Phía sau trang sách

Tôi hiểu được gì từ “Gối đầu lên cỏ”

Published

on

Văn học Nhật đối với tôi bảng lảng, phảng phất và không rõ ràng. Từ trước đến nay, nếu có ai mong muốn luận bàn về những tác phẩm thuộc dòng văn chương này, tôi đều xin kiếu. Bởi lẽ từ Kawabata Yasunari, Banana Yoshimoto cho đến Haruki Murakami hay Yoko Ogawa; tôi hiếm khi cảm được cái không rõ ràng ấy. Có thể nói những dòng chữ trong các cuốn ấy đọc cho có thì thôi, chứ rồi chữ nghĩa trong đầu không đọng lại mấy, (dĩ nhiên) trừ những tác phẩm giản tiện hay thật khác biệt của Yoko Ogawa.

Xếp hạng nhà văn tôi không thể cảm trong khi thế giới ngoài kia tung hô chào đón, thì có thể xếp Murakami số 1 và Kawabata số 2. Dĩ nhiên tôi không đánh đồng văn chương của hai tiên sinh là không giá trị hay không hay ho. Bởi nhẽ nếu không đọng lại một điều gì đó thì Nobel sẽ không ghé thăm (dù những năm nay scandal là thứ người ta quan tâm hơn cả), và cũng sẽ không bán chạy đến mức người ta trầy da tróc vẩy giành nhau khi giá xuống nửa. Thế nhưng đối với riêng mình, văn chương hai ông là thứ gì đó có vẻ lớn lao, nhưng rồi tắt lịm không một ý chí.

Dĩ nhiên điều đó làm tôi cảnh giác mỗi khi bắt gặp cái nhãn Nhật Bản cho những cuốn sách. Lớp nhà văn tiệm cận tôi đã cho qua, thì nói gì đến thế hệ trước đó, thế hệ cận đại với ba tên tuổi xem như trụ cột của một trường phái văn chương có tên rất kiêu – trường phái tâm lý cao sang – bút chiến với chủ nghĩa tự nhiên trên văn đàn Nhật đầu thế kỷ XX. Tất nhiên tôi không cho rằng bản thân hẳn có tâm lý “cao sang”, bởi vốn dĩ đời sống hiện nay đè nén người ta, muốn bay lên trời khó ngang đeo tạ thì nói làm chi đến kiểu thoát tục thành ra “cao sang”?  Nên trường phái ấy cũng giống như tôi bắt gặp Coca mà không calo, như hàng xả ra được hô lỗ vốn hay những Swifties chấp nhận thực tế đĩa nhạc của thần tượng mình thật sự dở tệ.

Trong số ba trụ cột đó, Natsume Sōseki có lẽ là nhà văn được ưu ái nhất khi hàng năm vẫn được giới thiệu những tác phẩm mới so với Mori Ogai hay Akutagawa Ryunosuke. Nếu ai đó hỏi văn phong của Sōseki được tả thế nào, thì như ý kiến của một nữ nhân chìm đắm Dazai Osamu, đó là nó khá thuôn thước đến độ được đem giảng dạy trong sách giáo khoa (so với độ sâu và khá tăm tối của những nhà văn tự tử sau này). Thế nhưng ẩn trong những dòng văn ấy luôn luôn chứa đựng những sự phản kháng và niềm nổi loạn của những con người bị gò vào trong khuôn thước.

Nếu Botchan là sự phản kháng với một thế giới được trù định sẵn, Cỏ ven đường là cái vướng víu trên bước đường đi, Ngày 210 lại là thể nghiệm như một vở kịch của những hiện đại ào vào nước Nhật thì Gối đầu lên cỏ là những suy tư đến độ đa tầng của người nghệ sĩ. Chính trong Gối đầu lên cỏ hay Kusamakura được viết vào năm 1906 này, mọi chủ thuyết của Sōseki như đang hiện lên trước mắt người đọc, vì không có gì là thực tế cả trong một đời thực quá nhiều vướng víu, quá nhiều con người cùng những mưu mô, chước hại không biết bao giờ mới thôi yên nghỉ.

*

Gối đầu lên cỏ là chuyến hành trình của một họa sĩ xứ Tokyo lên núi mùa xuân để tìm cảm hứng. Cũng chính trên chuyến đi ấy, anh đã đến được sơn thôn với những con người – nhân vật tưởng như xưa cũ nhưng rất thanh tao. Ở đó có những suy tư về con người anh, về những nghệ sĩ, về cuộc đời này. Cũng có trăn trở về một nước Nhật bảng lảng mù sương khi hiện đại hóa tràn ngập vào đây, làm mất bản sắc của chính con người. Chính cái đối lập giữa vùng sơn thôn cùng cái hiu hắt của chiếc tàu hỏa chở người ta đi vào trong cuộc chiến đã như bức tranh hai mảng sáng tối của cuộc đời này. Để cũng từ chính những suy tư ấy, ta thấy được tia phản chiếu trong sự sống này, dẫu cả trăm năm đã kịp vút qua như cơn bão quấy.

Có thể thấy những tri thức mới xứ Tokyo luôn luôn trở lại trong những trước tác đậm tính tự sự của Sōseki. Nếu trong Cỏ ven đường là cậu Kenzō từng đi du học trở về cố hương, thì trong Gối đầu lên cỏ là chàng họa sĩ ở nơi phố thị trốn tránh cuộc đời. Việc đặt nhân vật vào trường học thức hay những phông nền ở mặt nghề nghiệp đã cho thấy rõ đối tượng ông muốn hướng tới – tầng lớp tinh hoa với những đặc trưng về sự “cao sang” coi thường sự đời. Một trăm năm sau, nhờ những nỗ lực xóa vùng mù chữ, ai ai cũng đã trở thành những tri thức mới – những người ít nhiều tự mình có thể tư duy – dẫn đến trước tác của Sōseki mở rộng ra với người đọc, không còn bó buộc ở mặt nhận thức, mà là bó buộc về phía suy nghĩ, đối với những ai vẫn giữ khả năng tự ngẫm chính mình.

Bài học số 1. Chính thế giới quan vẫn luôn thay đổi dẫu ta có đang làm gì. Trải đời hai mươi năm, tôi nghĩ thế giới này là một nơi đáng sống. Sau hai mươi lăm năm thì tôi đã hiểu ánh sáng và bóng tối chỉ là hai mặt của một vấn đề […] Và bây giờ, khi ở tuổi ba mươi, tôi nghĩ thế này: niềm vui càng lớn thì nỗi buồn càng mênh mông, sung sướng càng nhiều thì đau khổ càng ghê gớm. Khi ta cố gắng thoát khỏi điều đó thì cuộc sống sẽ chẳng còn gì. Khi ta cố gắng dàn xếp lại thì thế giới sẽ sụp đổ.

Cứ một chu kỳ tưởng chừng 5 năm, suy nghĩ trong con người ta sẽ thật khác biệt. Điều này không nói cũng dễ nhận ra, dĩ nhiên đời sống không ai đoán định, nói chi trở thành loài này mà việc ra đời đã như hành xácTrở thành con người thật sự khó khăn, càng khó khăn hơn khi họ suy tư như một nghệ sĩ. Triết gia từ cổ chí kim vẫn được ca ngợi như những con người làm nên văn minh, nhưng mà thật ra, tôi lại nhìn họ dưới mắt thương cảm. Họ đã phôi thai những câu đơn giản về kiếp sống này, để rồi oằn mình tìm câu trả lời. Họ tự đâm mình bằng nhiều nhát dao, khi ướm đời mình vào sự mênh mông của cõi vũ trụ. Giữa quá trình suy tư đến vô cực độ ở những triết gia, một lúc nào đó hình ảnh Athena hoài thai trong đầu của Zeus lại vọt được ra trong tâm trí tôi, như sự khó chịu của những con người biết suy tư sâu, biết nhìn nhận đời. Bởi lẽ khi biết suy tư, ta càng dấn sâu vào trong bể đời. Hay khỏi suy tư?

Bài học thứ 2. Như những câu nói làm giàu từ bi với tâm hỷ xả. Sự giàu có trước mắt cũng chỉ là bụi. Danh vị mà ta giành lấy hay vinh quang mà ta chiếm được chẳng qua cũng giống như một con ong ranh mãnh, vờ tạo ra thứ mật ngọt quyến rũ nhưng lại giấu nọc độc bên trong. Thời thế của Sōseki khi viết ra được những câu chữ này trong màu bảng lảng của núi mùa xuân thật là phù hợp, thế nhưng rõ ràng ở thời ngày nay, chính con người ta không thể làm theo mà nếu không muốn bản thân chết đói.

Trước khi đến với tiểu thuyết tôi như một con suối nhỏ. Khi đọc George Orwell tôi bắt đầu nghĩ cuộc đời vốn biến động này không chỉ có Peter Pan hay Tinker Bell mà còn lũ vật đòi nhiều quyền lợi hơn những loài khác. Khi đọc Anna Karenina hay Bà Bovary, tôi lại vỡ ra, sống phàm chỉ 60 năm thủy chung một lòng, thay vậy ta đi ngoại tình để đời nhiều cú ngoặt hơn, nhiều plot twist hơn để rồi sau này nằm xuống cũng không hối tiếc? Và vâng, chính những tiểu thuyết làm tôi sống kịch tính hơn, nhiều drama hơn vì đời ngắn ngủi. Danh vị, giàu có nếu thuộc về ta thì cứ cố giành, phàm gì để cho người khác trèo lên đầu mình? Sōseki sống trong sương mù của núi mùa xuân, ông cũng không chỉ ra rằng họa sĩ không vẽ bức nào mà vẫn có tiền ở suối nước nóng (hay hầu hết những tác phẩm ấy đều khinh tiền bạc kim tiền thì phải) thì thôi ở thời đại này, bằng văn minh phương Tây, mọi người hãy sống và tranh giành nhau cái gì của mình, vì không có núi mùa xuân để mà dạo bước, cũng không có ai cho không bất cứ thứ gì.

Bài học thứ 3. Nếu không muốn rước phiền hà vào người, dĩ nhiên đừng đòi công bằng. Người ta hay nói đến những khái niệm “vô tư”, “công bằng”. Nếu điều đó được xem là quan trọng thì có lẽ người ta nên giết cả nghìn sinh mạng mỗi ngày, rồi đem những xác chết kia làm phân bón cho cỏ hoa khắp chốn… Công bằng thời nào cũng là giễu nhại, vì nó có đó nhưng chỉ tồn tại ở mặt câu chữ.

Dường như trở thành bản chất hay điều gì đó tồn tại từ lâu, công bằng là một trò chơi không hơn không kém. Và đã là một trò chơi thì sẽ có luật, kẻ thắng người thua và những người thua không có quyền chọn. Đó là quy luật, tồn tại khách quan, không thể tránh khỏi. Nên cứ nghĩ thế để khỏi suy tư, không phải bị thương bằng những nhát dao vô cùng đau đớn. Mà phải sự đời vẫn luôn là thế, có gì khác đâu.

Bài học thứ 4. Không có gì đặc trưng cho sự văn minh của thế kỷ hai mươi bằng tàu hỏa […] Người ta bảo là “lên tàu”. Tôi thấy như thế là bị nhồi nhét. Người ta bảo là “đi tàu”. Tôi thấy là bị áp tải. Chẳng có cái gì chối bỏ cá tính như là thứ tàu này. Văn minh làm cho con người có thể phát huy cá tính nhờ những phương tiện nhất định, nhưng rồi cũng có những thứ phương tiện hủy hoại cá tính của con người […] Kiểu văn minh hiện thời cứ như là cấp cho mỗi người một mảnh đất nhỏ xíu như nhau, rồi bảo người ta cứ tùy ý, thức hay ngủ gì trên mảnh đất ấy cũng được. Đồng thời lại dựng lên một hàng rào thép xung quanh mảnh đất kia, không cho người ta bước ra ngoài dù chỉ là một bước. Những người sống tự do bên trong hàng rào thì cũng muốn sống tự do ở bên ngoài, đó là chuyện hiển nhiên.

Rồi con người ta cũng thành robot, bởi những đồng nhất về mặt văn hóa, về bản dạng người. Hàng ngày xếp hàng đợi chờ để lấy phần ăn ở công ty mình, tôi những tưởng bản thân là con gà béo chờ vào đường dây. Từ khi nào tự chuẩn bị thức ăn trở thành một xa xỉ phẩm để được đánh đồng trăm người như một? Để rồi quanh quất trong giờ ăn trưa ai cũng như nhau cùng một động tác, ai cũng lờ đờ trong trí não mình, ai cũng như nhau không khác thứ gì. Nền văn minh rỉ máu, đâm lén vào nhau như một nhát dao bén nhọn. Suy tư làm gì trước một đế chế trở thành hùng bạo, dẫm nát bất cứ một ai muốn tìm lại mình. Cứ cúi mặt xuống và tiếp tục ăn. Có gì mới đâu!

*

Sōseki không phải là người đầu tiên, cũng chẳng là người cuối cùng. Luôn luôn là thế.

Hết.

Chiêu Dương

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng