

“Chuyện của năm năm trước đấy mà”, tôi trả lời cho qua. Tôi không muốn nói là mình đã bị điên khùng.

“Theo như lời đồn đại” thì, anh bắt đầu nói thẳng “có vẻ tình hình của anh rất tệ đấy”.

“Tôi cứ uống rượu là bệnh tự khỏi thôi”.

“Thế thì thật kỳ lạ nhỉ?”

“Tại sao lại thế nhỉ?”, cả chủ và khách đều lấy làm lạ lùng. “Có lẽ là bệnh không khỏi nhưng tôi quyết định là nó đã khỏi rồi. Chuyện này vốn dĩ không có kết thúc mà”.

“Anh uống rượu nhiều lắm à?”

“Thì cũng uống như người ta thôi mà”.

Chỉ đối đáp đến như thế thì còn ổn thỏa được nhưng càng về sau thì càng lạc lối. Câu chuyện dần trở nên không đầu không đuôi và vô cùng lộn xộn.

“Anh nghĩ như thế nào về mấy truyện ngắn của người đó?”. Khi nghe hỏi vậy thì tôi hoàn toàn mất phương hướng và hoang mang. Tôi không tìm ra từ nào để nói ra cho thật rõ ràng.

“À, thực ra tôi vẫn chưa đọc kỹ nhưng chắc cũng có điểm hay chứ nhỉ? Nếu mà đọc được thì cũng thấy khá là cảm động. Thậm chí tôi còn cảm thấy ngạc nhiên khi thấy mọi người ai cũng có thể viết văn trơn tru được như thế nữa. Hoàn toàn không có ý gì mỉa mai ở đây đâu. Tại vì có có một sức khỏe thể chất sung sức mà. Thực sự thì họ đều viết rành mạch không vấp váp gì cả”.

“Thế anh đã đọc mấy truyện ngắn của anh A chưa?”

“À, vì có thấy đăng trên tạp chí nên tôi cũng có đọc”.

“Anh thấy có tệ lắm không?”

“À, bản thân tôi thì thấy thú vị. Chẳng phải còn có nhiều tác phẩm khác tệ hơn nữa hay sao chứ? Tôi không cố ý phê phán chỉ trích gì đâu. Như thế nào à? Tại vì tôi không biết rõ mà?”. Câu trả lời của tôi không phải kiểu mập mờ nước đôi của kẻ giảo hoạt mà đúng ra thì đó là sự mập mờ xuất phát từ một tâm hồn thấp kém. Tôi cảm thấy ai cũng giỏi giang hơn tôi hết cả. Khi hiểu ra được là ai cũng đang cố gắng hết sức tận tâm tận lực để sống còn khiến tôi không còn có thể nói gì hết.

“Anh có biết ông B không?”

“À, có biết”.

“Lần này tôi định thúc giục ông ấy viết một quyển tiểu thuyết mới”.

“A, điều đó nghe hay đấy. Ông B là một người rất tốt. Chắc chắn ông ta sẽ viết cho mà xem. Tôi nghĩ chắc chắn ông sẽ viết ra một tác phẩm tuyệt diệu. Ông B trước đây cũng đã từng giúp đỡ tôi nhiều mà”. Tôi có lần đã mượn tiền ông ta.

“Thế còn anh thì sao? Có viết được gì không?”

“Tôi thì không được rồi. Hoàn toàn bế tắc. Toàn viết ra những điều tệ hại. Có lần viết thử truyện yêu đương mà thành ra giọng điệu diễn thuyết đến nỗi tôi phát chát và tự cười mình luôn”.

“Làm gì có chuyện đó chứ? Cho đến bây giờ chẳng phải anh là ngọn cờ đầu của thế hệ trẻ hay sao?”

