Phía sau trang sách

Quả chuông ác mộng: Một dẫn nhập về cái chết

Published

on

Là câu chuyện về một nhà thơ cố gắng kết liễu đời mình được viết do chính một nhà thơ đã thực hiện hành vi này, tiểu thuyết Quả chuông ác mộng xuất bản tại Anh vào năm 1963 dưới bút danh khác của Sylvia Plath, một tháng trước khi bà tự sát. Phải chờ đến hơn một thập kỷ sau thì Mỹ mới xuất bản tác phẩm này và đến năm 1966 thì được tái xuất bản tại Anh dưới tên thật của tác giả. Một ghi chú về tiểu sử tác giả trong ấn bản hiện nay rõ ràng cho thấy những sự việc trong tiểu thuyết rất tương đồng với Sylvia Plath ở tuổi đôi mươi. Vì những lý do đó, hoàn toàn không thể trách người đọc tiếp cận quyển tiểu thuyết không được khách quan. Quả chuông ác mộng là tác phẩm hư cấu không thể thoát khỏi việc bị đọc như một phần hồi ký. Câu chuyện khởi đầu tại New York với chút tươi sáng nhợt nhạt, dần trở nên tăm tối hơn khi dời về Massachusetts, để rồi chìm vào sự điên loạn. Esther Greenwood, là một trong mười hai cô gái được chọn đến ở tại thành phố trong một tháng để làm thực tập sinh biên tập của tạp chí thời trang tuổi thiếu niên. Cô là thế hệ xuất phát từ một gia đình di dân Đức sống ở ngoại ô New England. Với thành tích “15 năm toàn điểm A”, cô có mối quan hệ chán chường với Buddy Willard – chàng sinh viên y khoa tẻ nhạt nhưng đẹp mã. Còn nhiều điều băn khoăn và có khao khát trở thành một nhà thơ, cô là kiểu người không biết nên gọi đồ uống gì, cũng không biết cần trả thêm tiền phục vụ cho tài xế taxi là bao nhiêu, nhưng lại chọn làm luận văn về chủ đề “song ảnh” trong Finnegans Wake, một tác phẩm cô vẫn chưa thể đọc hết. Trí tưởng tượng của cô phải đấu tranh giữa những nguyên tắc giáo điều của New England và vẻ giả tạo hào nhoáng của New York. Cô nhận thấy mình không thể là một phần trong biển đông những nữ sinh viên buộc phải nghỉ ngang việc học giữa chừng để kết hôn. Những cơn khủng hoảng về danh tính, tính dục và tồn sinh thật ảm đạm và thường khôi hài. Sự dí dỏm, óc châm biếm và trí thông minh cũng như nỗi buồn lánh đời bất khả biện giải đã khiến Esther xa cách bạn bè đồng trang lứa. Là người miễn cưỡng tìm kiếm chân lí, cô dùng khiếu châm biếm như một công cụ phán xét và trở thành nạn nhân chính của thói quen này. Không thể trải nghiệm lẫn biểu đạt cảm xúc, cô cảm thấy mình khiếm khuyết trong hình hài một con người. Khoảng cách giữa cô và thế giới ngày càng nới rộng: “Tôi chẳng thể nào phản ứng nổi trước bất cứ điều gì. Tôi cảm thấy cực kì tĩnh tại và cực kì trống rỗng.”… “Sự im lặng dìm tôi xuống vực sâu. Đó không phải là bản thân sự im lặng. Mà là sự im lặng của chính tôi.”… “Sáng hôm đó tôi đã cố tự treo cổ.”

