Phía sau trang sách

Cuộc chiến không dây – Cuộc chiến vô hình

Published

on

Cuộc bầu cử năm 2020 cho thấy sự chia rẽ dường như không thể hàn gắn của một nước Mỹ xáo trộn. Thế nhưng lẩn trong những trận đối đầu trên sóng truyền hình, người ta thấy rằng cả Trump và Biden đều muốn ghi điểm ở một mặt trận, và một trong số đó là thái độ của Mỹ với Trung Quốc. Nói rộng ra hơn, chưa khi nào lưỡng viện thống nhất một cách triệt để hơn thế, khi Trump dự định sẽ tiếp tục “kìm nén” Trung Quốc; còn Biden khi đó hứa sẽ “kềm giữ” sự trỗi dậy của một siêu cường đang lên.

Sự bành trướng của đất nước tỷ dân này không chỉ xuất hiện ở biển Đông với thứ “vật chất tối” không có thật là đường lưỡi bò, mà một cách vô hình, nó cũng trườn khắp toàn cầu trong bộ áo choàng phù thủy mong manh mà ta không thể thấy bằng mắt thường. Trong cuốn 2030 – Những xu hướng lớn sẽ định hình thế giới tương lai, nhà quan sát Mauro F. Guillén cũng cảnh báo thập kỉ sắp tới đây là sự vươn mình của Trung Quốc, cũng như mạng 6G – một khái niệm dường như vẫn còn trong phòng thí nghiệm, nhưng là có thật. Trở về thời điểm hiện tại, Trung Quốc dường như cũng đang “vi hành” trên khắp thế giới thông qua một cuộc chiến – cuộc chiến không dây.

Một lịch sử hùng mạnh

Năm 1980, khi Colin Golder – người sau này sẽ hỗ trợ triển khai mạng truyền thông số cho Trung Quốc đặt chân đến đất nước sau cuộc cách mạng nhân dân 30 năm mà Mao tạo ra, mức sống nơi này thậm chí còn thấp hơn cả Sudan và mọi thứ dường như đều được làm bằng tay. Đó là khi Mao vừa qua đời, Đặng Tiểu Bình lên nắm chính quyền và mọi thứ chỉ mới sơ khởi. Nhà ga hoành tráng nhất lúc đó có thể nói không lớn hơn một quầy bar giản dị ở phương Tây, trong khi người dân thì ủ ê trong những bộ Mao phục rộng thùng thình, được phân phát với số lượng ba bộ một năm.

Thế nhưng không ai tin rằng chỉ vài thập niên sau đó, Trung Quốc đã đứng một phía riêng với Thế giới, đối đầu, kình chống, và… còn gì nữa?

Tác giả Jonathan Pelson – nhà quan sát, người làm việc cho Lucent cũng như Bristish Telecom đã khắc họa một cách chi tiết thứ gì làm nên sức mạnh cho siêu cường ấy. Bằng những bài học của Lão Tử, Mao, Đặng Tiểu Bình… ông đã xây dựng một lịch sử song song giữa hai bến bờ Đông – Tây, giữa thời Bostrom mới câu móc dây đồng để dùng điện thoại trong xe, cho đến khi AT&T phát minh các thiết bị không dây, chiếc Motorola đầu tiên và sự trỗi dậy của Huawei – tập đoàn viễn thông mà bất cứ ai nghe đến cũng phải hoảng sợ.

Jonathan Pelson đã làm rõ những sai lầm của phương Tây, từ đó tạo điều kiện cho vị thế lớn mạnh của Trung Quốc. Rõ ràng là khi phương Tây đang bận đàm phán, sáp nhập, chia rẽ, đút lót cho nhau bằng các sân golf và những vật chất đắt tiền; thì Huawei đã kịp lan rộng sang Ấn. Từ nơi cần những kỹ sư Harvard để dạy cho họ bài học về mạng viễn thông, giờ đây với kỹ thuật “học đảo ngược”: Trung Quốc vươn lên vị thế bá chủ. Như chính cách ví von mà Jonathan nói, “chúng tôi [phương Tây] đưa cho họ nguyên liệu để nấu món ăn kiểu Tây, nhưng không ngờ họ đã dùng luôn cùng bàn ăn với chúng tôi”.

Hẳn nhiên, Huawei xuất hiện và đối đầu không chỉ bởi sai lầm có phần tự tin của phương Tây, mà chính cá tính Trung Quốc cũng đóng một vai trò quan trọng. Trước tiên, họ quy định các doanh nghiệp nước ngoài không được tham gia đấu thầu quá 20% giá trị gói; cùng với tính hoài nghi và luôn luôn theo dõi, Trung Quốc biến chuyển từ một người không biết gì, chuyển sang “học đảo ngược” – từ sản phẩm mà phương Tây bán cho họ, họ tìm ra phương pháp và sáng tạo thành của riêng của mình. Huawei hay Trung Quốc luôn tồn tại ở đó như “cáo canh chuồng gà”, trong khi phương Tây còn đầy tự tin và ảo tưởng vào vị trí của mình.

Tại sao là Huawei?

Từ khoản đầu tư 5000 dollar vào năm 1987, đến nay nó đã trở thành công ty có trị giá hơn cả BMW, Boeing… với con số 120 triệu dollar. Huawei dường như là doanh nghiệp “bí ẩn” nhất trên thế giới, khi hầu như không ai chắc chắn và hiểu rõ được sơ đồ hoạt động của nó. Khi tờ New York Times lên bài về nghi vấn cơ cấu thực chất của nó, mọi thứ đã được tiết lộ dù cho Huawei nỗ lực chối từ. Nhậm Chính Phi – người đứng đầu Huawei chỉ chiếm 1% cổ phần, trong khi 99% còn lại đi vào một “ủy ban công đoàn” ảo, mà nói cách khác, là chảy về phía nhà nước.

Điều này lý giải vì sao lại tồn tại một kiểu đấu thầu “ngược ngạo” chưa từng có tiền lệ, thách thức bất cứ công ty viễn thông nào có thể giành chiến thắng. Theo đó trong các gói thầu nhằm tiến ra thế giới, Huawei giành lấy thị phần bằng cách chịu thua lỗ bằng các chi phí cận biên (thường được hiểu như là phá giá). Công ty giảm biên lợi nhuận đến mức thấp nhất, đập tan chi phí nghiên cứu cũng như phát triển của các bên khác, phá hủy sự cạnh tranh và độc nhất một mình một cõi. Điều đó dễ dàng giải thích cho việc đốt cháy 75 tỉ dollar nhanh chóng, khi không một ai phản đối vì thật sự không có cổ đông nào tồn tại, ngoài nhà nước Trung Quốc.

Hẳn nhiên phương Tây cũng không để yên cho những việc này. Khi chính quyền các nước hạn chế việc sử dụng sản phẩm viễn thông của Trung Quốc ở các nơi đắc địa, bộ sậu của Nhậm Chính Phi liền thông minh đẩy chúng sang những vùng hẻo lánh nông thôn. Nhưng đằng sau đó, những vùng này cũng chính là nơi đặt các cơ quan quan trọng, như các cơ sở quân sự, quốc phòng. Chính quyền Trung Quốc cũng khôn ngoan hơn khi thêm vào các gói thầu những chính sách cộng thêm, như hỗ trợ các khoản vay, các công trình hạ tầng cầu cảng, cao tốc, nước sạch… Và dễ thấy chính các nước nghèo ở châu Phi là đối tượng “màu mỡ” cho ván bài này, và bộ mặt không lâu sau đó đã được vạch trần.

Khi Liên minh châu Phi AU công bố các sự cố về lỗ hổng hệ thống, mạng lưới các micro nghe lén khắp nơi trong hệ thống viễn thông mà Huawei đầu tư và tiến hành lắp đặt, đó cũng là khi công ty viễn thông lớn nhất và thành công nhất của Canada, Nortel biết rằng thông tin của họ đang đi về một máy chủ ở Trung Quốc, và tòa nhà này liền sau đó trở thành trụ sở của một cơ quan Quốc phòng. Bây giờ cuộc chiến thương mại tồn tại ở hai mặt, nó vừa đem lợi về cho Trung Quốc (hiển nhiên trong phần lớn trường hợp), nhưng cũng đồng thời phụ giúp chính quyền độc tài châu Phi giữ vững quyền lợi của mình. Đó là khi Uganda kiểm soát biểu tình qua nền tảng Skype và Whatsapp, đó là khi Ethiopia phải nín nhịn lắp đặt gói thầu vì khoản vỡ nợ… và giờ đây chủ nghĩa đế quốc công nghệ cao đã được thiết lập.

Không dừng ở đó, Huawei còn bổ sung cho mình một đường lối thu hút nhân tài, những người từ phương Tây mà khi bong bóng dotcom vỡ tan, nhiều người khăn gói sang miền đất hứa để rồi sớm sẽ nhận ra việc họ cần làm là bán thông tin đã biết trước. Từ những nhân viên từng làm ở thung lũng Silicon cho đến các nguyên thủ quốc gia, những người đại diện cho lưỡng viện có mối quan hệ và ảnh hưởng nhất định; Huawei thu hút của cựu thủ tướng Anh David Cameron và điều đó làm cho bong bóng bao trùm của thương hiệu này ngày càng bao trùm và lớn mạnh.

Kềm giữ sức mạnh

Thế liệu phương Tây kiểm soát những vấn đề này bằng cách nào? Dể thấy những gì Trump làm đối với Trung Quốc trong nhiệm kì của mình là sự cứng rắn cần thiết cho những gì mà chiếc áo tàng hình đang cố gắng làm. Chính quyền Mỹ có thể không cản được Huawei sản xuất chip, nhưng còn hơn thế, họ đã nghiêm cấm các nhà máy fab – nơi cung cấp thiết bị làm chip cho Huawei, và Mỹ là nơi duy nhất sở hữu các nhà máy này. Canada dẫn độ “công chúa Huawei”, bà Mạnh Vãn Chu do vi phạm chính sách trừng phạt đối với Iraq.

Ở châu Âu, Thụy Điển cấm các công ty viễn thông Trung Quốc tham gia đấu thầu, trong khi Phần Lan giảm thiểu doanh số bán ra của Huawei. Pháp từ chối thiết bị của Huawei, cũng tương tự với Úc, Nhật và New Zealand. Tuy nhiên sự đồng lòng này cũng vấp phải không ít chỉ trích từ phía Trung Quốc, và các nhà lãnh đạo cũng đang hết sức cẩn trọng với bất kì quyết định nào của mình. Cựu thủ tướng Đức Angela Merkel đã tạo nên một cuộc tranh luận vì sự chậm trễ trong việc giới hạn Huawei ở đất nước này, nhưng cũng khó trách bà, khi thị trường tỷ dân đã đe dọa cắt giảm và giải trừ dần dần thương hiệu xe hơi của Đức Volkswagen, và rõ ràng là một thị trường quan trọng của đất nước này.

*

Giờ đây với những chính sách kềm giữ của phương Tây, tương lai của Huawei có thể nói là khá… bất định. Tuy bị bắt chẹt ở lục địa già, thế nhưng dường như ở phần lớn châu Á và châu Phi, đây vẫn là một thị trường tiềm năng của dịch vụ cung cấp mạng viễn thông. Huawei hay Trung Quốc rõ ràng cho thấy tham vọng của mình, mà quan trọng hơn, đã được chuẩn bị sâu xa từ trước chứ không hẳn chỉ trong ngày hiện tại. Cũng như sự kiên định trong các kế hoạch nhảy vọt 5 năm, 10 năm mà ta hay nghe; Cuộc chiến không dây vẫn còn ở đó dưới nhiều hình hài, mà quan ngại hơn là khi khó để phát hiện trong một thời đại số và công nghệ phát triển từng ngày. Một cuốn sách hay, nhiều thông tin và đầy cảnh báo.

Tác giả, nhà quan sát Jonathan Pelson

Hết.

minh.

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Phía sau trang sách

Có một thời ở Chợ Lớn: Những gam màu ký ức

Published

on

Có một thời ở Chợ Lớn là một trong hai tác phẩm mới nhất của nhà báo Phạm Công Luận do Phương Nam Book liên kết xuất bản dịp năm mới Ất Tỵ 2025. Chỉ một thời gian ngắn sau khi phát hành, sách sớm nhận được tình cảm của độc giả và lọt vào top sách bán chạy trong tuần tại Nhà Sách Phương Nam. Bên cạnh bản thân tác giả Phạm Công Luận, góp phần vào sự thành công của Có một thời ở Chợ Lớn không thể không kể đến họa sĩ Phạm Công Tâm với nhiều hình ảnh minh họa đẹp và đầy tinh tế, cũng như đội ngũ Phương Nam Book đã biên tập, thiết kế nhằm đưa tác phẩm đến tay độc giả theo cách chỉn chu nhất.

Chịu trách nhiệm thiết kế bìa và trình bày sách Có một thời ở Chợ Lớn là họa sĩ t.hờ. Trong bài phỏng vấn hôm nay, Bookish sẽ cùng anh t.hờ chia sẻ với bạn đọc về quá trình "lên đồ" cho Có một thời ở Chợ Lớn cũng như những câu chuyện bên lề thú vị trong quá trình sản xuất cuốn sách này.

  • Bookish: Anh có thể chia sẻ điều gì đã dẫn đến quyết định lựa chọn hình ảnh chùa Ôn Lăng và chợ Bình Tây làm ảnh bìa sách ở 2 phiên bản bìa mềm và bìa cứng?

Họa sĩ t.hờ: Nhắc đến Chợ Lớn, chắc hẳn 9 trên 10 người trong chúng ta sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh của chùa bà Ôn Lăng và chợ Bình Tây – hai công trình kiến trúc đặc trưng nhất của mảnh đất Chợ Lớn Sài Thành.

Đối với chùa bà Ôn Lăng, đây có thể coi là công trình mang đậm nét đặc trưng của kiến trúc Trung Hoa nhất giữa lòng Sài Gòn. Không chỉ là nơi chiêm bái của người dân địa phương và du khách gần xa, chùa bà Ôn Lăng còn là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa và tôn giáo như lễ hội Đoan Ngọ, lễ hội Trung Thu, lễ hội Thanh Minh, lễ hội Tết Nguyên Đán,… Chùa bà Ôn Lăng là một trong những ngôi chùa có ý nghĩa lịch sử và văn hóa quan trọng của Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và mảnh đất Chợ Lớn nói riêng.

Còn về chợ Bình Tây, đây không chỉ là một ngôi chợ sở hữu lối kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ấn văn hoá Á Đông của người châu Á ở đất Sài Thành, mà còn là nơi được biết tới là nơi trao đổi đồ cổ và buôn bán sỉ lớn nhất của người dân gốc Hoa ở Chợ Lớn. Dù hiện tại chợ Bình Tây đã có nhiều sự thay đổi về cơ sở hạ tầng nhưng những giá trị tinh thần, lịch sử và văn hoá vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay.

Chính vì lẽ đó, chùa bà Ông Lăng và chợ Bình Tây đã được mình chọn lựa để đưa lên 2 phiên bản bìa của Có một thời ở Chợ Lớn.

  • 2 ấn bản bìa mềm và bìa cứng có sự khác biệt gì về hình ảnh minh họa trong sách không?

Để đảm bảo sự chính xác về thông tin của các bài viết thì phần hình ảnh và nội dung bên trong của 2 phiên bản không có gì thay đổi.

  • Liệu có ẩn ý nào phía sau việc sử dụng 2 tông màu nóng - lạnh cho 2 phiên bản bìa sách?

Nhắc đến Chợ Lớn, người ta sẽ nghĩ ngay đến những tone màu rực rỡ như chính sắc màu chủ đạo trong cuộc sống của người dân nơi này – màu đỏ rực của những chiếc đèn lồng gốc Hoa, màu đỏ thẫm của những lớp mái ngói vươn màu thời gian hay màu đỏ tươi của những chú lân trong các lễ hội,… Bên cạnh đó, ta không thể không nhắc tới sắc vàng của những bức tường vững chải chạy dọc các con phố, của những món đồ trang trí bóng bẩy mỗi dịp Tết đến xuân về.

Thế nhưng, không vì thế mà Chợ Lớn vắng đi những phút giây lắng đọng. Dạo quanh Chợ Lớn, người ta vẫn có thể dễ dàng bắt gặp những tòa chung cư lâu đời trên đại lộ Trần Hưng Đạo hay từ chính trong nét kiến trúc phương Đông được tạo nên từ kỹ thuật xây dựng của Tây phương trong lối kiến trúc độc đáo của ngôi chợ Bình Tây xuất hiện trên bản bìa mềm.

  • Có câu chuyện ngoài lề nào thú vị trong quá trình thiết kế cho cuốn sách này mà anh ấn tượng không?

Mình cho rằng đó là một “bài học” thú vị nhiều hơn.

Như các bạn cũng biết, trước khi “Có một thời ở Chợ Lớn” ra đời, tác giả Phạm Công Luận đã từng cho ra mắt một quyển sách cùng chủ đề đó là “Hồi ức Phú Nhuận”. Do cả 2 quyển một chủ đề nên với vai trò là người thiết kế bìa cho cả hai, mình mong muốn tạo được nét tương đồng trên bìa khi 2 quyển sách được đặt cạnh nhau để nhấn mạnh “tính chất văn hóa” của 2 quyển sách này. Chính vì vậy, mình đã chủ đích đem cái gần gũi, thân thương nhưng cũng mang trong mình những lắt cắt lịch sử mà mình từng thể hiện trong bìa của”Hồi ức Phú Nhuận” mang vào quyển “Có một thời ở Chợ Lớn” lần này.

Nhưng rồi mình nhận ra, mỗi vùng đất sẽ mang trong mình một vẻ đẹp riêng. Nếu như Phú Nhuận là mảnh đất của những ký ức tuổi thơ thân thương, của những giai kỳ hào nhoáng của một Sài Thành hoa lệ, thì Chợ Lớn sẽ là những đất của những khu mua sắm xa hoa, của những quán ăn nức tiếng, và của sự hào sảng, phóng khoáng của người dân Chợ Lớn Sài Gòn.

Vậy nên, mình cho rằng đó là bài học mình của bản thân mình: Để nhấn mạnh, nếu không thể tương-đồng thì chúng ta có thể chọn tương-phản.

Bookish xin cảm ơn họa sĩ t.hờ vì đã dành thời gian chia sẻ. Chúc anh nhiều sức khỏe và đạt được thành công trong năm mới Ất Tỵ 2025.

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Cafe sáng