“Đừng đùa như vậy chứ. Dạo này tôi như tiến sĩ Faust vậy. Giờ đây tôi đã hiểu rõ những lời lẩm bẩm trong thư phòng của ông tiến sĩ già đó rồi. Mình đã quá đỗi già nua. Nghe nói Napoleon mới ngoài ba mươi tuổi đã than thở “mảnh đời tàn” của ta mà. Biết được điều đó khiến tôi thấy quá đỗi thú vị”.

“Không lẽ anh cảm thấy mình đang sống mảnh đời tàn dư sinh hay sao?”

“Tôi đâu phải là Napoleon, quả thực tôi quá khác biệt với ông ta. Nhưng đôi lúc bất chợt tôi cảm thấy mình đang sống những năm tháng còn lại của đời tàn tạ. Tôi cũng chẳng đọc vạn quyển sách như tiến sĩ Faust dù đôi lúc tôi cũng cảm giác trống rỗng hư vô giống như ông ta vậy”. Chà, mình lại nói năng loạn xạ hết cả rồi.

“Thực ra cảm thấy chuyện đó cũng đành phải chịu thôi. Xin thất lễ chứ anh năm nay bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?”

“Ba mươi mốt rồi”.

“Vậy anh còn trẻ hơn anh C một tuổi. Mà anh C lúc nào tôi gặp cũng thấy khỏe lắm. Bình luận văn học nói năng rành mạch lưu loát ghê. Quả nhiên anh ta có cặp mắt rất tinh đời”.

“Đúng vậy, anh C vốn là tiền bối ở trường cấp ba ngày xưa tôi học. Cặp mắt anh ấy lúc nào cũng sáng ngời nhiệt tình. Từ bây giờ chắc anh ta sẽ dồn hết tâm huyết cho văn chương đấy. Tôi rất thích anh ta”. Năm năm trước đây, tôi đã gây cho anh C phiền phức không biết bao nhiêu mà kể.

“Còn với riêng anh”, người khách có vẻ tức giận vì những lời đối đáp mập mờ của tôi liền đổi giọng điệu mà hỏi. “Thường người ta viết tiểu thuyết vì một tín điều nào đó. Ví dụ như chủ nghĩa nhân văn, tình yêu, hay chính nghĩa công bằng xã hội, cái đẹp…đại khái là thế, Còn anh từ khi xuất hiện trên văn đàn đến nay và từ bây giờ trở đi nữa, anh có một tín điều nào hay không?”

“Có chứ, đó là sự hối hận”. Lần này giống như nhịp điệu hô ứng tương đồng, tôi có thể cất giọng trả lời ngay lập tức. “Văn học mà không có sự hối hận thì chẳng là gì cả. Hối hận, tự thú và phản tỉnh đó là những thứ chắc chắn được sinh ra từ nền văn học cận đại, không từ tinh thần cận đại đấy. Vì thế cho nên…”, tự nhiên tôi lại ngắc ngứ.

“Quả nhiên là vậy”, vị khách cũng liền hưởng ứng. “Đúng là văn đàn đang thiếu trào lưu này. Vậy chắc là anh thích những tác giả như Kajii Motojirou lắm nhỉ?”

“Dạo này không hiểu sao tôi càng lúc càng trở nên hoài niệm. Có lẽ tôi trở nên thủ cựu, cũ kỹ mất rồi. Chẳng thấy có thứ gì có thể khích lệ động viên tâm hồn mình cả. Mà đừng nói là động viên, nó còn làm tôi xấu hổ vì cảm thấy mình nhơ nhớp nữa. Tôi không hiểu rõ ý nghĩa của từ “nghiệp báo” cho lắm nhưng tôi cảm thấy điều đó gần đúng với bản thân mình. Đứa con tội lỗi rồi thì mục sư, không biết nói thế nào cho phải. Tôi đã làm nhiều điều ác đức, tôi ý thức mình là một tên dơ bẩn. Vì không thể nào làm tiêu tan cái ý thức đó nên tôi lúc nào cũng đê tiện. Dù tôi lúc nào cũng im lặng khổ sở nhưng mà…”. Tôi định nói tiếp nhưng lại ngắc ngứ nữa. Tôi định nói về Kinh Thánh. Tôi định nói Kinh Thánh đã cứu vớt tôi nhưng vì xấu hổ quá nên không thể nói. Sự sống chẳng phải quý trọng hơn đồ ăn sao, thân thể chẳng quý trọng hơn quần áo sao? Hãy nhìn chim bay trên trời, chẳng có gieo gặp cũng chẳng thâu trữ vào kho tàng. Hãy xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào. Chẳng làm khó nhọc cũng không kéo chỉ. Nhưng dẫu vua Salomon sang trọng đến đâu cũng không được mặc áo tốt như hoa nào trong giống đó. Loài cỏ ngoài đồng nay còn sống, mai bỏ vào lò mà Đức Chúa Trời còn cho nó mặc đẹp đẽ thay huống chi là các người. Các ngươi chẳng phải quý trọng hơn loài chim sao…Những lời khích lệ của Thánh Kinh đã có lần cho tôi thêm nghị lực sống. Tuy nhiên bây giờ tôi ngại ngùng xấu hổ quá nên không thể nói ra được. Cái gọi là niềm tin mà mình giữ trong im lặng thực sự tôi có không nhỉ. Ngay cả từ “niềm tin” tôi cũng thấy mình khó có thể nói ra được rõ ràng.

Sau đó chúng tôi lan man sang nhiều chuyện khác nhưng chắc vị khách có vẻ thất vọng vô cùng vì cách nói mơ mơ hồ hồ của tôi nên sửa soạn ra về. Tôi cảm thấy vô cùng tội nghiệp cho anh ta. Vì không nói được điều gì rành mạch rõ ràng cả nên cứ lan man chuyện này chuyện kia cuối cùng chẳng nắm bắt được gì hết cả. Tôi cứ thờ thẫn ngu độn mà nghệch mặt ra. Chắc chắn anh ta nghĩ rằng từ giờ trở đi tôi sẽ có thể phát huy tài năng nên đến xem thử tình hình ra sao đây mà. Tôi hiểu rõ sự tử tế của anh ta nhưng chính vì vậy mà tôi càng khổ sở không cùng. Sau khi vị khách về rồi, tôi cứ ngồi thẫn thờ trước bàn làm việc, nhìn cánh đồng Musashino ngả bóng chiều loang. Thế nhưng tâm tư không khởi một niềm cảm khái mới mẻ nào mà chỉ cảm thấy nỗi sầu cô đơn vô hạn.

Khi con đi trên đường với kẻ tố cáo mình, hãy nhanh chóng hòa giải với người ấy; nếu không, người ấy sẽ nộp con trước quan tòa, quan tòa giao cho cai ngục và con sẽ bị bỏ tù. Thật, ta bảo con, con sẽ không bao giờ ra khỏi tù được cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng. Tôi bất chợt nghĩ có lẽ nào địa ngục lại một lần nữa đến tìm mình chăng? Cảm giác bất an như nghe thấy tiếng ầm ầm rung chuyển từ đáy sâu đáng sợ vọng đến. Có lẽ chỉ có mình tôi như vậy chăng?

“Này, đưa anh chút tiền đi em. Nhà mình còn bao nhiêu thế?”

“À, còn khoảng bốn năm yên gì đó”.

“Anh xài có được không?”

“Được nhưng nhớ để lại cho em chút chút”.

“Anh hiểu rồi. Khoảng chín giờ tối anh về nhé”.

Tôi cầm cái ví vợ đưa cho rồi rời khỏi nhà. Trời đã hoàng hôn. Sương mù lẩn khuất giăng mờ lối đi.

