Phía sau trang sách

Tanizaki Jun’ichiro: Sức hấp dẫn chết người

Mitsuko, đối tượng ngưỡng vọng trong tiểu thuyết “Chữ Vạn” năm 1928-1930 của Tanizaki cũng có sức mê hoặc tương tự đối với người yêu đồng tính của nàng và cả chồng của người yêu, đến nỗi họ khao khát được chết vì nàng.

Published

on

FATAL ATTRACTIONS
Ian Buruma

Tanizaki Jun’ichiro (1886-1965) là người tôn thờ phụ nữ. Ông tôn thờ mẹ mình; ông thờ phụng Quan Âm, vị Bồ tát từ bi của Phật giáo, và người vợ thứ ba Matsuko, và có lẽ nhiều phụ nữ khác nữa. Đàn ông trong tiểu thuyết của ông có khi còn cực đoan hơn kẻ tạo tác họ trong việc tôn thờ nữ giới. Một số còn mong được gót chân ngà ngọc của thần tượng giẫm lên. Một số khác, như Heiju, một nhân vật trong tiểu thuyết ngắn 1949-1950 Captain Shigemoto’s Mother (tạm dịch Mẹ của thuyền trưởng Shigemoto), chất thải của người yêu họ giống như mùi hương trầm tuyệt hảo nhất. Mitsuko, đối tượng ngưỡng vọng trong tiểu thuyết Chữ Vạn năm 1928-1930 của Tanizaki cũng có sức mê hoặc tương tự đối với người yêu đồng tính của nàng và cả chồng của người yêu, đến nỗi họ khao khát được chết vì nàng.

Những nữ thần của Tanizaki thường độc ác, và đôi khi hơi sỗ sàng để thêm phong vị. Trong tiểu thuyết ngắn Người cắt lau (1932), một chàng trai tường thuật câu chuyện về tình yêu cha mình dành cho góa phụ được sủng ái và bất khả với tới là Oyu, người bịt mũi miệng ông bằng đôi tay xinh đẹp, cấm ông thở cho đến khi được phép. Nàng cũng thích véo khắp người ông. Và nàng yêu cầu được gọi là Phu nhân Oyu. Tiểu thuyết ngắn này bắt đầu với suy tư của tác giả về những kỹ nữ nổi tiếng thời Heian (794-1185), những người lấy nghệ danh là tên các nữ Bồ tát Phật giáo. Tôn giáo và ám ảnh tình dục có liên hệ chặt chẽ trong toàn bộ tiểu thuyết của Tanizaki.

Howard Hibbett, dịch giả của Chữ Vạn, từng viết trên một tạp chí Nhật Bản rằng các chủ đề thường trực của Tanizaki là tình dục tự hủy và hình tượng hai mặt của phụ nữ, khi vừa là nữ thần vừa là ác quỷ. Trong bài này, Hibbett viết, ta tìm thấy “những bản chất tâm lý vượt qua sự khác biệt văn hóa”. Đây là sự tôn vinh những đóng góp của Tanizaki trên cương vị một nhà văn, và đối với Hibbett từ góc nhìn của một dịch giả thì những đặc trưng này vẫn được duy trì ở mức đủ khiến cho Chữ Vạn trở thành trải nghiệm đọc thú vị, dù thực tế là giọng điệu độc đáo đã bị mất hoàn toàn trong quá trình chuyển ngữ sang tiếng Anh.

Đây không phải là lỗi của ngài Hibbett. Bởi vì phương ngữ Osaka thuộc tầng lớp thượng lưu dùng để kể câu chuyện về Mitsuko và những người tôn thờ nàng gồm có Watanuki bất lực và vợ chồng nhà Kakiuchi, vốn không thể truyền tải hết trong tiếng Anh. Kỹ thuật kể chuyện dựa trên lối trần thuật trực tiếp, trong trường hợp này là từ lời của Sonoko, vốn là thứ Tanizaki ưa thích khi trưởng thành sau khi chuyển đến vùng Osaka, vì ông yêu thích nhịp điệu trầm bổng của phương ngữ Kansai, đặc biệt là qua giọng nói của phụ nữ. Sonoko kể chuyện đời mình cho tác giả, tự thay đổi giọng điệu theo các nhân vật trong câu chuyện thông qua cái cách gợi ta nhớ đến những người kể chuyện truyền thống của Nhật Bản. Điều này cho thấy sự quan tâm ngày càng gia tăng của Tanizaki đối với văn hóa truyền thống Nhật Bản, sau khi dành nhiều năm theo đuổi văn hóa phương Tây.

Bản thân câu chuyện là xuyên văn hóa, như ngài Hibbett đã nêu trên, dù mối quan tâm khôn cưỡng về việc chung thủy cho đến chết vốn là chủ đề xuất hiện thường xuyên trong văn học Nhật Bản tiền hiện đại. Cuộc trao đổi giữa Sonoko và Mitsuko với cam nguyện chết cùng nhau (“Ừ, được, chị sẽ chết cùng em! Có thực là em sẽ chết cùng chị không, Mitsu?”), có thể thấy xuất hiện trong một cuốn tiểu thuyết thế kỷ 18, hoặc từ một bài hát trữ tình Nhật Bản đương đại. Lời thề này có vẻ hơi trịnh trọng trong tiếng Anh, nhưng lại khá thông thường trong văn hóa Nhật. Sự ủy mị này là tự nhiên trong một xã hội mà các quy tắc vốn dành rất ít không gian cho tình yêu lãng mạn. Ngày xưa, ngoại tình (bên ngoài các khu nhà thổ) có thể bị trừng phạt bằng án tử, vì vậy việc tình nguyện chết trở thành phép thử cuối cùng của lòng chung thủy. Trong tiểu thuyết của Tanizaki, nó cũng là hình thức tối cao của khoái cảm nhục dục.

Đó chính là vũng cát lún mà tựa đề tiếng Anh của tiểu thuyết của Tanizaki (Quicksand) đề cập đến. Tất cả những người dự phần vào mối tình tay tư (tựa đề tiếng Nhật, ManjiVạn tự – đề cập đến chữ Vạn có bốn trục trong Phật giáo) được vẽ thành một vũng lầy của sự lừa dối và ghen tuông. Đối tượng được mọi người ngưỡng vọng là Mitsuko, nhưng bản thân nàng là thần tượng cũng phải phụ thuộc những người tôn thờ nàng như chính họ phụ thuộc nàng. Nàng sống để được ngưỡng mộ. Và mọi thứ hoàn toàn hợp lí khi người chồng đa tình và người vợ đa cảm cùng giao ước chết chung với Mitsuko, có một bức chân dung của nữ Bồ tát từ bi của Phật giáo được treo trên giường. Sau sự kiện này, Mitsuko và chồng của Sonoko là Kotaro qua đời, còn Sonoko vẫn sống sót và kể lại câu chuyện. Tước bỏ phần độc dược trong bột thuốc ngủ cho cô uống có lẽ là sự lừa dối cuối cùng của họ.

Một số tác phẩm của Tanizaki Jun’ichiro đã được dịch sang tiếng Việt

Ám ảnh nhục dục cũng là chủ đề của hai truyện dài Người cắt lauCaptain Shigemoto’s Mother, được Anthony H. Chambers dịch thành một tuyển tập. Trong cả hai câu chuyện, Tanizaki đã trở thành chuyên gia sành sỏi về truyền thống Nhật Bản. Khi ông viết Captain Shigemoto’s Mother vào cuối những năm 1940, xem như Tanizaki đã hoàn thành một phiên bản Nhật ngữ hiện đại cho tác phẩm kinh điển thế kỷ thứ 11 Truyện Genji. Captain Shigemoto’s Mother là một nỗ lực tài tình và dí dỏm nhằm tái hiện lại sự sống động của thế giới quý tộc thời trung cổ, với tất cả những nghi lễ và thứ bậc quan triều khôn dò. Nếu tác phẩm này dễ cảm thấu bằng tiếng Anh hơn Chữ Vạn, thì nguyên nhân không chỉ vì bản dịch của Chambers vốn hay. Thời Heian hầu như cũng xa xôi với người Nhật hiện thời không khác gì người Mỹ đương đại. Do vậy, hiểu theo nghĩa nào đó, chính bản thân câu chuyện của Tanizaki đã là một dạng dịch thuật.

Câu chuyện được kể trong một mớ hỗn độn kỳ lạ của trích dẫn văn học – Tanizaki trong vỏ bọc của một học giả văn học thông thái rởm – và những tưởng tượng không thể nhầm lẫn của riêng Tanizaki. Điều tương tự cũng đúng với Người cắt lau, trong đó người kể chuyện xuất hiện và sau biến mất một cách bí ẩn như con ma trong vở kịch Noh. Cả hai câu chuyện bắt đầu với những câu chuyện về tình yêu dục tính. Trong Người cắt lau, một người lạ mặt nói về tình yêu của người cha dành cho góa phụ, Phu nhân Oyu, người sẽ không “phản bội” người chồng quá cố của mình và tái hôn. Vì vậy, người cha kết hôn với em gái của Phu nhân, chỉ để gần gũi với Oyu, nhưng từ chối động phòng với vợ để bảo toàn lòng trung trinh với nữ thần của mình. Chỉ sau khi Oyu cuối cùng đồng ý kết hôn với một quý ông giàu có, người cha mới quay trở sang vợ của mình, người mang cho ông ta một đứa con trai. Người con trai trưởng thành này, cũng chính là người kể chuyện, hiện đang trên đường nghe Oyu chơi nhạc tại biệt thự của cô trong quãng thời gian trăng tròn. Khi tác giả bày tỏ sự ngạc nhiên, vì theo tính toán của mình, Oyu phải ít nhất 80 tuổi, người kể chuyện đã biến mất, “như thể anh ta đã hòa tan vào ánh trăng.”

Đằng sau nữ thần tình yêu, trong nhiều câu chuyện Tanizaki, là nữ thần kính yêu nhất trong tất cả: người mẹ. Mẹ của thuyền trưởng Shigemoto là một người đẹp tuyệt trần trong thế kỷ thứ chín, được gọi là quý bà Ariwara. Cha ông là Fujiwara Kunitsune. Kunitsune tôn thờ vợ mình như một báu vật, nhưng ông là một lão già không còn có thể thỏa mãn nhu cầu của bà. Và ông bị lừa giao bà cho cháu trai của mình, Fujiwara Tokihira, một kẻ trác táng vô đạo đức và là người đàn ông quyền lực nhất ở độ tuổi của hắn. Quý bà Ariwara có một người theo đuổi khác, người lợi dụng cậu con trai nhỏ của bà làm trung gian, bằng cách viết những bài thơ tình trên cánh tay của cậu bé. Bà không thể đáp lại tình yêu của anh, và khóc. Cậu bé cảm nhận được sự mát lạnh của những giọt nước mắt trên má khi bà ôm lấy cậu. Shigemoto không còn được phép đến thăm mẹ mình, nhưng ông không thể quên vẻ đẹp và mùi thơm ngọt ngào trên chiếc áo kimono của bà.

Ký ức về mẹ ông mạnh mẽ đến mức ông từ chối gặp mẹ, khi có thể, nhiều năm sau đó: “Dường như Shigemoto muốn tiếp tục ngưỡng mộ mẹ mình như cái cách ông đã thấy mẹ trong thời thơ ấu.” Nhưng rồi, vào một đêm mùa xuân, đi bộ dưới ánh trăng rọi xuyên qua những bông hoa, ông thấy một nữ tu già và ông nhận ra bà ngay lập tức: “Hương thơm trong tay áo choàng đen của bà gợi lại cho ông mùi hương còn vương vấn từ lâu, và giống như một đứa trẻ được bảo bọc trong tình yêu của mẹ, ông đã lau nước mắt hết lần này đến lần khác bằng tay áo của bà.”

MỘT SỰ CĂM THÙ MÃNH LIỆT

“Tôi chưa bao giờ biết ai lạnh lùng như vậy! Chẳng phải chúng ta đã hứa sẽ không giấu bất cứ điều gì với nhau sao? Nói dối!”

Tại thời điểm đó tôi chắc chắn rằng tôi đã có vẻ đã bị ám… Tôi đang lườm cô, nhợt nhạt và run rẩy như thể tôi thực sự phát điên lên. Và bản thân Mitsuko run rẩy khi cô lặng lẽ nhìn chằm chằm vào mắt tôi… Tôi cảm thấy có chút thương hại cho cô, nhưng khi tôi nhìn thoáng qua đôi vai trắng đầy đặn của cô qua tấm vải rách tôi muốn xé nó ra một cách dữ dội. Bây giờ tôi thực sự điên cuồng và bắt đầu tước tấm vải ra khỏi cơ thể cô. Đối diện với sự cương quyết của tôi, Mitsuko dường như đang run sợ. Cô không nói gì và để tôi làm theo ý mình. Chúng tôi nhìn chằm chằm vào mắt nhau với một sự căm thù mãnh liệt. Rồi một nụ cười cuối cùng cũng hiện diện trên mặt tôi – một nụ cười đắc thắng, lạnh lùng – đọng trên môi tôi khi tôi lột bỏ phần vải còn lại…

“A, thật điên rồ!” Tôi khóc, nước mắt chảy dài trên má. “Một cơ thể đẹp như vậy! Tôi có thể giết cô!” Khi tôi nói, tôi nắm chặt cổ tay run rẩy của cô ấy bằng một tay và tay kia kéo khuôn mặt cô ấy lại gần khi tôi đưa môi về phía nó.

Đột nhiên tôi nghe thấy Mitsuko khóc thét. “Tới đây và giết tôi! Tôi muốn ông làm vậy!”

Trích từ Chữ Vạn.

Hết.

Theo Tao Đàn

Bài viết gốc được thực hiện bởi Ian Buruma, đăng trên tờ The New York Times.

*

Tìm hiểu về tác giả Tanizaki Junichiro



Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng