Phía sau trang sách

The Fix – Quốc gia tái thiết: Hy vọng vẫn còn

“The Fix” gồm 10 bài viết như những case study về cách mà các quốc gia đã vượt qua khủng hoảng của mình.

Published

on

Chi tiết tác phẩm

Trong cuốn The Fix – Quốc gia tái thiết, tác giả Jonathan Tepperman đôi lần lặp đi lặp lại trạng thái “Thế giới đang bước đi trên một lưỡi dao cạo”, và vô hình chung, đây không hẳn là sự trùng hợp. Một cách vui vẻ để nhìn nhận, đứng trước mạng lưới thông tin dày đặc được cập nhật 24/7 về tình hình thế giới hiện nay, đôi khi hình tượng hạt dẻ mà chú lười Sid trong Kỷ băng hà (Ice Age) vô ý cắm vào tảng băng để từ đó vũ trụ thành ra nứt nẻ lại hiện ra. Cho đến ngày nay, khi cuộc khủng hoảng tài chính châu Á hay Mùa xuân Ả Rập vừa tạm nguôi đi; thì ngay lập tức mùa hạ kinh hoàng năm 2014 khi Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng ra Biển Đông lại đến. Không những thế, sự lớn mạnh của Nhà nước Hồi giáo cực đoan IS, đại dịch chết chóc Ebola, sự thiếu hụt tài nguyên khí đốt, Hy Lạp phá sản hay Chủ nghĩa bản địa bài ngoại ở những nơi di dân chạy trốn chiến tranh Vùng Vịnh… cũng giáng những nỗi kinh hoàng lên đời sống con người. Ở ngay những thời khắc này, chính các sự kiện ấy là thứ hạt dẻ làm nứt vũ trụ, chỉ khác lần này không còn nằm trên màn ảnh 2D và được Disney tạo ra (sự thật rằng nó vừa mua đứt 21st Century Fox); mà đó đã dần thành hình trong thế giới thực – một thế giới của con người, vì con người; và dĩ nhiên, do con người.

The Fix tuy nhiên là một tập hợp những điều tươi sáng hơn thế. Cuốn sách gồm 10 bài viết như những case study về cách mà các quốc gia đã vượt qua khủng hoảng của mình. Lấy 10 chủ để nổi bật nhất nền địa – chính trị những năm vừa qua, Jonathan Tepperman một cách tài tình dẵn dắt người đọc qua những câu chuyện tái thiết của các quốc gia thuộc 4 châu lục; băng qua tình cảnh bất bình đẳng của Brazil, nạn tham nhũng ở Singapore, chủ nghĩa Hồi giáo Cực đoan ở Indonesia, những vết thương nội chiến của Rwanda hay lời nguyền tài nguyên của Bostwana. Bên cạnh đó, ông cũng lần mò đi tìm nguyên nhân lý giải vì sao Canada mở rộng cánh tay với người tị nạn, cách Hàn Quốc tăng trưởng – tăng trưởng nữa – tăng trưởng mãi để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, cách Mexico khởi động lại guồng máy chính phủ, cách Mỹ bùng nổ cách mạng Đá phiến hay phương pháp tháo gỡ nút thắt của New York sau vụ khủng bố 11/9. Nhìn nhận một cách khách quan, The Fix cắt ngang sự ảm đạm như một tia nắng (Adam Grant), và mang một chút hy vọng cho những ai vẫn đang mong muốn những điều tốt đẹp hơn – dĩ nhiên là thực tế hơn.

Trong vai trò Trưởng ban biên tập của Văn phòng Bộ ngoại giao, Jonathan Tepperman tiếp cận đọc giả dưới góc nhìn của một chuyên gia lành nghề. Như một bác sỹ giải phẫu tận tụy từng vấn đề, bằng kinh nghiệm và các mối quan hệ cá nhân, The Fix cung cấp cho người đọc những thông tin đúng đắn, thức thời, đôi khi ngay cả tuyệt mật từ chính những người trong cuộc; và chính yếu tố này làm nên tính thực tế và sinh động cho cuốn sách. Lấy ví dụ như trường hợp cách Mexico tháo gỡ guồng máy chính phủ ngay giữa những cuộc chống đối bè phái, mà theo Jonathan viết, đó đều là những “hoàn cảnh vụn trộm” hay những “cuộc dàn xếp bí mật” giữa 3 đảng phái nhà nước; và nếu không dùng bất cứ một mối quan hệ nào để tiếp cận những cá nhân chủ chốt từng tham gia các hội nghị trên, khó lòng để hiểu được cách chúng vận hành gỡ rối ra sao. Do đó, cá nhân người viết ở góc độ nào và đóng góp ra sao ít nhiều tạo sự thức thời cho cuốn sách này.

Và có một thực tế đa số những cuốn non-fiction ăn khách ngày nay được viết bởi những nhà báo lăn xả hơn những chuyên gia trong ngành. Có thể kể đến như Bad Blood của John Carreyrou, The Shock Doctrine của Naomi Klein, Secret Formula của Frederick L. Allen hay Seven Days in the Art Work của Sarah Thornton,… Đơn giản là vì, dưới góc độ của một nhà báo, nó đòi hỏi người viết cung cấp những thông tin giật gân, có thể gây bất ngờ hay chính những điều ngay cả người đọc không thể màng tới; và cũng chính lẽ đó, chưa chắc là những thông tin chính xác. Trong khi đó, Jonathan Tepperman giữ vững vai trò hai mang của mình – ông tìm tòi như một nhà báo, nhưng khẳng định như một chuyên gia. Cách xây dựng của ông đi từ những điều nhỏ nhặt nhất, như thể cách giải quyết bất bình đẳng ở Brazil bằng chính sách Bolsa Família, khi hỏi tổng thống Lula của nước này đâu là mấu chốt của vấn đề, ngài tổng thống đã không ngần ngại trả lời: “Người hiểu rõ nhất người nghèo thật sự cần gì là những người như mẹ ông – ấy là bản thân người nghèo”. Rõ ràng nhận thấy, Jonathan bằng cách tiếp cận trực tiếp và thức thời làm cho vấn đề một cách sáng tỏ, không đi vòng tránh né, đoán già đoán non hay tin tưởng vào những nhận định ở phía phủ định để phù hợp với con đường xây dựng cuốn sách như trường hợp của nhiều nhà báo khác.

Ảnh: Foreignpolicy.com

Cạnh đó, với các vấn đề trong cuốn sách này, Jonathan không chỉ nêu ra vấn đề, trình bày những cách giải quyết; ông cùng đó nêu bật điểm yếu hay cách áp dụng ra sao vào các nền chính trị khác. Do đó với The Fix, người đọc không mang cảm giác đây là cuốn sách tâng bốc giả tạo những sáng kiến cá nhân; khi một cách thẳng thắn, những điểm yếu của cai trị độc tài, của chủ nghĩa thực dụng, của lối từ bỏ cái hoàn hảo lấy cái có thể chấp nhận được vẫn tồn tại trong này. Jonathan không dè chừng, không sợ hãi và phơi bày chúng như những điểm yếu cần có của muôn mặt vấn đề. Đơn cử như chương về cách mạng Đá phiến của Mỹ, ông không ngần ngại chỉ ra đâu là lý do tuy nằm trên một mỏ đầy những trầm tích đá phiến với một hàm lượng gấp rất nhiều lần Mỹ nhưng lục địa già lại từ chối cơ hội khai thác này, để rồi vẫn bị Nga nắm chui khi phụ thuộc nhập khẩu hơn 1/3 khí đốt từ đất nước này. Hay bởi những đặc tính rất Trung Quốc: ngại mạo hiểm, ưa đi tắt đón đầu và thiếu nguồn khích lệ thị trường tự do đã khiến công cuộc khai thác đá phiến ở đây giậm chân tại chỗ cho đến ngày nay.

Ở một mặt khác, ông không tôn vinh quá đà hay cố lý tưởng hóa bất cứ một cá nhân hay đường lối, chính sách nào. Chẳng hạn như ngay khi vừa cho thấy một nước Mỹ sẵn sàng nghiên cứu những đường hướng mới trong cuộc cách mạng đá phiến, ông liền quay ngoắc phê phán lối thụ động đối mặt với khủng bố trong cơn ảo danh chống phá giữa các đảng phái làm tê liệt nghị trường Washington; để chính bộ máy địa phương như New York phải căng mình đứng ra lo liệu. Hay một mặt khác, ông không ngần ngại cho thấy lối cai trị độc tài của Lý Quang Diệu để đưa Singapore ra khỏi con đường tham nhũng; hay Park Chunghee tiếp tay những chaebol (tập đoàn gia đình) dần dần làm lũng đoạn kinh tế Hàn Quốc khi chỉ vừa khởi sắc. Đây đều không phải những điều đáng khen hay nên học tập trong một thế giới tiến gần đến dân chủ hóa, tự do hóa ngày nay; nhưng với những bước phát triển ngay từ bữa đầu, đây thực sự là cuộc tiểu phẫu đi sâu vào lòng vấn đề, không vòng tránh, không giảm nhẹ. Một lối viết dũng cảm, mạnh mẽ và phơi bày.

The Fix mang trong bản thân thế mạnh không chỉ của những chính sách cứu vớt khỏi cơn bĩ cực chính trị; mà còn chứa trong mình câu chuyện lịch sử của từng quốc gia dính líu ít nhiều trong này. Jonathan bằng cách nghiên cứu sâu rộng đi thẳng vào những mâu thuẫn, cách nó hình thành; đôi khi là những tập quán, phong tục tồn tại xa xưa ở những vùng đất ta chưa từng biết. Ông đi sâu vào nghiên cứu các gacaca (toà án hương thôn của Rwanda), kgotla (phiên giải quyết giữa các tù trưởng Bostwana), đặc điểm Hồi giáo cực đoan nửa vời của Indonesia hay khởi thủy một nền Canada trắng của Canada,… Do đó, nhìn chung, The Fix phù hợp người đọc ở nhiều góc nhìn. Nếu không quá chú trọng đến cách những quốc gia tái thiết – vì có lẽ đó là việc của những người chuyên trách hơn – thì cuốn sách này cho ta góc nhìn tuy chỉ một giai đoạn nhỏ, nhưng đều là những thời khắc chính trị quan trọng của những nơi chốn này. Quốc gia tái thiết đứng giữa hai bờ quá khứ – tương lai. Nếu thấy quá xa trước tương lai bất định, cứ nhảy ngược trở về quá khứ để xem cuộc nội chiến giữa 2 tộc người Tutsi và Hutu ở Rwanda tạo nên hơn 130.000 tội phạm diệt chủng và cần hơn 200 năm mới xử lý hết. Hay quay về thời khắc Singapore vừa được trao trả độc lập, với sự đồi bại và tội ác ngút trời: hội tam hoàng và những hội kín người Hoa công khai điều hành ổ hút và nhà thổ, tay chân chém giết tranh giành địa bàn khắp các đường phố,…

Thế nhưng không thể nói The Fix không có điểm yếu. Thứ nhất, nhìn chung các vấn đề trong cuốn sách này đều là các case study, do đó chúng đều là những giải pháp chỉ trên bề mặt, không một hướng đi cụ thể. Tuy Jonathan đã rất cố gắng đúc kết rất nhiều điểm chung, rất nhiều phương hướng có thể soi rọi cho những nền chính trị khác; nhưng nó là điều bất khả cho nền chính trị của các đất nước quá khác xa nhau. Nhưng như một bài học cuối cùng ông đúc kết lại, đôi khi ta phải từ bỏ cái hoàn hảo để lấy cái có thể chấp nhận được; và ở riêng điều này, The Fix tỏ ra có tác dụng. Không hoàn toàn vô ích khi học hỏi Canada về cách dang tay hỗ trợ và giữ lại người tị nạn hay cách chính quyền thành phố New York tự cứu lấy mình khỏi những lo toan khủng bố đè nặng.

Thứ hai, điểm yếu ở tính địa phương. Ở đây, hầu như 10 bài viết đều gắn liền với 10 cá nhân tổng thống xuất sắc – những người đoán đầu và chịu thử thách. Cùng đi với đó là những hoàn cảnh chính trị mà như Jonathan đôi khi thừa nhận, là rất đặc biệt, có một không hai. Chính những điều này làm nên tích chất manh mún của mỗi vấn đề. Như thể ở trường hợp Indonesia: ta không thể nói lực lượng Hồi giáo ở những khu vực vùng vịnh như Iran, Iraq hay Syria không có đường lối cứng rắn như ở Indonesia để rồi áp dụng bài học ấy ở các nước này. Hay một Bắc Triều để vươn mình phát triển như Nam Triều của ngày hôm nay, thì đào đâu ra các chaebol – gia độc gia đình để được nhà nước dù cho độc tài rót vốn, miễn thuế hay thúc đẩy phát triển? Cho nên nhìn chung, với những case study rất nhỏ và cụ thể tỏ tường thế này, một góc nào đó cho thấy The Fix vẫn chỉ là câu trả lời cho những vấn đề thức thời. Nó không bao quát, không làm nên định lý chung, không thành quỹ tích cho những đường đi vì một thế giới sẽ đẹp đẽ hơn.

Và điều cuối cùng, phụ thuộc tâm lý hơn bất cứ vấn đề nào khác của cuốn sách này. Rằng, con người với một bản chất luôn thích khám phá, bóc trần những điều tăm tối hơn là hy vọng. Dẫu cho phần đầu Jonathan một cách tinh quái nêu bật lên những lần ranh hiểm nguy trước khi đi vào giải quyết, nhưng với thời lượng quá chông chênh nhau đâm ra thiếu đi tác dụng. Không thể trách ai, chỉ trách ông quá lạc quan viết nên cuốn sách e quá tươi sáng cho những con người ủ dột của ngày hôm nay.

Đồng hồ tận thế (Doomsday Clock) vừa nhích thêm 20 giây đến khoảng cách diệt vọng của xã hội loài người, làm giảm khoảng cách xuống còn 100 giây đến thời điểm nửa đêm của ngày cuối cùng. Theo đó, Nhóm nhà Khoa học Hạt Nhân Mỹ cho rằng, hai hiểm họa diệt vong là chiến tranh hạt nhân và biến đổi khí hậu thúc sẽ đẩy càng nhanh quá trình diễn tiến. Chúng còn tăng lên khi có hàng loạt các mối đe dọa khác, khi chiến tranh thông tin trên không gian mạng đang làm ảnh hưởng khả năng đối phó một cách hiệu quả của xã hội. Và The Fix, với nguồn thông tin đầy ắp của mình, lướt qua như một tia sáng cho thấy vẫn có thể phần nào kiểm soát tình hình chừng nào chúng ta vẫn còn cố gắng và xắn tay áo lên để rồi hành động. Như đoạn mở đầu của ông trong cuốn sách này, rằng:

“Từ bỏ hy vọng tất nhiên là nỗi cám dỗ – nhất là vào thời điểm dường như có quá nhiều điều bất ổn xảy ra với thế giới này. Tuy nhiên, vấn đề với nỗi tuyệt vọng là nó chẳng có ích gì. […]

May thay cho chúng ta, nó cũng dư thừa nữa. Không một thử thách nào (dù có vẻ nghiêm trọng đến mấy) là thật sự không thể vượt qua. Giải pháp cho sự bế tắc […] đã có sẵn ngoài kia.

Bạn chỉ cần phải biết nhìn vào đâu để sửa sai mà thôi.”

Hết.

Ngô Thuận Phát

Xem tất cả những bài viết của Ngô Thuật Phát tại đây.


Có thể bạn sẽ thích những bài viết sau:


Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Cafe sáng