Tôi đến quán sushi gần nhà ga Mitaka. Mang rượu ra đây. Giọng nói sao mà sa đọa ghê gớm. Mang rượu ra đây. Một cung cách cũ mèm. Không biết tôi đã lặp lại câu này mấy trăm mấy ngàn lần rồi nhỉ? Những lời bẩn thỉu ngu ngốc. Nếu bây giờ có gã thanh niên nào than vãn khổ sở vì thời thế, làm ra vẻ nghiêm túc đắc ý uống rượu say quên đời, chắc chắn tôi sẽ đấm cho gã một phát. Đấm không chần chừ do dự. Nhưng tôi bây giờ có khác gì gã thanh niên đó đâu? Chẳng phải như nhau ư? Chỉ khác biệt về tuổi tác mà điều đó lại càng làm mình bẩn thỉu hơn thôi. Cứ vênh váo đắc ý mãi vậy.

Tôi uống rượu với vẻ mặt vô cùng nghiêm túc. Cho đến giờ tôi đã uống mấy ngàn mấy vạn thăng rồi nhỉ. Tôi vừa cảm thấy căm ghét vừa tiếp tục uống. Tôi chưa từng nghĩ rượu ngon lành chỗ nào. Thứ đắng nghét đó tôi không hề muốn uống. Tôi muốn từ bỏ. Tôi nghĩ uống rượu là một loại tội lỗi. Chắc chắn là tội lỗi. Thế nhưng rượu đã cứu vớt đời tôi. Tôi không bao giờ quên điều đó. Có vẻ vì tôi là một khối tội lỗi nên thích hợp uống rượu để dùng độc trị độc chăng? Rượu giúp tôi khỏi phát điên, giúp tôi tránh khỏi việc tự sát. Tôi là một người yếu đuối ti tiện đến mức nếu không uống rượu để lừa gạt cảm xúc của mình thì không thể nói chuyện với bạn bè đàng hoàng được.

Tôi đã chếnh choáng say. Cô phục vụ ở quán sushi năm nay hai mươi bảy tuổi. Nghe nói cô đã lập gia đình nhưng ly hôn rồi đến làm việc ở đây.

“Mình à”, cô nói và ghé sát chỗ bàn tôi ngồi. Vẻ mặt vô cùng nghiêm túc. “Chuyện này nghe hơi kỳ lạ một chút nhưng mà”, cô xoay người nhìn về chỗ quầy tính tiền rồi hạ giọng thì thầm. “Không biết trong số bạn bè quen biết của mình có thể lấy một người như em không nhỉ?”

Tôi nhìn chăm chú vào mặt cô ta. Đúng là cô phục vụ rất nghiêm túc, không cười một chút nào. Ngay từ đầu cô đã là người đàng hoàng nghiêm túc nên chắc không có vẻ gì là bỡn cợt đùa giỡn tôi đâu.

“Chà, chuyện này”, tôi cũng không thể không nghiêm túc. “Không phải là không có đâu nhưng sao lại nhờ tôi chuyện này cơ chứ?”

“À, em định sẽ nhờ hết những người khách dễ tính đến quán này giúp em luôn”.

“Kỳ lạ thế nhỉ?”, tôi khẽ mỉm cười.

Cô phục vụ cũng nhếch một bên má mà cười.

“Càng ngày em càng có tuổi. Mà lại truân chuyên một lần đò rồi nên người già chút cũng không sao hết. Em cũng chẳng mong cầu được chỗ tốt đẹp như người ta đâu”.

“Chà ba chuyện này thì tôi cũng không biết gì”.

“Cũng không vội vàng gì đâu mà. Mình cứ lưu tâm giúp em là được. À, mà em cũng có danh thiếp đây”. Cô ta nói rồi vội vàng lấy ra cái danh thiếp nhỏ giấu trong ống tay áo. “Mặt sau danh thiếp em có ghi địa chỉ chỗ này cho nên nếu tìm được người thích hợp mình vui lòng gửi danh thiếp hay gì đến đây báo em biết trước nhé. Rất xin lỗi đã làm phiền mình nhiều. Cho dù người ta có mấy đứa con riêng em cũng không phiền hà gì đâu”.

Tôi im lặng cầm lấy tấm danh thiếp, nhét vào tay áo.

“Để tôi tìm thử xem nhưng tôi không thể hứa trước gì đâu. Phiền cô tính tiền giùm nhé”.

Tôi rời quán sushi, trên đường quay về nhà cứ cảm thấy vô cùng kỳ lạ. Tôi nghĩ mình đã nhìn thấy một phần của xu hướng, trào lưu hiện đại. Một thế kỷ nghiêm túc đến mức trắng trợn. Chúng ta không thể tác động vào được chút gì. Về đến nhà tôi lại trở nên câm nín. Tôi im lặng đưa cái ví đã vơi bớt mấy phần cho vợ mình, định nói điều gì đó nhưng lại thôi. Tôi ăn món cơm trà rồi đọc báo buổi chiều. Tàu vẫn tiếp tục chạy. Bây giờ qua núi, bây giờ qua vịnh, qua chiếc cầu sắt bắt ngang… Bài ca của người thiếu nữ sao mà buồn thảm.

“Này than còn đủ dùng không em. Anh nghe nói là thiếu hụt ghê lắm”.

“Không sao đâu anh. Báo đài làm quá lên thôi. Đến lúc đó thì tùy hình mà xoay xở vậy”.

“Đúng nhỉ. Em trải mền ra giùm anh đi. Tối nay anh ngừng viết một đêm để nghỉ ngơi”.

Hơi rượu đã tan. Mỗi khi tỉnh rượu tôi lại trằn trọc khó ngủ. Giả vờ ngủ ngáy lớn tiếng một chút rồi tôi dậy đọc tờ báo phát hành buổi chiều. Tự nhiên tôi thấy tờ báo hiện đầy những khuôn mặt cười giả lả đê tiện rồi thoáng chốc lại biến mất đi. Tôi nghĩ thầm tất cả đều đê tiện thật. Tất cả đều không có chút tự tin nào. Tôi ném tờ báo đi, dùng hai lòng tay áp lên tròng mắt một lúc lâu. Tôi tin rằng làm như vậy mình sẽ nhanh chóng buồn ngủ. Tôi nhớ lại vũng nước sáng nay. Chừng nào vũng nước kia còn thì mình cũng tiếp tục… tôi nghĩ. Tôi cố gắng bắt mình phải nghĩ như thế. Quả nhiên tôi là một nghệ sĩ đường phố. Cho dù khổ sở đến mấy thì tôi cũng chỉ còn cách tiếp tục chơi chiếc đàn violon của riêng mà thôi. Đường hướng của con tàu đi cứ giao cho những nhà chí sĩ vậy. Hai từ “chờ đợi” chợt hiện ra sáng ngời trên trán của tôi. Chờ đợi điều gì tôi cũng chẳng biết nữa. Nhưng đó là một từ cao quý. Loài chim hải âu câm nín kia cứ lang thang quanh quẩn ngoài khơi nghĩ như thế nhưng vẫn tiếp tục im lặng mà luẩn quẩn loanh quanh.

Hoàng Long dịch từ nguyên tác Nhật ngữ

Đọc bài viết

Sáng tác

Thơ: Lau nước mắt và lại đi… (Lavender So Blue)

Published

on

Em có biết không?
Tự do từ đâu mà có
Câu chuyện từ đâu mà được kể
Những bài báo vui buồn từ đâu mà viết ra
Em có biết không?
Niềm tin từ đâu mà có
Mảnh đất này còn bao sự diệu kỳ
Đâu phải chỉ có những xót xa
Lấy trời làm nhà
Đất làm chăn ấm
Gió gội mái đầu xanh và biển bạc tắm ướt đẫm da vàng
Chốn thị phi
Người cô độc than khóc
Kẻ lỡ làng đi tìm tri kỷ
Còn ta chỉ là người hay khóc
Lau nước mắt và lại đi…

Lavender So Blue

Đọc bài viết

Cafe sáng