Trà chiều

Textured art: Nghệ thuật biểu đạt cảm xúc độc đáo bằng xúc giác

Published

on

Là một trong bảy yếu tố cơ bản của hội hoạ, texture là công cụ để người nghệ sĩ có thể thể hiện cảm xúc và kỹ thuật của mình lên tranh vẽ mà không chỉ bằng cách vẽ thông thường. “Textured art” (Tranh đắp nổi 3D) được cảm nhận thông qua thị giác và cả xúc giác.

Đây là một trong những điểm khác biệt của tranh texture so với những thể loại tranh khác, người vẽ có thể thỏa sức sáng tạo mà không bị giới hạn bởi chất liệu.

Texture có thể được nhìn thấy rất nhiều trong thế giới tự nhiên: bất kì vật gì có bề mặt thì đều có texture theo một tỷ lệ nhất định. Chúng ta có thể quan sát texture ở cả các vật thể tự nhiên hay giả tự nhiên (nhân tạo) như texture trên gỗ, cây, kim loại và da. Nói chung, texture liên quan đến các đặc điểm bề mặt của một vật thể và có kích thước, hình dáng, mật độ, sự sắp xếp, tỷ lệ các thành phần cơ bản của vật thể. Một texture thường được miêu tả là mịn hay gồ ghề, mềm hay cứng, thô hay bóng, v.v…

Phân loại textured art

Texture có thể được chia làm 2 loại là tactile texture và visual texture.

Tactile texture

Tactile nghĩa là chạm vào. Tactile texture là sự gồ ghề (3D) cho một bề mặt mà khi chạm vào ta có thể cảm thấy được. Điều này vô cùng quan trọng đối với thiết kế 3D nhưng lại chỉ được quan tâm ở mức vừa phải trong thiết kế 2D. Texture bề mặt thực cần được cảm nhận, hay nhìn thấy bằng cách để ánh sáng chiếu trên bề mặt của nó. Các họa sĩ thường tận dụng lợi thế này làm cho bề mặt tranh của họ trông sống động hơn. Các lớp sơn có thể được đắp đè lên nhau tạo thành những đỉnh gồ ghề, kỹ thuật này được gọi là Impasto. Vincent van Gogh là một họa sĩ nổi tiếng với kỹ thuật này. Một số họa sĩ thì rắc cát lên bức tranh của mình để làm cho bức tranh có tactile texture

Tactile texture là cảm giác hữu hình ngay tức thì khi chạm vào bề mặt vật thể. Ví dụ điển hình là giấy. Cảm nhận và trọng lượng của giấy có thể ảnh hưởng lớn đến cảm nhận của một thiết kế, khiến cho việc lựa chọn của nhà thiết kế trở thành một quyết định cốt yếu. Những tấm card visit hay những brochure quảng cáo thường là loại giấy nặng và có thể nói là chuyên nghiệp hơn những giấy có trọng lượng nhẹ hơn. Một mẩu quảng cáo trên giấy in bình thường có thể không giá trị bằng, nhưng nó cũng có thể đem lại hiệu quả cho một chiến dịch cấp nhỏ.

Visual texture

Visual texture là ấn tượng có thể nhìn thấy mà texture mang lại cho người xem, ví dụ màu sắc, xu hướng và mật độ trong một bức ảnh. Nó còn là ấn tượng của texture do nghệ sĩ tạo ra bằng cách cố gắng tái tạo màu sắc và giá trị của các texture thực.

Texture có thể được đánh giá qua phong cách thiết kế. Các lớp văn bản, các hình dạng, đường kẻ có thể mang đến cảm giác texture ở trên giấy hay trên màn hình. Nhiếp ảnh, minh họa và vẽ kết hợp với các yếu tố đồ họa cũng có thể tạo nên diện mạo của texture. Thông thường, các bức ảnh của một bề mặt thật ví dụ như giấy, thường được dùng làm nền trong một thiết kế và phần mềm thiết kế Photoshop có thể thử nghiệm với các layer và visual texture một cách dễ dàng. Visual texture liên quan đến những ảo ảnh của kết cấu bề mặt. Đó chính là hình dạng của tactile texture (trên bề mặt 2D)

Những texture mà bạn nhìn thấy trong một bức ảnh chính là visual texture. Bất kể vật thể đó gồ ghề như thế nào, thì bề mặt của bức ảnh vẫn mịn và phẳng.

Cả tactile texture và visual texture đều quan trọng đối với nhà thiết kế, nhưng trong nghệ thuật 2D, thì visual texture được sử dụng nhiều hơn so với tactile texture.

Niềm đam mê textured art của một nhóm bạn trẻ

Để hiểu rõ hơn về niềm đam mê textured art trong giới trẻ, Bookish đã có cuộc trao đổi với bạn Minh Huyền – đại diện của Be Me art.

Minh Huyền – đại diện của Be Me art

Be Me art là một dự án nghệ thuật mới được thành lập của hai bạn trẻ yêu thích hội họa. Với tiêu chí muốn lan tỏa vẻ đẹp của hội họa đến với nhiều người hơn, Be Me art chuyên tổ chức những workshop, artwork, các hoạt động liên quan đến nghệ thuật khác.

Lĩnh hội được vẻ đẹp của tranh texture, Be Me art sẽ tổ chức workshop “Vòm” để cung cấp những kiến thức về chất liệu tranh texture; đồng thời, hướng dẫn để người tham dự có thể tự tay làm những thành phẩm mang về trang trí cho căn phòng của mình.

Chào Huyền, vì sao bạn lại có niềm đam mê đặc biệt với textured art mà không phải là bất cứ thể loại mĩ thuật nào khác?

Ở thể loại tranh textured art này, chúng mình có thể khám phá được rất nhiều điều thú vị và mới lạ mà các thể loại tranh khác không có được. Bởi vì khác với thể loại tranh khác, textured art không có giới hạn về chất liệu cũng như cách thể hiện, mỗi người nghệ sĩ đều có thể thỏa sức sáng tạo ra một chất liệu mới cho tranh của mình. Và đúng với bản chất của người làm nghệ thuật, chúng mình không muốn có bất kỳ giới hạn nào được đặt ra trong việc sáng tạo nghệ thuật cả. Thế nên, textured art rất phù hợp với chúng mình, đó là lý do chúng mình đam mê thể loại tranh này.

Khi thực hiện một bức tranh textured art, công đoạn nào khiến bạn thích thú nhất và công đoạn nào khiến bạn cảm thấy khó khăn nhất?

Công đoạn thú vị nhất đó là khi chúng mình dùng các dụng cụ tạo hình để tạo texture trên nền tranh, lúc đó là lúc chúng mình chill nhất vì hoàn toàn có thể thử nhiều lần khác nhau để có thể cho ra được bố cục và đường nét vừa ý nhất mà không sợ sai, vì nếu sai thì chỉ việc quét lại lớp nền làm lại là được, miễn là nó chưa khô.

Công đoạn chúng mình thấy khó khăn nhất đó là khi quét lớp nền đầu tiên, hơi khó để có thể quét lớp nền đều nhau mà không bị chỗ dày chỗ mỏng, và nếu lớp nền không đều, đến lúc tạo hình đường nét sẽ không được đẹp.

Textured art được tạo ra chủ yếu dựa trên cảm nhận xúc giác về bề mặt của một vật chất hữu hình nào đó. Như vậy, khi cần diễn tả một cảm xúc trừu tượng, thiên về mặt ý thức nhiều hơn thì nếu lựa chọn dùng textured art để thể hiện, bạn có gặp khó khăn nào không hay lúc đó bạn sẽ thể hiện bằng một dạng tranh khác?

Textured art là một thể loại tranh không hề bị giới hạn bởi chất liệu hay cách thể hiện, chúng ta hoàn toàn có thể diễn tả cảm xúc bằng tranh textured art. Bên cạnh việc thể hiện tranh bằng cách tạo ra những cảm nhận xúc giác, textured art còn có thể kết hợp với lối vẽ truyền thống là dùng cọ và màu, điều đó chắc chắn sẽ khiến tranh textured art mang lại nhiều cảm xúc hơn những loại tranh thông thường vì ngoài cảm nhận xúc giác còn có cảm nhận thị giác nữa.

Tại sao workshop đầu tiên của Be Me art lại lấy chủ đề “Vòm” khi có rất nhiều hình tượng khác có thể dùng để thể hiện trong textured art? Hình tượng “Vòm” có một ý nghĩa đặc biệt nào với bạn không?

“Vòm” là hình ảnh đầu tiên về textured art mà chúng mình biết. Từ những đường cong tưởng chừng đơn giản ấy lại có sức hút mãnh liệt khiến chúng mình muốn tìm tòi và khám phá nó. Thể loại tranh chúng mình đang hướng tới là thể loại tranh chuyên dùng để trang trí nội thất, nhà cửa. “Vòm” lại là một hình ảnh rất dễ liên tưởng đến các khung cửa (cửa nhà, cửa sổ); hình ảnh một đường cong an toàn và vững chãi hoàn toàn phù hợp với những bức tranh sẽ được đặt trong nhà.

Trong phong thủy nội thất, Vòm là hình tượng mang tính động: sinh động, linh động. Đó là những thứ chúng mình hướng đến không chỉ trong thời điểm hiện tại mà trong tương lai, không ngừng chuyển động và tiến về phía trước. Cộng thêm sự tối giản mà “Vòm” mang lại rất dễ phối hợp với các hình ảnh khác, nên chúng mình đã quyết định lấy “Vòm” làm chủ đề cho workshop đầu tiên này!

Định hướng của Be Me art trong tương lai là sẽ tập trung những hoạt động liên quan đến textured art thôi hay bạn còn muốn hướng đến loại hình mĩ thuật nào khác không?

Định hướng của Be Me là sẽ tiếp tục tìm tòi và khám phá tất cả các khía cạnh của tranh texture. Bên cạnh đó, chúng mình còn đang ấp ủ nhiều dự án mới như thiết kế sticker, postcard, handmade pin, v.v… dựa trên chất liệu cuộc sống do chính chúng mình tự sáng tạo. Đồng thời, Be Me muốn tạo một cộng đồng nghệ thuật, nơi mà ở đó chúng mình muốn cống hiến cảm hứng nghệ thuật của mình đến công chúng, và là nơi để Be Me góp phần xây dựng và mang lại những giá trị về cái đẹp đến cộng đồng, tất cả những gì chúng mình đang thực hiện đều hướng đến mục tiêu đó.

Thông tin về  “Vòm” – Textured Art workshop

  • Thời gian: 2PM – 5PM, Chủ Nhật 21/05/2023 (tranh Bình hoa) hoặc Chủ Nhật 28/05/2023 (tranh Cây dừa)
  • Địa điểm: With’ Coffee and More – 386/71E Lê Văn Sỹ, Phường 14, Quận 3, TP.HCM
  • Số lượng người tham gia: tối đa 6 người.
  • Đăng kí tham gia: https://bit.ly/vom_workshop

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng