Phía sau trang sách

Rung cảm đầu đời: Tấm vé trở về tuổi thơ

Published

on

Tuổi thơ là một phần không thể thiếu trong trái tim của mỗi con người. Khi người lớn nhớ về tuổi thơ, một mặt vì nó chứa đựng nhiều khoảng trời đẹp đẽ, mặt khác là vì nhớ về sự đơn thuần, trong trẻo mà tự nhiên ban tặng cho mỗi đứa trẻ khi vừa đến với thế giới này. Tập thơ Rung cảm đầu đời cũng có thể được nhìn nhận như vậy. Trong tác phẩm, có những bài thơ tràn trề niềm vui thích, chan chứa tình thân hữu, và cũng có lúc bộc bạch cảm giác tủi thân, đau lòng của một cậu bé tuổi còn cắp sách đến trường. Tập thơ còn đặc biệt vì nó được ra đời qua chính lăng kính của cậu bé, lúc cậu lớp Ba, Bốn, Năm,…đến lớp Chín. Nhờ vậy mà chúng chẳng hề vướng bận gì những suy tư phức tạp của đời sống, chỉ có những cảm xúc đến-đi tự nhiên và chân phương.

Đây là tập thơ gồm 50 bài thơ do bé Lê Quốc Triều sáng tác chép tay khi em còn ngồi trên ghế nhà trường. Những bài thơ là tiếng lòng đôi khi suy tư, đôi khi trắc ẩn, mà cũng lắm lúc nghịch ngợm của em dành cho những gì đã diễn ra xung quanh cuộc sống hằng ngày của mình. Lê Quốc Triều là tên trước khi xuất gia của thiền sư Minh Niệm. Thông qua tập thơ, những ai dành sự quan tâm đến thầy, đã có thể tự hình dung về tuổi thơ của một vị thiền sư tương lai cũng như có thêm một mảnh ghép về cuộc đời tu hành của thầy. Lần này, thầy lan tỏa đến độc giả tinh thần sống sâu sắc, sống “thiền” bằng câu chuyện thiếu nhi của mình, khi mà còn chưa biết đến thiền là gì.

bánh cam giòn thơm phức
nhân đậu tráng nước đường
nhìn là thèm muốn chết
nước dãi kìm xém buông

đội bánh đi khắp xóm
trưa hè nắng rưng rưng
vừa rao hàng vừa hát
bà con thấy mà thương
bữa nọ mưa giội xuống
ôm rổ bánh phi mau
lạy trời cho khỏi ướt
thôi…còn gì nữa đâu

giọt đường thi nhau chảy
nước mắt cũng rơi theo
lấy tiền đâu đi học
có ai biết nhà nghèo
nửa đêm con ngủ mớ
rao sang sảng bánh cam
xuống nửa câu vọng cổ
… sá gì đời gian nan

(sáng tác năm lớp 5)

Những vần thơ bình dị đơn thuần chạm vào lòng người

Có lẽ người đọc phải bất ngờ vì ở độ tuổi thiếu nhi, bé Lê Quốc Triều lại có thể ngâm ra những bài thơ có vần có điệu, có văn phong tính cách, có thể biểu đạt một tâm hồn suy tư thú vị mà lại không cần trau chuốt, không hoa mỹ. Đó là sự hoạt ngôn, sáng tạo, là sự tài tình trong chọn lọc từ ngữ biểu đạt nhưng vẫn giữ được nét bình dị của văn hóa miền quê Nam Bộ. Có nhiều đoạn thấy sao mà văn thơ diễn đạt tốt đến vậy, “trăng lên cao nửa mảnh/bóng ngà đổ ra sân”, hay “sáng nay lòng sắt đá/chiều nay dạ thấm mềm”. Thể thơ đa dạng, từ thơ bốn chữ, thơ năm chữ, đến thơ lục bát, sáu chữ, tám chữ. Hầu như mọi bài thơ đều có mở bài, thân bài, kết bài kèm với dẫn dắt giúp độc giả hiểu được nội dung và bối cảnh câu chuyện. Chúng không phải là những lời tản mạn, bâng quơ. Chúng là những câu chuyện được kể bằng các khổ thơ. Một điểm sáng của Rung cảm đầu đời là được minh họa bởi những trang sách màu cuốn hút, hình ảnh được in tràn qua các bài thơ. Nhân vật cậu bé Lê Quốc Triều cùng với những người thân hữu cũng được phác họa nhiều sức sống, có biểu cảm riêng biệt được thể hiện trong từng mẩu chuyện.

Và có lẽ người đọc còn phải bất ngờ hơn vì ở độ tuổi thiếu nhi, bé Lê Quốc Triều lại có thể tiếp xúc sâu sắc với đời sống như vậy. Những bài thơ chạm vào lòng người vì những niềm vui nho nhỏ, những thắc mắc, hay nỗi niềm suy tư tưởng chừng như chẳng có gì đáng lưu tâm, lại được em nhận diện, gọi tên, truyền đi thật nhiều sức sống. Nhờ vậy mà một cách tình cờ, bài thơ như một lời nhắc nhở nho nhỏ rằng hãy thử quan tâm đến những cảm xúc cỏn con trong lòng mình xem, hóa ra chúng cũng thật sinh động và thi vị. 

Nếu diễn đạt theo lối tu học, thì em đang sống rất “thiền”, em có khả năng tiếp xúc sâu trong mỗi hoạt động của cuộc sống, có thể đơn thuần nhận diện mà gọi tên. Mọi trường lớp về thiền tập, có lẽ cũng chỉ mong muốn người lớn có thể sống sâu sắc đến vậy thôi. Vậy nên dù là ai trong tâm thế hối hả của guồng quay đời sống, thử ngồi xuống giở trang sách ra và từ khi nào không biết, ta thấy hơi thở của mình cũng chuyển động nhẹ nhàng, chậm rãi dõi theo từng nhịp thơ.

Cảm ơn đất trời đã ưu ái ban tặng cho tôi trái tim nhạy cảm để nhìn thấy được nhiều góc cạnh tuyệt vời của đời sống, và có khả năng lưu giữ tất cả chúng bằng những vần thơ. Cảm ơn quý vị đã bước vào khung trời tuổi thơ của tôi, để cùng được đánh thức những ký ức êm đềm và ngọt ngào của những ngày đầu tiên chúng ta đến với cuộc đời này.

Sống thuận theo dòng chảy yêu thương của đất trời

Nhìn sâu vào một quyển sách yêu thích như là cơ hội nhìn sâu vào chính mình. Có lẽ chúng ta chỉ ao ước phải chi cũng có thể từng nhận ra những điều sâu sắc tồn tại trong thời thơ ấu, để thấy rằng bản thân mình cũng có cái gì để nương tựa, để tin tưởng, để cắm rễ sâu mỗi khi chao đảo giữa đời sống. Nếu chọn sống thuận theo bản năng yêu thương tự nhiên ngay từ đầu, chúng ta sẽ nhận ra cũng có cả thế giới phong phú đáng quý bên trong mình chứ? Sự đáng quý ấy từ Rung Cảm Đầu Đời, là những đoạn thể hiện thái độ sống biết ơn, trân trọng cuộc đời cũng như tinh thần bình đẳng, bác ái giàu lòng trắc ẩn của bé Lê Quốc Triều. Em có lẽ cũng chỉ làm theo, học hỏi từ cha mẹ, từ anh em, bằng hữu, từ ông bà và từ những gì mà em quan sát được. Những dòng thơ phản ánh về em, là dù có cuộc sống không được sung túc về mặt vật chất, nhưng vẫn có thể làm chủ được mình và sống thật giàu tình cảm. Nếu mọi em bé đều có thể trưởng thành với lối sống kiên định như vậy, có lẽ xã hội người lớn sau này sẽ có thêm rất nhiều bình an.

vui sao trào nước mắt
khi để em vào thùng
thấy em cứ vẫy vùng
mà lòng anh tan nát

nhà anh nghèo xơ xác
cha kẹt chốn lao lung
thằng em nó gầy xương
anh Hai vào đời sớm
vừa bước qua rẫy mướp
biết em đã đớp mồi
anh đứng lặng một hồi
đâu còn đường nào khác

chắc là em chua chát
nguyền rủa anh cũng cam
ăn chay mà nhẫn tâm
biết nói sao em hiểu
kiếp này anh xin thiếu
đền trả lại kiếp sau
nếu không tìm thấy nhau
anh sẽ đền kẻ khác

ngày mai nhà khấm khá
có điều kiện ăn chay
anh không phải ra tay
gây oán cừu loài cá
(sáng tác năm lớp 4)

Một góc nhìn khác của Rung cảm đầu đời là người đọc có thể nắm bắt trọn mọi cảm xúc của những vần thơ vì sự đơn thuần và bản năng thấu hiểu đối với con trẻ. Đó cũng trở thành điều may mắn vì có vẻ ta sẽ học được bài học gì đó sau mỗi lần có cơ hội nhìn về tuổi thơ. Bài thơ Xin lỗi em cá lóc chứa rất nhiều cảm xúc và chúng tranh đấu, cắt cớ với nhau. Nó là lẽ tự nhiên mỗi khi con người ta buộc phải làm điều gì nhẫn tâm. Hãy nhìn qua từng đoạn và ta sẽ thấy nó được bộc bạch một cách tự nhiên như thế nào và nhờ vậy, những vần thơ chẳng có từ vựng chuyên môn, học thuật hay đạo đức đã giúp mình hiểu được tâm trạng của người chắp bút, rồi tự nhiên liên hệ đến những sự việc trong đời sống cá nhân và chạm vào hạt giống mang tên lòng trắc ẩn. Sức lan tỏa tự nhiên của quyển sách nằm ở đây.

Tin chắc rằng nếu có thể ghi chép lại mọi thứ, thì mỗi người chúng ta đều có thể nhớ về mình như một bản thể phong phú như vậy. Vì đó là một điều hết sức tự nhiên của mỗi đứa trẻ khi đón nhận sự xoay chuyển đa dạng của vũ trụ. Lúc đó ta chỉ cần gọi tên, giống như bé Lê Quốc Triều soạn thơ, thay vì gắn mác, phớt lờ hay trốn tránh. Vậy thì ta sẽ giữ mãi được lăng kính không màu để nhìn đời, để sống thuận hòa và tri túc với những bản năng yêu thương mà đất trời ban tặng. Có nhiều bài thơ như lời nhắc nhở rằng hãy để trái tim đồng cảm của ta vận hành theo lối tự nhiên của nó. Hãy dừng lại một chút, im lặng, ghi nhận, để tình yêu thương không phân biệt của mình có cơ hội được hồi sinh và nảy nở.

Kết

Bên cạnh các quyển sách cung cấp thật nhiều kiến thức chữa lành, cũng có những quyển sách nhẹ nhàng đi vào bên trong chúng ta rồi đánh thức miền ký ức “rung cảm đầu đời” đang bị che lấp, giúp ta chợt nhớ thì ra bên trong mình cũng còn tồn tại các hạt giống tuổi thơ tươi đẹp, hạnh phúc và vẫn còn có khả năng đâm chồi nảy lộc dù thời gian đã trôi qua ít nhiều. Đối với người lớn, tác phẩm là chiếc bè chở họ về suối nguồn của hạnh phúc dung dị thuở ban sơ. Đối với trẻ con, quyển sách lại là một chiếc gương phản chiếu những điều đẹp đẽ quý giá vốn dĩ vẫn đang hiển hiện xung quanh quãng đời trưởng thành của chúng. Xin gửi lời tri ân vị tác gia, và lòng biết ơn vì thiên thời địa lợi nhân hòa để tác phẩm ra đời đúng vào dịp đại chúng phải trải qua nhiều dao động, thiên biến; vào giai đoạn trẻ nhỏ đang dần mất đi kết nối với tự nhiên, dễ thu mình lại với cái tôi ngày càng to lớn. 

Hết.

Anh Đào

Phía sau trang sách

Có một thời ở Chợ Lớn: Những gam màu ký ức

Published

on

Có một thời ở Chợ Lớn là một trong hai tác phẩm mới nhất của nhà báo Phạm Công Luận do Phương Nam Book liên kết xuất bản dịp năm mới Ất Tỵ 2025. Chỉ một thời gian ngắn sau khi phát hành, sách sớm nhận được tình cảm của độc giả và lọt vào top sách bán chạy trong tuần tại Nhà Sách Phương Nam. Bên cạnh bản thân tác giả Phạm Công Luận, góp phần vào sự thành công của Có một thời ở Chợ Lớn không thể không kể đến họa sĩ Phạm Công Tâm với nhiều hình ảnh minh họa đẹp và đầy tinh tế, cũng như đội ngũ Phương Nam Book đã biên tập, thiết kế nhằm đưa tác phẩm đến tay độc giả theo cách chỉn chu nhất.

Chịu trách nhiệm thiết kế bìa và trình bày sách Có một thời ở Chợ Lớn là họa sĩ t.hờ. Trong bài phỏng vấn hôm nay, Bookish sẽ cùng anh t.hờ chia sẻ với bạn đọc về quá trình "lên đồ" cho Có một thời ở Chợ Lớn cũng như những câu chuyện bên lề thú vị trong quá trình sản xuất cuốn sách này.

  • Bookish: Anh có thể chia sẻ điều gì đã dẫn đến quyết định lựa chọn hình ảnh chùa Ôn Lăng và chợ Bình Tây làm ảnh bìa sách ở 2 phiên bản bìa mềm và bìa cứng?

Họa sĩ t.hờ: Nhắc đến Chợ Lớn, chắc hẳn 9 trên 10 người trong chúng ta sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh của chùa bà Ôn Lăng và chợ Bình Tây – hai công trình kiến trúc đặc trưng nhất của mảnh đất Chợ Lớn Sài Thành.

Đối với chùa bà Ôn Lăng, đây có thể coi là công trình mang đậm nét đặc trưng của kiến trúc Trung Hoa nhất giữa lòng Sài Gòn. Không chỉ là nơi chiêm bái của người dân địa phương và du khách gần xa, chùa bà Ôn Lăng còn là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa và tôn giáo như lễ hội Đoan Ngọ, lễ hội Trung Thu, lễ hội Thanh Minh, lễ hội Tết Nguyên Đán,… Chùa bà Ôn Lăng là một trong những ngôi chùa có ý nghĩa lịch sử và văn hóa quan trọng của Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và mảnh đất Chợ Lớn nói riêng.

Còn về chợ Bình Tây, đây không chỉ là một ngôi chợ sở hữu lối kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ấn văn hoá Á Đông của người châu Á ở đất Sài Thành, mà còn là nơi được biết tới là nơi trao đổi đồ cổ và buôn bán sỉ lớn nhất của người dân gốc Hoa ở Chợ Lớn. Dù hiện tại chợ Bình Tây đã có nhiều sự thay đổi về cơ sở hạ tầng nhưng những giá trị tinh thần, lịch sử và văn hoá vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay.

Chính vì lẽ đó, chùa bà Ông Lăng và chợ Bình Tây đã được mình chọn lựa để đưa lên 2 phiên bản bìa của Có một thời ở Chợ Lớn.

  • 2 ấn bản bìa mềm và bìa cứng có sự khác biệt gì về hình ảnh minh họa trong sách không?

Để đảm bảo sự chính xác về thông tin của các bài viết thì phần hình ảnh và nội dung bên trong của 2 phiên bản không có gì thay đổi.

  • Liệu có ẩn ý nào phía sau việc sử dụng 2 tông màu nóng - lạnh cho 2 phiên bản bìa sách?

Nhắc đến Chợ Lớn, người ta sẽ nghĩ ngay đến những tone màu rực rỡ như chính sắc màu chủ đạo trong cuộc sống của người dân nơi này – màu đỏ rực của những chiếc đèn lồng gốc Hoa, màu đỏ thẫm của những lớp mái ngói vươn màu thời gian hay màu đỏ tươi của những chú lân trong các lễ hội,… Bên cạnh đó, ta không thể không nhắc tới sắc vàng của những bức tường vững chải chạy dọc các con phố, của những món đồ trang trí bóng bẩy mỗi dịp Tết đến xuân về.

Thế nhưng, không vì thế mà Chợ Lớn vắng đi những phút giây lắng đọng. Dạo quanh Chợ Lớn, người ta vẫn có thể dễ dàng bắt gặp những tòa chung cư lâu đời trên đại lộ Trần Hưng Đạo hay từ chính trong nét kiến trúc phương Đông được tạo nên từ kỹ thuật xây dựng của Tây phương trong lối kiến trúc độc đáo của ngôi chợ Bình Tây xuất hiện trên bản bìa mềm.

  • Có câu chuyện ngoài lề nào thú vị trong quá trình thiết kế cho cuốn sách này mà anh ấn tượng không?

Mình cho rằng đó là một “bài học” thú vị nhiều hơn.

Như các bạn cũng biết, trước khi “Có một thời ở Chợ Lớn” ra đời, tác giả Phạm Công Luận đã từng cho ra mắt một quyển sách cùng chủ đề đó là “Hồi ức Phú Nhuận”. Do cả 2 quyển một chủ đề nên với vai trò là người thiết kế bìa cho cả hai, mình mong muốn tạo được nét tương đồng trên bìa khi 2 quyển sách được đặt cạnh nhau để nhấn mạnh “tính chất văn hóa” của 2 quyển sách này. Chính vì vậy, mình đã chủ đích đem cái gần gũi, thân thương nhưng cũng mang trong mình những lắt cắt lịch sử mà mình từng thể hiện trong bìa của”Hồi ức Phú Nhuận” mang vào quyển “Có một thời ở Chợ Lớn” lần này.

Nhưng rồi mình nhận ra, mỗi vùng đất sẽ mang trong mình một vẻ đẹp riêng. Nếu như Phú Nhuận là mảnh đất của những ký ức tuổi thơ thân thương, của những giai kỳ hào nhoáng của một Sài Thành hoa lệ, thì Chợ Lớn sẽ là những đất của những khu mua sắm xa hoa, của những quán ăn nức tiếng, và của sự hào sảng, phóng khoáng của người dân Chợ Lớn Sài Gòn.

Vậy nên, mình cho rằng đó là bài học mình của bản thân mình: Để nhấn mạnh, nếu không thể tương-đồng thì chúng ta có thể chọn tương-phản.

Bookish xin cảm ơn họa sĩ t.hờ vì đã dành thời gian chia sẻ. Chúc anh nhiều sức khỏe và đạt được thành công trong năm mới Ất Tỵ 2025.

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Cafe sáng