FICTION

Truyện ngắn: Còn nhiều chuyện hơn nữa (Jorge Luis Borges)

Dành tưởng nhớ H. P. Lovecraft

Published

on

Dịch từ truyện ngắn There Are More Things trong tập The Book of Sand của Jorge Luis Borges, bản dịch tiếng Anh của Norman Thomas di Giovanni.

*

Ngay khi tôi chuẩn bị tham dự kỳ thi sau chót tại Đại học Texas, Austin, tôi hay tin chú Edwin Arnett đã chết vì chứng phình động mạch ở miền biên viễn xứ Nam Mỹ. Tôi cảm thấy như chúng ta vẫn luôn cảm thấy khi ai đó qua đời – nhận thức đau buồn, giờ đây vô ích, về cái cách lẽ ra ta phải yêu thương nhiều hơn song lại ít đến dường nào. Người ta quên mất một người chết thì trái ngược với người chết. Tôi học triết; tôi nhớ hồi ở Nhà Đỏ gần Lomas, chú tôi, không đụng tới một danh từ riêng nào, đã hé mở cho tôi những phức tạp đầy duyên dáng của giới luật. Chú ấy dùng một trong các quả cam tráng miệng khai vỡ cho tôi chủ nghĩa duy tâm Berkeley, dùng bàn cờ luận giải nghịch lý Eleatic. Nhiều năm sau, ông cho tôi mượn luận thuyết Hinton, thứ cố gắng chứng minh tính xác thực của chiều không gian thứ tư, động viên người đọc ngộ ra chiều không gian đó thông qua những bài luyện phức tạp với các khối lập phương đủ màu. Tôi sẽ không bao giờ quên mớ lăng trụ và kim tự tháp chúng tôi lắp ráp trên sàn phòng làm việc của ông.

Chú tôi là kỹ sư. Trước khi nghỉ việc ngành đường sắt, ông quyết định chuyển đến Turdera, nơi đem lại cho ông những lợi thế kết hợp giữa một miền hoang vu ảo diệu đầy cô độc và một vùng phụ cận Buenos Aires. Không gì tự nhiên hơn rằng người bạn thân Alexander Muir là kiến trúc sư cho ngôi nhà của chú. Con người nghiêm khắc đó công khai thừa nhận học thuyết khắt khe của Knox; chú tôi, theo lối của hầu hết các quý ông cùng thời, là người độc lập tư tưởng – hay đúng hơn là người theo thuyết bất khả tri – song cùng lúc ông cũng quan tâm đến thần học, theo cùng cách ông quan tâm đến mấy khối lập phương sai lầm của Hinton và những cơn ác mộng có cơ sở của Wells trẻ tuổi. Chú ấy thích chó; ông có một con chó chăn cừu lớn mà ông gọi là Samuel Johnson, để tưởng nhớ Lichfield, thị trấn hẻo lánh nơi ông chào đời.

Nhà Đỏ toạ lạc trên đồi, phía tây bao bọc bởi vùng đầm lầy.

Những cây thông Norfolk dọc ngoài hàng rào không thể xoa dịu bầu không khí ngột ngạt. Thay vì những mái bằng, nơi người ta có thể hít thở khí trời vào đêm oi nồng, ngôi nhà có một mái nhọn lợp ngói đá phiến và một tháp vuông có gắn đồng hồ; những cấu trúc này dường như đè nặng lên các bức tường và cửa sổ cáu bẩn của ngôi nhà. Khi còn bé, tôi chấp nhận sự thật xấu xí đó như người ta chấp nhận mọi điều trái nết chỉ bởi duy nhất lý do tất cả đều chung đụng trong cái gọi là “vũ trụ”.

Tôi hồi hương năm 1921. Để tránh kiện tụng, ngôi nhà được đem đấu giá; một người ngoại quốc, một người đàn ông tên Max Preetorius, người trả gấp đôi mức giá người trả cao thứ hai đặt ra, đã mua nó. Ký xong chứng từ mua bán, một tối ông ta đến cùng hai phụ tá rồi quẳng mọi đồ đạt, sổ sách, hàng gia dụng trong nhà ra một bãi rác không xa Binh Lộ. (Tôi buồn bã nhớ lại mớ biểu đồ trong tập Hinton cùng quả địa cầu vĩ đại bằng đất nung.) Hôm sau, ông ta đến gặp Muir đề xuất đôi chỗ thay đổi nhất định cho ngôi nhà, nhưng Muir phẫn nộ cự tuyệt thi hành. Rồi thì một công ty ở Buenos Aires đảm nhận việc này.

Cánh thợ mộc trong làng khước từ sơn sửa lại ngôi nhà; cuối cùng một Mariani nào đó từ Glew chấp nhận các điều kiện Preetorius đưa ra. Trong nửa mùa trăng, ông ta làm việc về đêm, sau cánh cửa đóng. Và vị chủ mới chuyển đến Nhà Đỏ cũng vào ban đêm. Cửa sổ vĩnh viễn khép kín, song qua bóng tối, có lẽ ai đó phát ra những vệt sáng.

Một buổi sớm khi đang đi dạo, người giao sữa bắt gặp xác con chó chăn cừu, bị chặt đầu và phanh thây.

Mùa đông năm ấy những cây thông Norfolk bị đốn hạ. Không ai gặp lại Preetorius; dường như ông ta xuất ngoại liền sau đó.

Độc giả có thể mường tượng ra những tường trình như thế làm tôi bối rối. Tôi biết mình nổi tiếng vì thói tò mò, thói xấu ấy dẫn lối tôi đến cuộc hôn nhân với một phụ nữ hoàn toàn trái ngược bản thân (chỉ để xem tôi có thể khám phá ra cô ta là ai và thực ra là người thế nào), làm tôi thử thuốc phiện (kết quả không mấy khả quan), thúc đẩy tôi nghiên cứu số vô tỉ, đưa tôi vào câu chuyện phiêu lưu khủng khiếp mà tôi kể ra đây.

Ắt hẳn, tôi quyết định xem xét lại vấn đề kia.

Bước đầu tôi đến gặp Alexander Muir. Tôi nhớ ông người da màu, thẳng đuột, vẻ gầy gò không làm ông yếu ớt; giờ đây năm tháng làm ông khom đi và bộ râu đen tuyền ngả sang màu xám. Ông đón tôi nơi cửa nhà ở Temperley – dễ đoán nhà ông hao hao nhà chú, bởi cả hai đều tuân theo các quy tắc nền tảng của nhà thơ có tài kiêm chủ thầu hạng xoàng William Morris.

Chúng tôi chuyện trò khá cứng nhắc; chẳng phải về mấy chuyện phiếm vặt vãnh như cây kế gai là biểu tượng Scotland. Tuy vậy tôi cảm thấy trà Tích Lan đậm đà cùng dĩa bánh nướng mực thước (mà vị chủ nhà bẻ vụn và phết bơ như thể tôi vẫn còn là một đứa trẻ) thực ra lại là bữa tiệc thanh đạm kiểu đạo Calvin được bày ra cốt chào đón đứa cháu trai người bạn cũ. Tranh luận thần học giữa ông và chú là một ván cờ đằng đẵng, trong đó yêu cầu mỗi kỳ thủ phải cộng hưởng tâm hồn với đối thủ của mình.

Thời gian dần trôi và tôi không thể mang chính bản thân ra nhằm gợi mở đề tài chuyện gẫu. Chúng tôi im lặng trong khiên cưỡng và rồi Muir độc thoại.

“Chàng trai trẻ”, ông nói, “anh không ngại phiền hà tới đây nói với tôi về Edwin hay Hoa Kỳ, xứ sở mà tôi chẳng mấy bận tâm. Điều khiến ban đêm anh mất ngủ là chuyện bán đi Nhà Đỏ, và một kẻ hiếu kỳ đã mua nó. Chà, nó cũng khiến tôi mất ngủ.

Thật lòng mà nói, toàn bộ sự vụ cực kỳ khó chịu, nhưng tôi sẽ nói cho anh những gì tôi biết, dù chẳng nhiều nhặn gì.”

Trong khoảnh khắc, ông từ tốn tiếp lời.

“Trước khi Edwin qua đời, thị trưởng gọi tôi tới văn phòng. Cha xứ ở sẵn trong đó. Họ muốn tôi phác thảo sơ đồ nhà nguyện Công Giáo. Họ sẽ trả hậu cho tôi. Tôi đáp ngay tại chỗ.

Không, tôi nói với họ, tôi là con chiên của Chúa, và tôi không thể phạm tội ghê tởm như dựng nên bệ thờ ngẫu tượng.”

Đến đây ông dừng lại.

“Tất cả chỉ có vậy?”, tôi mạo muội.

“Không. Con lợn Do Thái Preetorius muốn tôi phá hủy công trình của mình, ngôi nhà tôi đã xây nên, và thế vào đó một thứ quái đản. Đúng là có đủ thể loại kinh tởm.”

Ông phát âm những từ này với lực nhấn rất mạnh, sau đó đứng dậy.

Khi tôi rẽ vào góc phố, Daniel Iberra tiến đến chỗ tôi. Chúng tôi biết nhau như cách người trong các thị trấn nhỏ vẫn biết nhau. Gã ta đề nghị chúng tôi cùng nhau quay lưng bách bộ. Tôi không bao giờ giữ bất kỳ bản sơ yếu nào về bất kỳ kẻ khó ưa nào hay về số phận họ, và tôi có thể thấy trước một chuỗi bần tiện ít nhiều bạo lực và ít nhiều những chuyện ngụy tạo bên quầy bar, nhưng tôi chịu thua bản thân và nói mình sẽ đi cùng gã. Trời đã chập tối. Khi gã thấy Nhà Đỏ trên ngọn đồi cách đó vài dãy nhà, Iberra rẽ xuống một con phố khác. Tôi hỏi gã tại sao. Câu trả lời không như tôi mong đợi.

“Tao là cánh tay phải của ông trùm Felipe. Không ai được phép nói tao lùi bước trước bất cứ điều gì. Chắc mày còn nhớ tay Urgoiti từ Merlo đến tận đây lùng tao, và chuyện gì xảy ra với hắn khi tìm thấy tao. Chà, nghe này – vài đêm trước tao từ một vụ lùm xùm lớn trở về. Cách nhà chừng trăm thước, tao thấy thứ gì đó. Tao nổi cả da gà, và nếu tao không nói chuyện với con ả rồi đi dọc con hẻm đó, ắt hẳn tao không phải kể lại chuyện này. Thứ tao đã thấy là…” Gã ta lắc đầu, rồi tức giận chửi bới.

Đêm đó tôi mất ngủ. Hửng sáng, tôi mơ thấy một bản khắc trường phái Piranesi, một bản khắc tôi chưa từng thấy trước đây hoặc đã thấy và đã quên – bản khắc về một loại mê cung. Đó là hí trường bằng đá bao quanh bởi những cây bách, song bờ tường cao hơn ngọn cây. Không có cửa ra vào hay cửa sổ, nhưng xuyên qua nó là những chuỗi vô hạn các gờ dọc đứng hẹp. Tôi đang dùng kính lúp gắng tìm con Nhân Ngưu. Cuối cùng tôi cũng thấy nó. Nó là quái vật trong quái vật; nó ít giống bò đực hơn trâu, còn phần nhân dạng của nó nằm sát mặt đất. Nó dường như đang ngủ, và đang mơ – nhưng mơ về cái gì, hay về ai?

Tối đó tôi ngang qua Nhà Đỏ. Cổng hàng rào bị khoá, vài ba thanh sắt xoắn xuýt xung quanh. Những gì là vườn tược trước kia thì giờ đây trở thành cỏ dại. Bên phải có một rãnh mương cạn, bờ mương bị giẫm nát.

Tôi vẫn còn con bài tẩy trong tay áo, nhưng trì hoãn sử dụng vài ngày, không chỉ vì tôi cảm thấy nó vô dụng đến nhường nào mà còn vì nó sẽ kéo tôi đến điều không thể tránh khỏi, điều tối hậu.

Cuối cùng tôi đến Glew, chẳng hy vọng gì nhiều. Mariani, người thợ mộc, giờ đây sau nhiều năm đã già đi, một người Ý núc ních, hồng hào – một ông bạn rất thân thiện, khiêm nhường. Giây phút nhìn thấy ông, tôi từ bỏ mớ âm mưu đầy hứa hẹn nảy ra mấy ngày trước. Tôi đưa ông danh thiếp, ông đánh vần thành tiếng nom kiểu cách, và pha lẫn chút kính cẩn trong một thoáng khi ông đọc đến từ Tiến Sĩ. Tôi nói với ông rằng mình quan tâm tới những đồ dùng mà ông làm cho chú trong ngôi nhà ở Turdera. Ông già liên tục tiếp chuyện. Tôi không cố phiên lại những chữ (và được phát ngôn rõ ràng) ông dùng, song ông bảo đảm với tôi phương châm của ông là “dù cho có kỳ cục đến đâu, cũng phải thoả mãn nhu cầu khách hàng”, và cho hay ông sống theo lẽ đó. Sau khi lục tung mấy cái hộp, ông đưa tôi xem mớ giấy tờ mà tôi không thể đọc ra, có chữ ký của Preetorius khó lường. (Ắt hẳn ông nghĩ tôi là luật sư.) Giờ phút chia tay, ông tâm sự mọi tiền của trên đời cũng không thuyết phục được ông đặt chân trở lại Turdera, ít nhất là trở lại căn nhà đó. Ông còn cho hay khách hàng luôn đúng, nhưng theo thiển ý của mình, Ngài Preetorius “không đúng cho lắm,” ấy là nếu tôi hiểu ý ông – ông gõ gõ ngón tay lên trán. Rồi, hối hận vì đi quá xa, ông không nói nữa. Tôi sẽ không được nghe thêm bất cứ lời nào từ ông.

Tôi đã thấy trước thất bại này, nhưng thất bại này lại giúp thấy trước chuyện gì đó, và chuyện gì khác nữa khi chúng xảy đến.

Tôi không ngừng tự nói với bản thân rằng thời gian – mạng lưới vô tận của hôm qua, hôm nay, tương lai, mãi mãi, không bao giờ – là bí ẩn thực sự duy nhất. Những suy nghĩ uyên áo như vậy chẳng giúp gì cho tôi; sau khi dành cả buổi tối nghiên cứu Schopenhauer hay Royce tôi vẫn sẽ lang thang, đêm này qua đêm khác, dọc những con đường đất giáp ranh Nhà Đỏ. Đôi khi tôi thấy thứ ánh sáng rất trắng phát ra trên đồi, những lúc khác tôi nghĩ mình nghe thấy tiếng rên rỉ. Chuyện này tiếp diễn cho tới mười chín tháng Giêng.

Đó là một trong những ngày ở Buenos Aires khi người ta không những cảm thấy bị mùa hè lăng mạ và lạm dụng, mà thậm chí còn cảm thấy ô nhục. Khoảng mười một giờ đêm những đám mây bão xổ ra. Đầu tiên là gió nam, rồi sau đó là những màng, sóng, dòng nước. Tôi chạy loạn xạ trong bóng đêm, cố tìm lấy một cái cây nhằm trú ẩn. Trong thứ ánh sáng sắc lảnh loé lên từ một tia chớp, tôi thấy mình cách hàng rào vài bước chân. Tôi không chắc vì sợ hãi hay hy vọng mà tôi thử vượt qua cổng. Thật ngạc nhiên, cổng đã mở. Bị bão thổi quất, tôi di chuyển về phía trong, đất trời như đang thúc ép tôi. Cửa trước khép hờ. Mưa từng cơn tạt vào mặt và tôi bước vào.

Bên trong, sàn nhà được nâng lên, chân tôi giẫm lên từng lùm, từng mảng cỏ. Mùi ngai ngái, ngòn ngọt tràn ngập ngôi nhà. Bên trái hay phải, tôi không chắc lắm, tôi vấp phải một bờ dốc đá. Tôi trườn lên nó. Gần như vô thức, tay tôi cố mò cho ra công tắc đèn.

Phòng ăn và thư viện trong hồi tưởng của tôi giờ đây (bức tường ngăn cách đã bị phá bỏ) là một căn phòng lớn hoang tàn, đồ đạc liểng xiểng vương vãi xung quanh. Tôi không cố mô tả bởi vì bất chấp thứ ánh sáng trắng gay gắt, tôi không chắc thực sự mình có nhìn rõ chúng hay không. Hãy cho tôi giải thích: Muốn thực sự nhìn thấy một sự vật, người ta trước tiên phải hiểu chúng. Ghế bành ám chỉ cơ thể con người, với các khớp và chi; cái kéo, với hành động cắt. Từ một ngọn đèn, hay một chiếc ô tô có thể nói lên điều gì? Kẻ man rợ không thực sự lĩnh hội Kinh Thánh của nhà truyền giáo; người hành khách không nhận thấy cấu trúc con tàu như thủy thủ đoàn. Nếu chúng ta thực sự nhìn thấy vũ trụ, có lẽ ta sẽ hiểu nó.

Không có bất kỳ hình thái vô tri nào mà tôi nhìn thấy tối hôm đó tương ứng với nhân dạng hay bất kỳ cách sử dụng nào có thể hình dung ra được.

Chúng sinh ra nỗi kinh hoàng và sự ghê tởm. Trong một góc tôi thấy có cái thang dựng đứng trên sàn. Các bậc thang rộng bằng sắt, không quá mười bậc, cách đều nhau; cái thang đó, ngụ ý tay và chân, có thể hiểu được, và vì lý do nào đó tôi cảm thấy nhẹ nhõm. Tôi tắt đèn rồi đợi một chút trong bóng tối. Bốn bề im lặng như tờ, nhưng sự hiện hữu của quá nhiều thứ khó lường làm tôi mất nhuệ khí. Cuối cùng, tôi ra quyết định.

Bàn tay run rẩy của tôi lần nữa vươn tới công tắc đèn trên gác. Cơn ác mộng báo hiệu bằng sự lay động ở tầng dưới và khai nở ở gác trên. Có nhiều vật thể hay vài thứ đan dệt vào nhau. Giờ đây tôi nhớ lại thứ đồ dài, hình chữ U trông như bàn mổ, rất cao, với các lỗ tròn tại mỗi thái cực. Tôi chợt nghĩ đây có thể là cái giường mà chủ nhân ngôi nhà sử dụng, một kẻ có giải phẫu quái đản được vật thể kia chưng hửng tiết lộ, giống như cách thông qua cái bóng ta biết được giải phẫu của động vật hay thánh thần. Từ mấy trang sách Lucan, đọc năm trước rồi lại quên, chữ amphisboena chạm ngõ đầu môi, nó ám chỉ (dù không đầy đủ ý nghĩa) những gì mắt tôi thấy sau đó. Tôi cũng nhớ lại vật thể hình chữ V trong gương lẫn vào những cái bóng bên trên.

Kẻ trú ẩn trong ngôi nhà này phải giống cái gì? Nó phải kiếm tìm thứ gì nơi đây, trên hành tinh này, nơi đối với nó cũng khủng khiếp chẳng kém gì nó đối với chúng ta? Từ những lãnh địa bí mật nào của thiên tượng hay thời gian, từ những buổi hoàng hôn khôn lường cổ xưa và hiện tại nào mà nó đã đến vùng ngoại vi Nam Mỹ này, lại chính xác vào đêm nay?

Tôi cảm thấy mình xâm nhập trái phép vào hỗn mang. Ngoài kia, mưa đã tạnh. Tôi nhìn đồng hồ và kinh ngạc đã gần hai giờ sáng. Tôi để đèn sáng rồi thận trọng quay lại trèo xuống thang. Trèo xuống một khi đã trèo lên được không phải là chuyện bất khả thi – trèo xuống trước khi kẻ trú ẩn đó trở lại. Tôi đoán chừng nó không khoá cửa trước và cổng vào vì nó không biết cách.

Chân tôi chỉ vừa chạm tới bậc áp chót khi tôi nghe có thứ gì đó trườn đến bờ dốc – thứ gì đó nặng nề và chậm chạp và không đơn độc. Lòng hiếu kỳ chiến thắng nỗi sợ, và tôi không thể nhắm mắt lại.

Hết.

3V dịch.

Ảnh đầu bài: Adam Scovell

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trích đăng

Trích đăng “Hành trình người viết” – Christopher Vogler

Published

on

Trích từ: Hành Trình Người Viết
Tác giả: Christopher Vogler
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2024
Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH

“Loài người thật ra chỉ có tầm hai hay ba câu chuyện thôi,

và chúng được lặp đi lặp lại mải miết cứ như lần đầu được kể.”

— Willa Cather, trong O Pioneers!

Về lâu dài mà nói, Người Hùng Mang Ngàn Gương Mặt của Joseph Campbell là một trong những quyển sách có sức ảnh hưởng lớn nhất thế kỷ 20.

Những tư tưởng mà quyển sách truyền tải đang ảnh hưởng to lớn tới cách thức kể chuyện. Các tay viết đang dần nhận thức rõ hơn về các hình mẫu trường tồn mà Campbell đã đưa ra, và góp phần làm giàu thêm bằng chính công sức của họ.

Hiển nhiên Hollywood cũng đã nhận ra công trình của Campbell hữu ích thế nào. Những nhà làm phim như George Lucas và George Miller đều bày tỏ lòng biết ơn tới Campbell, tầm ảnh hưởng của ông còn được thể hiện trong các phim của Steven Spielberg, John Boorman, Francis Coppola, Darren Aronofsky, Jon Favreau, và nhiều người khác.

Không có gì ngạc nhiên khi Hollywood rất ưng các tư tưởng mà Campbell trình bày trong tác phẩm của mình. Những khái niệm ông đưa ra như hộp dụng cụ vào nghề cho biên kịch, nhà sản xuất, nhà thiết kế… Chúng ẩn chứa đầy đủ các công cụ chắc chắn để phục vụ hoàn hảo cho mục đích sáng tác. Những công cụ này cho phép người dùng dựng nên câu chuyện đáp ứng đủ loại tình huống, một câu chuyện vừa có thể ẩn chứa bi kịch, lại vừa mang tính giải trí, và còn chuẩn xác về mặt tâm lý. Chúng cho phép người dùng chẩn đoán mọi vấn đề ẩn chứa trong các kịch bản khó nhằn, cũng như cung cấp giải pháp chỉnh sửa để đưa kịch bản lên tới tầm khả thi đỉnh cao của nó.

Thời gian là bảo chứng rõ ràng nhất cho tác dụng của hộp đồ nghề này. Chúng tồn tại lâu đời hơn cả những kim tự tháp, vòng tròn đá Stonehenge hay những hình vẽ sơ khai trên vách hang động.

Bộ công cụ này được Joseph Campbell hoàn thành khi ông bỏ công sức góp nhặt và quy mọi nhánh tư tưởng về một mối, sau đó nhìn nhận, diễn giải, đặt tên, và sắp xếp lại toàn bộ. Chính ông là người đầu tiên đem những hình mẫu chứa đựng trong các câu chuyện ra ánh sáng.

Người Hùng Mang Ngàn Gương Mặt là bản báo cáo của Campbell về cấu trúc bền vững nhất trong văn học, xét cả văn nói lẫn văn viết: thần thoại về người anh hùng. Trong nghiên cứu của mình về thế giới thần thoại, Campbell nhận ra rằng về bản chất mọi câu chuyện đều y hệt nhau, một cấu trúc lặp đi lặp lại bất tận với vô hạn biến thể.

Ông nhận ra rằng trong mọi cách kể chuyện, dù vô tình hay hữu ý, thì cũng theo các khuôn mẫu cổ đại từ thần thoại. Và mọi câu chuyện, từ những chuyện đùa thô thiển nhất cho tới đỉnh cao văn học, đều có thể diễn giải dựa trên Hành Trình Anh Hùng: vòng lặp hành trình cùng các nguyên tắc của nó.

Các hình mẫu trong Hành Trình Anh Hùng mang tính chung nhất, áp dụng ở bất kỳ nền văn hóa, bất kỳ thời điểm nào. Hệt như chính loài người chúng ta, khả năng biến thể tái lặp của các hình mẫu là vô hạn, dẫu cho bản chất nguyên thủy không hề thay đổi. Hành Trình Anh Hùng là một chuỗi các yếu tố bền bỉ bật lên từ sâu thẳm nhất trong tâm trí con người, có khác biệt qua các nền văn hóa, nhưng về bản chất vẫn là một.

Suy nghĩ của Campbell cũng song hành với nhà tâm lý học người Thụy Sỹ Carl G. Jung, người từng viết về các cổ mẫu (hoặc nguyên mẫu) như sau: chúng là những nhân vật hoặc nguồn năng lượng được lặp lại, liên tiếp, xuất hiện trong giấc mơ của mọi người và các câu chuyện thần thoại trong mọi nền văn hóa. Jung cũng gợi ý rằng những nguyên mẫu trên phản ánh những khía cạnh khác nhau của tâm trí con người, rằng bản dạng của chúng ta được phân thành nhiều tính cách để đối ứng với những thăng trầm khác nhau của cuộc đời. Ông nhận ra có sự tương thích mạnh mẽ giữa các hình ảnh trong giấc mơ của bệnh nhân mình chăm sóc với các cổ mẫu trong thần thoại. Ông cho rằng cả hai đều xuất phát từ những nguồn sâu thẳm hơn: vô thức tập thể (collective unconscious) của loài người.

Những nhân vật được lặp đi lặp lại trong thế giới thần thoại cũng chính là những thứ thường xuyên xuất hiện trong giấc mơ và tưởng tượng của chúng ta: các anh hùng trẻ tuổi, những bô lão thông thái, người biến hình, và các nhân vật phản diện núp trong bóng tối. Điều đó lý giải tại sao thần thoại và các câu chuyện được dựng nên từ hình mẫu của chúng đều chứa đựng triết lý về tâm lý.

Các câu chuyện như thế là những hình mẫu chính xác cho việc khai thác tâm trí con người, bản đồ chân thực của tâm hồn. Chúng chính xác về mặt tâm lý, và đưa ra cảm xúc chân thật ngay cả khi được dùng để diễn giải các sự kiện siêu phàm, phi thường, phi thực tế.

Vì lẽ đó, các câu chuyện trên đều sở hữu tính phổ quát. Bất cứ ai cũng có thể cảm thụ được sức hấp dẫn của những câu chuyện dựa trên mô hình Hành Trình Anh Hùng, chính bởi nguồn gốc phổ quát và phản ánh được vạn vật tự nhiên.

Chúng giải thích những câu hỏi phổ biến thuở còn trẻ thơ của mọi người: Tôi là ai? Tôi đến từ đâu? Khi chết rồi tôi sẽ tới đâu? Thiện ác là gì? Tôi phải đối phó với chúng ra sao? Ngày mai sẽ thế nào? Ngày hôm qua đã trôi về đâu? Bên ngoài kia còn ai không?

Những tư tưởng được lồng vào trong thần thoại, sau đó được Campbell định dạng lại trong tác phẩm Người Hùng Mang Ngàn Gương Mặt có thể được dùng để thấu hiểu hầu hết vấn đề nhân sinh. Chúng là chìa khóa hữu ích cho cuộc sống, cũng như công cụ hiệu quả để lôi cuốn đám đông khán giả.

Nếu bạn muốn hiểu rõ các tư tưởng đằng sau Hành Trình Anh Hùng, chẳng có cách nào khác ngoài việc tìm đọc tác phẩm của Campbell. Đó sẽ là trải nghiệm thay đổi đời người.

Đọc nhiều thần thoại cũng là ý hay, nhưng đọc sách của Campbell thì hiệu quả cũng chẳng khác là bao bởi lối kể chuyện bậc thầy, và ông cũng thích minh họa những luận điểm bằng ví dụ lấy từ chính kho tàng thần thoại đồ sộ.

Trong Chương 4 của Người Hùng Mang Ngàn Gương Mặt có tên “Những Chiếc Chìa Khóa”, Campbell đã đưa ra dàn bài cho Hành Trình Anh Hùng. Tôi đã mạn phép thay đổi dàn bài một chút, cố gắng phản ánh thêm về các chủ đề phổ biến trong điện ảnh bằng các minh họa trích từ các bộ phim đương đại, và cả một vài phim cổ điển khác. Độc giả có thể so sánh hai dàn bài và các thuật ngữ thông qua Bảng 1 ngay dưới đây.

HÀNH TRÌNH NGƯỜI VIẾTNGƯỜI HÙNG MANG NGÀN GƯƠNG MẶT
HỒI MỘTKHỞI HÀNH, LY BIỆT
Thế Giới Bình Phàm
Tiếng Gọi Phiêu Lưu
Lời Từ Chối
Gặp Gỡ Sư Phụ
Vượt Ải Đầu Tiên
Thế Giới Thường Nhật
Tiếng Gọi Phiêu Lưu
Lời Từ Chối
Sự Trợ Giúp Siêu Nhiên
Vượt Ải Đầu Tiên
Bụng Cá Voi
HỒI HAIDẤN THÂN, KHỞI ĐẦU, VƯỢT QUA
Thử Thách, Đồng Minh, Kẻ Thù
Tiếp Cận Hang Động Trong Cùng
Khổ Hình   



Phần Thưởng
Con Đường Thử Thách 

Gặp Gỡ Nữ Thần
Ải Mỹ Nhân
Chuộc Tội Cùng Thánh Thần
Sự Sùng Bái
Ân Huệ Tối Thượng
HỒI BATRỞ VỀ
Con Đường Trở Về




Hồi Sinh
Quay Về Cùng Thần Dược
Từ Chối Trở Về
Hành Trình Kì Diệu
Sự Giải Cứu
Vượt Qua Thử Thách
Trở Về
Bậc Thầy Ở Hai Thế Giới
Tự Do Để Sống
BẢNG 1
So sánh dàn bài và thuật ngữ

Tôi sẽ kể lại giai thoại Anh Hùng theo cách riêng mình, và độc giả cũng nên làm tương tự. Mọi tay viết đều có thể nhào nặn các hình mẫu thần thoại theo mục đích riêng, hoặc theo nhu cầu của một nền văn hóa cụ thể nào đó.

Đó là lý do tại sao người hùng lại có muôn vàn gương mặt.

Một chú thích về thuật ngữ “anh hùng” được dùng ở đây, cũng tương tự như “bác sĩ”, hay “nhà thơ”, hoàn toàn có thể chỉ bất kỳ giới tính nào.

HÀNH TRÌNH ANH HÙNG

Dẫu cho có muôn vàn biến thể, bản chất câu chuyện về Anh Hùng luôn là một hành trình. Họ từ bỏ cuộc sống dễ chịu quen thuộc cố hữu để dấn thân vào thế giới xa lạ đầy thử thách. Đó có thể là một hành trình hướng ngoại đến một địa điểm cụ thể nào đó: một mê cung, một khu rừng, hay một hang động, một thành phố, một quốc gia xa lạ, một địa điểm mới toanh, nơi sẽ trở thành võ đài cho chính họ chiến đấu với những thế lực phản diện khó nhằn.

Nhưng cũng có nhiều câu chuyện đưa ra hành trình hướng nội, tìm về tâm trí, trái tim, linh hồn của con người. Trong bất kỳ câu chuyện hấp dẫn nào cũng chứa đựng hành trình trưởng thành và thay đổi của nhân vật chính: từ tuyệt vọng đến hy vọng, từ yếu ớt đến mạnh mẽ, từ điên cuồng đến khôn ngoan, từ yêu thành hận, và ngược lại. Những hành trình đầy cảm xúc này mê hoặc khán giả và tăng cường giá trị theo dõi của chính câu chuyện.

Có thể nhận ra các chặng đường trên Hành Trình Anh Hùng ở khắp mọi câu chuyện, không chỉ gói gọn trong các phiên bản phiêu lưu hành động nảy lửa. Nhân vật chính luôn là người hùng trong mọi hành trình, dù cho con đường phiêu lưu kia chỉ xoay quanh tâm lý hay những mảng quan hệ của họ.

Các chặng trong Hành Trình Anh Hùng xuất hiện và liên kết theo một lẽ tự nhiên, ngay cả khi người viết chẳng hề để ý tới, nhưng những kiến thức góp nhặt từ kho tàng xa xưa này vẫn chứng tỏ độ hữu dụng trong việc nhìn nhận vấn đề và cải thiện cách kể chuyện. Hãy xem 12 chặng đường này như một địa đồ cho Hành Trình Anh Hùng, không chỉ để soi rọi đường đi, mà còn là con đường bền bỉ, linh hoạt, và đáng tin cậy bậc nhất.

CÁC CHẶNG ĐƯỜNG TRONG HÀNH TRÌNH ANH HÙNG

1. THẾ GIỚI BÌNH PHÀM

2. TIẾNG GỌI PHIÊU LƯU

3. LỜI TỪ CHỐI

4. GẶP GỠ SƯ PHỤ

5. VƯỢT ẢI ĐẦU TIÊN

6. THỬ THÁCH, ĐỒNG MINH, KẺ THÙ

7. TIẾP CẬN HANG ĐỘNG TRONG CÙNG

8. KHỔ HÌNH

9. PHẦN THƯỞNG (ĐOẠT LẤY GƯƠM BÁU)

10. CON ĐƯỜNG TRỞ VỀ

11. HỒI SINH

12. QUAY VỀ CÙNG THẦN DƯỢC

Đọc bài viết

Trích đăng

Vài chuyện linh tinh mà cây cối dạy cho mình về tình yêu – Trích “Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành”

Published

on

Trích từ: Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành
Tác giả: Anh Khang
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2024
Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Có một dạo, cứ mỗi lần nhớ người thương cũ, mình lại đi mua một cái cây, về trồng ngoài ban công.

Thói quen ấy đều đặn thành nếp sống. Đến một ngày, trước cửa sổ phòng, đã là cả một khu vườn nho nhỏ xinh xanh.

Những buổi sáng, tỉnh dậy, nắng len qua ô kính, dụi mắt đánh thức mình. Điều đầu tiên mình nhìn thấy, là cả một khoảng trời xanh mướt của từng phiến lá khẽ đung đưa, như vẫy tay chào, và bảo: “Ê, ngày mới tới rồi. Đừng nằm lì ở ngày hôm qua nữa. Dậy đi tưới cây, ngắm nắng, tỉa lá, chăm hoa,... Vườn nhà biết bao việc. Nằm đó nhớ nhung gì!”.

Đó là khi mình nhận ra, sau rất nhiều năm tháng chia tay, điều đầu tiên mình nghĩ đến khi thức dậy, không còn là người ấy nữa.

Mình bắt đầu nghĩ về bổn phận của một người làm vườn có trách nhiệm với mầm xanh trước cửa, của một người “nông dân cày xới trên mảnh đất tinh thần”. Và nhất là, không còn nghĩ về danh phận mà mình đã truy cầu suốt thời tuổi trẻ, khiến xói mòn tiêu hao rất nhiều “hạt giống niềm tin” vào quả ngọt mang tên “tình yêu” chưa bao giờ kết trái.

Hồi xưa, mình từng cho rằng bản thân chẳng có tay trồng cây, mọi hạt giống gieo xuống đều chẳng nảy lên xanh. Cũng giống như bản tính thích yêu và được-yêu, nhưng lại chẳng có duyên với mấy chuyện yêu đương. Nhưng, nhờ những ngày tháng hiện tại, bầu bạn cùng cỏ cây, quanh quẩn bên hoa lá, chăm chút từng mầm xanh,... mình học thêm được vài bài học mới, vài cách nghĩ khác đi, từ “người thầy” xanh màu diệp lục tố.

Như là, tại sao cứ mặc định bản thân là “vô năng bất khả”, tại sao cứ hạn định mọi nỗ lực và cố gắng của chính mình?

Dù là chuyện trồng cây.

Hay là chuyện yêu đương cũng thế.

#1

Càng bớt cố chấp, càng đỡ mệt thân

Mình có một chấp niệm, với cây hương thảo.

Loài thảo mộc bản địa của vùng Địa Trung Hải, vốn đã theo chân mình suốt dặm đường rong ruổi hồi trẻ qua biết bao thành phố ở vùng cựu lục địa. Thế nên, một trong những chậu cây đầu tiên mà mình mang về khu vườn nhỏ của mình, hiển nhiên, phải là hương thảo.

Dù đã được nhiều người chủ vựa cây kiểng dặn dò về thuộc tính đỏng đảnh “ưa nước nhưng ghét ẩm”, “thích nắng nhưng sợ hạn” của loài cây thơm lừng từ ngọn tới lá này, mình vẫn một mực tìm mua đủ mọi giống hương thảo. Từ loại giâm cành chiết ngọn ở miền Bắc đến miền Tây, rồi cả giống cây thuần khí hậu miền Nam, hay được dưỡng thân hóa gỗ thành dáng bonsai vững vàng...

Nhưng bất kể bao cố gắng kiên trì của mình, thì không một chậu cây hương thảo nào chịu sống đời dai dẳng, ở lại bên mình dài lâu được cả.

Mình càng cố, thì kết quả, vẫn chỉ là cành khô ngọn rủ, từng bụi hương thảo cứ thế héo hắt rời đi. Vì nhiều lý do, từ giá thể thổ nhưỡng đến vị trí trồng trọt, và còn hằng hà sa số điều kiện thiên thời địa lợi đã không thể chiều lòng chấp niệm “trồng hương thảo” của mình.

Không phải mình cứ cố gắng là sẽ đạt được ý nguyện ban đầu. Có những thứ mà ngay từ đầu, có lẽ, đã là chấp niệm viển vông của riêng bản thân. Chứ chẳng thể thành toàn viên mãn.

#2 

Nếu đã là duyên phận thuộc về bạn,

cơ bản bạn chẳng cần làm gì cũng viên mãn

Vẫn tiếp tục câu chuyện về hương thảo.

Trong rất nhiều bụi hương thảo đã bỏ mình đi, thì duy nhất, trong vườn còn lại một bụi thơm lừng, bền bỉ tỏa hương, nhẫn nại vươn cành.

Ban đầu, đây vốn chỉ là một bầu cây nhỏ xíu mình mua hú họa, chẳng dụng công trồng hay đặt nhiều hy vọng. Tiện tay, ướm vào chậu treo, thấy vừa khít, nên tùy ý móc lên mái tôn trước bệ cửa sổ. Ai ngờ, cây hương thảo bé nhỏ chẳng được chăm chút mấy, lại trở thành loài thảo mộc ở lại bên mình kiên tâm lâu dài nhất.

Ngẫm lại, cả khu vườn trải qua bao mùa cây cối tụ tán, hoa lá nở tàn, thì chỉ có duy nhất cây hương thảo treo đó, vẫn cam tâm tình nguyện cùng mình kết một đoạn duyên phận, lặng lẽ nhưng thâm tình, bình đạm nhưng thành tâm.

Để bây giờ, mỗi lần mở cửa sổ, hương thơm the mát vương mùi thảo mộc, thoảng đầy ý vị bình an, cứ thế len lỏi khắp phòng.

#3

Yêu thương khi không thấu hiểu,

chỉ gây thêm gánh nặng cho người mình yêu

Có một lần, quá nôn nóng vì cây hạnh ngọt chưa chịu ra hoa và hoa rụng trước kỳ đậu quả, mình bèn mua đủ loại phân bón.

Khỏi nói cũng biết kết quả. Mình, chẳng chịu tìm hiểu kỹ lưỡng nguyên tắc dưỡng trồng, cứ vung tay quá trớn, sơ sẩy thiển cận. Thành ra, cây hạnh ngọt đang li ti hoa trắng, ngấp nghé vài quả non, chỉ sau một đêm, lập tức khô khốc trụi cành, hoàn toàn héo rũ.

Sau đó, mới nhận ra bản thân đã sai ngay từ đầu, trong những khâu cơ bản như tìm hiểu, chọn lựa thành phần, chế độ, liều lượng,... của các loại chế phẩm chăm cây. Hóa ra, chính sự yêu thương thiếu kiến thức của mình đã đẩy đối tượng mình yêu thương (là cái cây) đi đến chỗ đang xanh-màu thành xanh-cỏ.

Tình yêu, suy cho cùng, nếu thiếu đi sự thấu hiểu, sẽ chẳng thể đồng hành lâu dài, giúp nhau tăng tiến. Mù quáng trao đi yêu thương mà không nhận thức rõ ràng đâu là đủ-thiếu, đâu là đúng-sai, thì chỉ chuốc thêm đau lòng cho chính mình và phiền lòng cho người mình yêu.

#4

Có những kết thúc chính là để bắt đầu

Có mấy chậu cây, mình chăm dữ lắm, nhưng cứ được vài tháng là bắt đầu vàng lá mục cành.

Mình, bắt đầu chấp nhận sự đến-đi của vô thường, ngay cả cây cối cũng đâu thể tránh khỏi thành-trụ-hoại-không. Định bụng, chào cái cây lần cuối, xong sẽ bỏ đất, thay chậu, chôn cây, cho xong một vòng tuần hoàn của đời thảo mộc. Ai dè, ngay kế cành cây sắp mục ruỗng ngã đổ, một mầm xanh bé xíu đang gắng sức vươn lên. Chiếc lá non xanh biếc, giống hệt dáng hình của chiếc lá đang ngả vàng của nhánh cây héo rũ kế bên. Một sự tiếp nối, lặng lẽ diễn ra. Những mầm xanh bé nhỏ, còn bền bỉ tách đất vươn lên. Huống hồ tuổi trẻ, vốn chẳng có một giới hạn nào, sao chúng ta lại cứ ngại, sợ? Có kết thúc nào là mãi mãi dừng lại ở đó đâu, khi đằng sau nó luôn là cả một khởi đầu miên viễn. Bạt ngàn. Vô tận.

Đời sống luôn là một bản trường ca mà khi một nốt trầm lặng xuống thì chính là báo hiệu một đoạn tấu khúc réo rắt sắp bắt đầu khởi xướng.

#5

Rừng xanh nào cũng bắt đầu từ hoang sơ

Có những hôm trời bất chợt đổ mưa. Ngó ra khoảng không xanh mướt mắt đang ướt đẫm trong màn nước trong vắt bên ngoài. Mình bỗng mềm lòng, nhớ lại. Chỉ mới vài tháng trước, khoảnh sân này chỉ là một mái tôn trơ trọi xám lạnh. Giờ đã thành vườn xanh. Mấy bông hoa chanh đã đậu quả thành trái non lúc lỉu trên cành. Mấy trái tắc mới vài tuần trước còn li ti như những hạt sương lấm tấm xanh xanh giờ đã tượng hình thành trái múp míp. Và cả bụi hoa hồng đã rụng hết đợt hoa bừng sắc tháng trước, đến nay cũng đã ươm mầm mới nở thành nụ phơn phớt dịu dàng.

Và cái đứa từng nghĩ rằng bản thân không có tay trồng cây, không có thể ươm xanh nụ mầm... sau tất cả, cũng đã tự tay có được khu vườn của riêng mình.

Chỉ cần mình chịu bắt đầu. Từ một việc đơn giản nhất. Là gieo mầm. Thay vì cứ đứng đó trơ mắt nhìn vào trống trải tiêu sơ.

Trộm nghĩ, một khu rừng rậm rạp cách mấy, cũng đều phải khởi sự từ những nhánh cây mầm cỏ bé nhỏ ban đầu. Nếu không có hoang tàn trơ trọi lúc đó, thì làm sao có hùng vĩ trong lành hôm nay? Điều quan trọng là chúng ta đừng chỉ nhìn chăm chăm vào mớ hỗn độn ngổn ngang rồi chùng lòng chán nản, thoái thác tháo lui, mà phải chấp nhận dấn thân, lao tâm khổ tứ. Dù là trồng rừng, trồng cây, hay là trồng lại hy vọng, niềm tin của chính mình. Vào tình yêu. Vào con người.

#6

Ai rồi cũng sẽ có khoảng trời thuộc về mình

Ngồi viết những dòng này, khi bên ngoài, hoàng hôn vừa xuống. Cảm giác bình yên choáng ngợp trong lòng. Có điều, sự choáng ngợp này, không khiến bản thân kinh hãi, mà chỉ càng làm thấm thía trân trọng thêm khoảnh khắc hiện tại.

Đi khắp Đông-Tây-Nam-Bắc. Trải qua yêu-ghét-thương-hờn. Nếm đủ tụ-tan-ly-hợp. Đến giờ, đã có thể bình thản, một mình, ngồi ngắm hoàng hôn mà trong lòng không còn bất kỳ một lời đồng vọng. Dù là nhớ nhung chuyện cũ. Hay là trách cứ tình xưa.

Hoàng hôn để ôn chuyện cũ. Đã từng nghĩ như vậy suốt thời tuổi trẻ. Thế nên, từng có một giai đoạn bị ám ảnh hoảng loạn với hoàng hôn. Cứ thấy trời chiều, là lo lắng. Cứ thấy nắng tắt, là hoang mang. Bởi lẽ, buổi chiều, đã-từng là khi chúng ta hẹn hò, là khi chúng ta đợi chờ đến lúc gặp nhau, là khi anh cùng em rong ruổi phố phường, đuổi bắt hoàng hôn. Buổi chiều, cũng là khi chim về tổ, người về nhà, là khi ai cũng mong cầu tìm cho mình một chốn về nương náu yên thân.

Thế nhưng, bản thân ở hiện tại, đối diện buổi chiều, lại chỉ thấy bình yên. Một mình hay mấy mình, giờ đã không còn mấy quan trọng. Chỉ biết là trong khoảnh khắc mặt trời le lói, vẫn thấy lòng ngập tràn ánh sáng. Thứ ánh sáng của an vui hỉ lạc, của tự tại tùy duyên.

Hóa ra, huyền cơ của việc thuận theo ý trời, tuân lời thiên mệnh, chỉ nằm trong một khoảnh khắc như thế này.

Đó là nhìn trời chiều, không buồn không tiếc, không nấn ná dây dưa cũng không hối hả sợ sệt. Chỉ thấy biết ơn năm tháng dù hối hả trôi qua, ghi ân thời gian dù vội vã giục giã, nhưng vẫn luôn độ lượng khoan dung dành cho chúng ta một chốn về yên ả.

Anh và em. Tôi và người. Bạn và chúng ta. Tất cả rồi cũng đều sẽ có một khoảng trời riêng. Nơi mưa nắng bão dông đều trở nên dịu dàng. Nơi bình minh hay hoàng hôn đều đầy đặn ánh sáng. Nơi mình hiểu ra nhân duyên đẹp đẽ nhất mà ông trời ban tặng, không phải là gặp đúng ý trung nhân trọn kiếp chung tình, mà là được gặp gỡ và trở thành phiên bản trọn vẹn nhất, tốt đẹp nhất, bình an nhất, của chính mình.

Cũng giống như một cái cây, đâu phải vì muốn kết duyên đôi lứa với một cành cây cọng cỏ nào khác, nên mới sum suê xanh tốt. Cây cối, tự mình vươn cành, vì mình xanh mướt.

Việc của cây là xanh. Không bận tâm vì ai mà tươi tốt. Cũng không vì ai lìa bỏ mà héo tàn.

Vậy nên, việc của chúng ta,

là cứ bình an,

là cứ hạnh phúc.

Đọc bài viết

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura – Chuyến Tây du khảo cứu nhằm canh tân dưới thời Duy Tân Minh Trị

Published

on

Trích từ: Sứ đoàn Iwakura
Tác giả: Ian Nish
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2023

Nhắc đến Duy Tân Minh Trị, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Chuyến công du Iwakura với khẩu hiệu nước giàu quân mạnh và độc lập dân tộc

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh), và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây.

Iwakura Tomoki (người mặc trang phục truyền thống Nhật Bản) bên cạnh 4 phó sứ, từ trái sang phải, Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Hình ảnh được Ishiguro Keisho sưu tầm).

Họ bắt đầu bằng Sứ mệnh Iwakura do công tước Iwakura Tomomi (1835-1883) dẫn đầu với khoảng 50 thành viên gồm nhiều nhân vật chính phủ cao cấp, trong đó có Ito Hirobumi, lúc đó mới 30 tuổi và là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, chưa tính khoảng 60 du học sinh phục vụ việc thông dịch, thông tin. Họ đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu, như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Nga. Chuyến đi được thực hiện chỉ ba năm sau cuộc cách mạng Minh Trị, giữa lúc một cuộc khủng hoảng chính trị nổ ra tại quê nhà về bán đảo Triều Tiên.

Để động viên các sứ thần, Nhật hoàng Minh Trị đã đọc một bài diễn văn:

“Sau khi nghiên cứu và quan sát kỹ, “trẫm” có ấn tượng sâu sắc và tin rằng các quốc gia hùng mạnh và khai sáng nhất của thế giới là những quốc gia đã có những nỗ lực cần cù để vun xới trí tuệ, và tìm cách phát triển đất nước họ một cách đầy đủ và hoàn hảo... Nếu muốn ứng dụng khoa học, các kỹ xảo và những điều kiện của xã hội đang thịnh hành tại các quốc gia khai sáng, chúng ta hoặc phải tự học hỏi, hoặc gửi một đoàn nghiên cứu gồm những quan sát viên có óc thực tế đến các nước khác, tiếp thu những gì nhân dân đang thiếu để làm lợi cho quốc gia.”

Rõ ràng đây là trọng tâm của chuyến công du. Họ sẽ đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phố (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái. 

Họ muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhật Bản cởi mở chấp nhận những giá trị phương Tây

Sau chuyến công du kết thúc các nhà lãnh đạo Nhật Bản nhận định rằng, nguy cơ trực tiếp cho nền độc lập Nhật Bản không cấp bách như họ nghĩ. Sự ưu việt của phương Tây chưa lâu, và Nhật Bản có thể đuổi kịp. Kume chỉ ra trong nhật ký hành trình: “Của cải và sự phồn vinh ở mức độ đáng kể mà người ta nhìn thấy tại châu Âu xuất hiện sau 1800... Năm 1830, tàu thủy hơi nước và xe lửa mới xuất hiện. Đó là sự thay đổi đột ngột trong nền thương mại châu Âu, và người Anh là người đầu tiên dồn hết năng lượng đầu tư vào sự đổi mới.”

Nhật Bản do đó chưa phải là tuyệt vọng. Tuy nhiên, phải nhanh chóng thay đổi toàn diện. Sự đối đầu quân sự chưa phải lúc, mà phải chấn hưng đất nước trước (như Phan Châu Trinh sau này). Đoàn có mang theo một số người bảo thủ, để cho họ thấy, phải cải cách đất nước trước, và một số người quá khích để họ thấy đối đầu quân sự là vô vọng. Những năm 1863-1864, dưới thời Hoàng đế Komei, bố của Minh Trị, người rất thù ghét phương Tây, Nhật Bản đã gây chiến với hải quân các nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Hà Lan, nhưng đại bại, và phải bồi thường $3.000.000, một bài học đắt giá. Khác với những chuyến công du khác trong lịch sử có đích đến là Trung Hoa, chuyến đi này hướng về phương Tây.

Đoàn cũng nhận ra sâu sắc rằng, không có sự tham gia của nhân dân vào các định chế đại nghị thì không thể có sự đồng thuận cho các hành động của chính quyền. Kido dẫn kinh nghiệm của Ba Lan để chứng minh rằng, thiếu vắng sự tham gia của dân chúng sẽ là tai họa cho nền độc lập quốc gia. Ông cho rằng Năm điều thề ước năm 1868 chính là nền tảng của Hiến pháp cho phép mọi người tham gia; rằng (điều 2) “tất cả các giai cấp, cao cũng như thấp, sẽ hợp lại thực hiện mạnh mẽ chương trình của chính quyền; (điều 3) “tất cả các giai cấp được quyền thực hiện những hoài bão của họ mà không gặp phải khó khăn nào”.

Họ hiểu và tỏ ra kính trọng hơn giá trị của tôn giáo trong đời sống công dân cũng như chính trị. Khi trở về họ đã bỏ lệnh cấm hành đạo Kitô giáo.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Năm nữ sinh được gửi đi du học theo Sứ tiết Iwakura, từ trái sang phải: Nagai Shigeko, Ueda Teiko, Yoshimasu Ryoko, Tsuda Umeko và Yamakawa Sutematsu.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực, ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ Giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các đại học và các tổ chức học thuật khác. Năm 1873, Bộ Giáo dục phải trả một số tiền bằng khoảng 14% ngân quỹ cho giáo viên nước ngoài. Năm 1877 một phần ba ngân quỹ của Đại học Tokyo là dành cho người nước ngoài. Nhật Bản lần lượt thực hiện hai cuộc cách mạng công nghiệp trọng tâm, thứ nhất là công nghiệp nhẹ, thứ hai là công nghiệp nặng. 

Sứ đoàn Iwakura thực hiện đúng điều thứ 5 trong Năm điều thề ước của Hoàng đế Minh Trị và các nhà lãnh đạo trẻ xung quanh ông, rằng: “Tri thức phải được tìm kiếm khắp nơi trên thế giới, để mở rộng và tăng cường quyền lực của đế chế”. 

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Chưa có dân tộc nào có năng lực quan sát trung thực và đưa ra những ý tưởng dự phóng, cũng như đủ quyết tâm theo đuổi đến khi thành công như họ.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Cafe sáng