Ảnh: Facebook Tao Đàn

Ngụy trang và bệnh tật đồng hành cùng nhau trong Quả chuông ác mộng; hơn nữa, căn bệnh thường được dùng để tháo bỏ hoặc xé toang vẻ ngoài giả tạo. Doreen, một thiên kim tiểu thư Esther hiển nhiên ngưỡng mộ, bắt đầu tiến trình ấy khi trở nên say xỉn. Hình ảnh chớp nhoáng cảnh tượng cô nằm đó, đầu ngập ngụa bên chính bãi nôn mửa của mình tại hành lang khách sạn tuy nhơ nhuốc nhưng cần thiết. Tiếp theo cơn ốm của cô là màn ngộ độc tập thể hóa chất ptomaine tại một buổi tiệc trưa “thời thượng”. Buddy bị bệnh lao và phải vào viện điều dưỡng. Esther đến thăm anh, bị gãy chân khi trượt tuyết. Lần đầu quan hệ tình dục với một chàng giáo sư Toán trẻ tình cờ quen, cô đã bị băng huyết. Được một bạn đồng tính nữ cho ở trọ, rồi sự kiện cuối cùng là nhập viện. Về sau, cô biết rằng người bạn ấy đã treo cổ tự sát. Phần tóm lược thuần túy các sự kiện diễn ra trong Quả chuông ác mộng như thế này có vẻ lố bịch khi nó không được đặt trong sự cân bằng của hai đối trọng giữa một bên là niềm tuyệt vọng khốn cùng và phía kia là sự hài hước mỉa mai quá rõ ràng. Bệnh tật và sự vạch trần là chìa khóa để giải mã Quả chuông ác mộng. Vào đêm cuối cùng ở New York, Esther trèo lên mái khách sạn và ném quần áo trong tủ qua lan can, từng mảnh từng mảnh một. Đến cuối tác phẩm, cô cố gắng tước đoạt mạng sống của chính mình, nhưng rồi sinh mệnh cô được trao trả lại bằng quá trình lột trần khác – tâm thần học. Sự thống khổ và cảnh đổ máu là chứng trạng đặc trưng trong Quả chuông ác mộng, thường được miêu tả khách quan, tự chế giễu, gần như bắt đầu theo kiểu hài hước. Được văn phong dẫn dắt (một phần ba đoạn đầu Quả chuông ác mộng giống như phiên bản chế giễu hài hước chua cay của Breakfast at Tiffany’s), người đọc bị dụ dỗ vào hang hùm, đó là căn phòng xi-măng vô trùng ở tầng hầm của nhà thương điên, nơi có cỗ máy sốc điện chực chờ những vị khách khiếp sợ.

Sự hời hợt với nỗi đau thể xác cho thấy Esther đã bị mất bản năng đồng cảm ngay từ đầu – với bản thân cũng như với người khác. Tuy cô nhận thức rất tinh tường những tác động lên các giác quan, nhưng cảm giác của cô chỉ dừng ở mức rung động. Cô sống bám vào những dây thần kinh của chính mình, nhưng hệ thống thần kinh đó đã tách biệt với thế giới chung. Một lớp kính mỏng ngăn cách cô với mọi người, và tiêu đề tác phẩm, tự thân cũng cấu thành từ kính, vốn được phát triển từ ý niệm của cô về sự mất kết nối: từng cái đầu của bệnh nhân tâm thần bị chụp kín trong một quả chuông thủy tinh, mắc nghẹn bởi chính hơi thở thối rữa của mình.

Ảnh: Facebook Tao Đàn

Bị giằng xé giữa hai vai trò đầy mâu thẫn, người tình-người vợ nội trợ-người mẹ và “cuộc đời nhà thơ,” mà không một cái nào mang đậm màu sắc thực tế với cô, Esther nhận thấy bản chất cuộc sống vốn nghiệt ngã. Sợ hãi bị biến dạng thành con người hãy còn xa lạ với cô, cô hóa thân biến dạng đến mức tột cùng – thành hư vô. Khi cô chìm vào hố sâu trầm cảm, cả thế giới như một chuỗi những tiếng vọng va đập trái khoáy: khuôn mặt mẹ cô như một lời kết tội mãn kiếp, tiếng rít của xe nôi bên dưới cửa sổ khiến cô điên tiết. Cô dần bị ý tưởng tự sát ám ảnh, một trong những thành tựu lớn nhất của Quả chuông ác mộng là tạo nên sự khác biệt tinh tế giữa cách nhìn đời bị biến dạng và sự biến dạng gắn liền với những gì được tri nhận. Những chuẩn mực truyền thống có lẽ đã góp phần tạo ra sự điên loạn của Esther, nhưng cô không bao giờ mất đi nhận thức về sự phi lí trong các chuẩn mực ấy. Chuyển sang Belsize, một khu vực trong bệnh viện tâm thần dành cho những bệnh nhân chuẩn bị hòa nhập lại thế giới, cô nhìn rõ mối liên hệ này:

“Có gì khác biệt giữa chúng tôi, những người ở Belsize, so với những cô gái chơi bài bridge, tán dóc và học ở trường đại học tôi sẽ quay về? Những cô gái đó cũng đang ngồi dưới một quả chuông.”

Những cụm từ như “điên rồ” và “tỉnh táo” càng trở nên mất cân xứng khi câu chuyện tiến triển. Esther thật sự bị “tâm thần” theo định nghĩa, nhưng định nghĩa đó chỉ là một cái nhãn: khi ta biết cô trở nên “tâm thần” như thế nào thì bản thân từ này cũng trở nên không còn quan trọng nữa. (Trong cương vị là một tác phẩm hư cấu, Quả chuông ác mộng dường như bổ sung cho lý thuyết lâm sàng của nhà phân tích người Scotland R.D. Laing.) Vì tác phẩm được viết từ góc nhìn của một người quan sát tuyệt vọng chứ không phải từ góc nhìn của người khác quan sát cô, nên có một quá trình tiếp diễn trong sự điên loạn của cô; đây không phải là tình trạng bất chợt ập đến thay thế cho cái trước nó mà là quá trình dần dần tiến triển.

Ảnh: Facebook Tao Đàn

Tự sát, một trò chơi u ám bộc phát của sợ hãi và tội lỗi, cũng gây nghiện như rượu và ma túy, ban đầu chỉ là sự thể nghiệm – nay vài giọt máu, mai một cơn nghẹt thở, chỉ cốt để xem cảm giác ấy ra sao. Nó nhanh chóng trở thành khát khao hủy diệt đầy choáng ngợp. Đến khi Esther leo vào khoảng trườn ở tầng hầm và nuốt cả một lọ thuốc ngủ – đến khi chúng ta đối diện với thực tế – sự kiện này, thay vì có vẻ ghê rợn, dường như lại giống một kết quả tự nhiên hơn. Khi cô chuẩn bị xuất viện sau một loạt chuỗi ngày dài điều trị, bác sĩ tâm lí dặn dò cô rằng hãy xem sự suy sụp này là “một cơn ác mộng”. Esther “được chắp vá, trở về và chấp thuận để lên đường.” Cô nghĩ “đối với người ở trong quả chuông thủy tinh, trống rỗng và ngưng đọng như một đứa bé chết non, bản thân thế giới là một cơn ác mộng.”

Đứa bé đó chỉ là một trong rất nhiều trường hợp trong “Quả chuông ác mộng”. Họ cười trong những trang tạp chí, họ ngồi như những xác thai nhi ngâm thuốc trong lọ thủy tinh được trưng bày ở khoa nhi tại bệnh viện của Buddy. Một “đứa bé nằm an trú trong tử cung người mẹ” dường như đang chờ Esther ở cuối đường trượt khi cô gặp tai nạn. Và theo tiến trình câu chuyện, cô chứng kiến một cuộc sinh nở. Thay cho luận văn về chủ đề “song ảnh” trong quyển Finnegans Wake mà cô không bao giờ hoàn thành, có thể là một bài luận về số lượng và những dạng trẻ em xuất hiện trong Quả chuông ác mộng. Ở phòng khám phụ khoa, khi nhìn một người mẹ âu yếm con, Esther tự hỏi tại sao mình lại cảm thấy quá tách biệt với thứ hạnh phúc dung dị này, với việc thực hiện bổn phận chức năng sinh học và xã hội đã được qui định ấy. Cô không muốn có con, bản thân cô là một đứa trẻ. Nhưng cô cũng là nhà văn tiềm năng. Cô muốn tự hoàn thiện bản thân mình, chứ không muốn được hoàn thiện. Với cô, đứa bé là Cái Bẫy và tình dục là mồi nhử. Nhưng cô quá thông minh đến nỗi không thể lờ đi sự thật rằng đứa bé không đại diện cho cuộc sống, chúng chính là cuộc sống, dù không hẳn là kiểu cuộc đời Esther muốn sống; đó là, trong trường hợp cô muốn sống. Cô bị mắc kẹt giữa những bào thai quái dị trưng bày trong khu của Buddy và cảnh nô lệ kinh khủng của việc mang thai có vẻ như kéo dài vô tận từ cô hàng xóm Dodo Conway lúc nào cũng đẩy xe nôi dưới cửa sổ phòng Esther, như một người điên trong khúc ca Hi Lạp. Đứa bé dẫn dụ Esther về phía tự sát bằng cách dẫn dụ cô về một cuộc sống đúng nghĩa là cô không thể chịu nổi. Dường như chỉ có hai cách giải quyết, mà cả hai đều vô hình: hoặc là tin tưởng vào đứa bé chưa ra đời, hoặc là trung thành với cái chết. Cuộc sống, hiện ra và hiển lộ quá đau đớn, đã đánh gục cô, cuối cùng, cô tự định đoạt số phận của mình. Ngoại trừ tình cảm vô vụ lợi của vị bác sĩ dành cho cô, tình yêu hoặc bị thiếu vắng hoặc không thể nhận ra trong Quả chuông ác mộng. Cảm xúc choáng ngợp là sự ghê tởm – sự ghê tởm chưa trở thành sự khinh miệt nên càng hủy hoại nhiều hơn.

Ảnh: Facebook Tao Đàn

Giữa lần xuất bản đầu tiên và lần thứ hai của Quả chuông ác mộng ở Anh, thi tuyển thứ hai của Sylvia Plath là Ariel được in sau khi bà chết. Một vài bài thơ đã xuất hiện trên tạp chí nhưng không ai ngờ đến ảnh hưởng cộng dồn của chúng. Những trải nghiệm hủy hoại nơi tâm trí và thể xác được rũ bỏ hết mọi phòng vệ, hoàn toàn bị phơi bày, khiến ta rợn người. Những bài thơ cho thấy rõ ngay lập tức người viết vốn đã được nhìn nhận là có thiên phú trước đây khả dĩ cũng là một thiên tài mà tác phẩm tạo ra có sự mãnh liệt, tinh tế, hoang dại, và thấu đời, không giống như bất kỳ ai trước đó. Tuy phẩm tính trác tuyệt trong những bài thơ khiến cái chết của bà càng ai oán hơn, nhưng chính cái chết đã khiến tác phẩm bà viết ngay lập tức có những giá trị nhất định mà lẽ ra có thể đã không được như thế nếu mọi sự khác đi. Cái chết khiến cho từng từ được viết xuống trang giấy không thể thay đổi; nhưng trong trường hợp này thì câu hỏi nhà thơ là ai và điều gì đã mất trở nên quá rõ ràng gần như cùng một lúc: như thể những bài thơ được sinh thành và nhà thơ qua đời trong cùng một hơi thở. Tiếp sau đó là sự bất tử đến tức thời. Sylvia Plath cũng trở thành một hình mẫu vượt ngoài phạm vi văn học đối với nhiều người, một nữ nhân đầy mâu thuẫn – một người đã đối diện với nỗi kinh hoàng và từ đó tạo tác ra một số giá trị nhưng đồng thời cũng bị chính nó hủy diệt. Tôi không nghĩ sự quyến rũ nhuốm màu bệnh hoạn khiến bà có vị trí đặc biệt. Năng lượng và sự bạo lực trong những bài thơ ở giai đoạn cuối đã được thực thi. Những mối đe dọa tác giả thể hiện trong thơ đã được bà thi hành và tác phẩm bà viết đạt đến cấp độ thượng thặng của sự thật. Mối liên hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, quá thường chỉ là phép tu từ, giờ đây lại trở nên tuyệt đối rõ ràng. Bi kịch trớ trêu là trong một thế giới của những kẻ lừa bịp hành nghề PR thì Sylvia Plath có vẻ là người sống thật bằng chính hành động chấm dứt cuộc sống của mình.

Quả chuông ác mộng thiếu sự tráng lệ của những bài thơ sau đó. Có chút gì đó nữ tính trong cách trình bày của nhà tiểu thuyết nghiệp dư. Nhưng nói cho cùng thì bản thân tư liệu là thứ vượt xa giới hạn thông thường. Đây là một quyển sách đáng sợ. Và nếu nó kết thúc quá lạc quan về mặt hư cấu lẫn thực tế sau đó thì nỗi kinh hoàng thật sự nằm ở chỗ khác. Tuy chúng ta chia sẻ mọi cảm xúc dẫn đến việc Esther cố gắng tự sát nhưng không có một chút nội dung sâu sắc nào trong Quả chuông ác mộng hướng đến sự tự sát. Đó có lẽ là lý do khiến tác phẩm này có một thế đứng độc lập. Đọc nó, chúng ta đối diện trải nghiệm ác mộng nguyên thủy chứ không phải là sự phân tích hay hiểu về ác mộng.

The New Yorker
Howard Moss

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Những thương hiệu quốc dân ‘vang bóng một thời’

Theo VnExpress – Xà bông Cô Ba, máy may Sinco, nước ngọt Con Cọp, kem đánh răng Hynos và Dạ Lan từng là những cái tên dẫn đầu thị trường, nhưng dần sa sút khi công ty chủ quản bỏ thương hiệu hoặc bán vốn cho đối tác.

Published

on

Xà bông Cô Ba là nhãn hiệu do ông Trương Văn Bền thành lập năm 1932 ở khu vực chợ hóa chất Kim Biên (quận 5, TP HCM).

Trong cuốn Sài Gòn tạp pín lù, học giả Vương Hồng Sển nói rằng hình ảnh in trên bao bì viên xà bông là cô Ba Thiệu, con thầy Thông Chánh, quê gốc Trà Vinh. Bà là người đăng quang cuộc thi hoa hậu đầu tiên tổ chức năm 1865 ở Sài Gòn. Tuy nhiên, cũng có thông tin khác cho rằng người phụ nữ này là vợ ông Trương Văn Bền. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Xà bông Cô Ba được ưa chuộng khắp miền Nam lúc bấy giờ nhờ chất lượng tốt, giá thành phải chăng. Theo lời học giả Vương Hồng Sển, xà bông "bán chạy vo vo", sản xuất đến đâu hết đến đó. Thương hiệu này có giai đoạn đánh bật sự độc quyền của Hãng xà bông Marseille (Pháp).

Đất nước thống nhất, công ty của ông Trương Văn Bền hoạt động theo mô hình doanh nghiệp nhà nước với tên gọi Nhà máy công tư hợp doanh xà bông Việt Nam, sau đó đổi tên thành Công ty Sản xuất và Thương mại Phương Đông. Sản phẩm xà bông Cô Ba dần vắng bóng khỏi thị trường. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Cuối năm 2017, Công ty Bất động sản An Dương Thảo Điền mua 48,68% cổ phần Công ty Phương Đông. Lãnh đạo công ty nói rằng Xà bông Cô Ba vẫn có chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng nên sẽ khôi phục dây chuyền sản xuất với sản lượng ước tính vài chục tấn mỗi năm, chủ yếu để bảo tồn thương hiệu gần trăm tuổi.

Chia sẻ với VnExpress, lãnh đạo An Dương Thảo Điền từng nói: "Tham gia ngành hàng tiêu dùng nhanh là cuộc chơi đòi hỏi vốn lớn và nhiều rủi ro, trong khi đây không phải thế mạnh của chúng tôi nên phương án được ưu tiên là hợp tác với các nhà sản xuất, phân phối có kinh nghiệm. Chúng tôi sẽ đóng góp công thức, bản quyền thương hiệu... để thành lập một liên doanh khôi phục Xà bông Cô Ba".

Trong ảnh là tòa nhà từng là trụ sở của xà bông Cô Ba nằm ở số 20 đường Kim Biên, bên hông chợ Kim Biên.

Nước ngọt Con Cọp có mặt ở hầu hết hàng quán ăn uống trước năm 1975 do tập trung vào phân khúc tiêu dùng bình dân, trong khi Coca-Cola thời đó ở phân khúc cao hơn. Đây là sản phẩm của Usine Belgique, nhà máy sản xuất nước giải khát lớn nhất miền Nam, thuộc tập đoàn BGI (Pháp). Nhà máy này cũng là nơi ra đời của bia Lade trái thơm và bia 33 Export.

Tờ áp phích có dòng chữ "nước ngọt Con Cọp mỗi chai, là nguồn vui mạnh kéo dài tuổi xuân" quen thuộc với người tiêu dùng. Ảnh tư liệu

Hai năm sau ngày đất nước thống nhất, Tập đoàn BGI chuyển quyền sở hữu và bàn giao toàn bộ nhà máy cho nhà nước với tên gọi Nhà máy nước ngọt Chương Dương. Nhãn hiệu Con Cọp biến mất từ đó, thay bằng các dòng sản phẩm xá xị mang thương hiệu Chương Dương. Ảnh lật sau là vị trí Công ty nước ngọt BIG nay là trụ sở công ty nước giải khát Chương Dương, 606 Võ Văn Kiệt.

Máy may Sinco ban đầu được nhập khẩu nguyên chiếc từ Nhật Bản, sau đó có nhà máy lắp ráp và đặt trụ sở chính trên đường Trần Hưng Đạo (quận 1 ngày nay). Nơi đây từng là biểu tượng quen thuộc của người dân Sài Gòn với biểu tượng máy may bàn đạp trên nóc tòa nhà. Hiện nay, tòa nhà đang được sử dụng làm cơ sở cho một phòng khám. Ảnh: Lynn Roylance

Trước ngày đất nước thống nhất, Sinco có đại lý phân phối khắp nội thành Sài Gòn và các tỉnh. Trong các tờ rơi quảng cáo, thương hiệu này giới thiệu ưu điểm chính là "may khéo, thêu đẹp, sửa chữa miễn phí" và cam kết bảo hành 20 năm. Sinco nổi tiếng với độ bền cao, thao tác đơn giản nên được nhiều gia đình và xưởng dạy nghề may ưa dùng.

Sau giải phóng, Sinco được quốc hữu hóa và trở thành Xí nghiệp liên hiệp Máy may Sinco. Doanh nghiệp này được cổ phần hóa những năm đầu 2000 và chuyển hướng sản xuất máy móc phục vụ công nghiệp và nông nghiệp như dây chuyền giết mổ gia cầm, chế biến lúa gạo, tiêu… Trụ sở công ty cũng được dời về huyện Bến Lức, Long An. Ảnh tư liệu

Hynos là hãng kem đánh răng do một người Mỹ gốc Do Thái thành lập và chuyển giao cho ông Huỳnh Đạo Nghĩa sau khi về nước.

Ông chủ mới nhanh chóng cải tiến mẫu mã và đưa Hynos tới gần người tiêu dùng bằng phương thức tiếp thị độc lạ thời đó: phát nhạc quảng cáo ra rả trên loa phóng thanh gần các cửa hàng bách hóa và đặt biển quảng cáo ở những vị trí đắc địa của Sài Gòn.

"Nụ cười anh Bảy Chà" và đoạn quảng cáo "trồng lúa mới có gạo mà ăn, thế mà có người đã phải trồng răng mới có răng mà ăn" làm nên thời kỳ hoàng kim của Hynos vào những năm cuối thập niên 60. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Không chỉ nổi tiếng trong nước, Hynos còn được bán sang các nước trong khu vực Đông Nam Á và Hong Kong, trở thành một trong những biểu tượng thương mại đương thời.

Thực hiện chính sách quốc hữu hóa sau ngày giải phóng, Hynos được nhà nước tiếp quản và sáp nhập với một công ty cùng lĩnh vực thành Xí nghiệp Kem đánh răng Phong Lan, sau đó đổi tên thành Công ty Hóa phẩm P/S. Công ty có giai đoạn chiếm tới 60% thị phần kem đánh răng ở miền Nam. Ảnh: Bill Mullin

Giữa năm 1997, Tập đoàn Unilever đề nghị lập liên doanh trên tinh thần "win-win" với tổng vốn đầu tư hơn 17 triệu USD.

Trong thời gian hợp tác, Hóa phẩm P/S chỉ đảm nhận việc gia công vỏ hộp bằng nhôm mà không được sản xuất kem đánh răng như trước. Sáu năm sau ngày bắt tay, công ty bị đánh bật khỏi liên doanh kèm cam kết về sau không được sử dụng thương hiệu nổi tiếng bậc nhất lúc bấy giờ trên bất kỳ sản phẩm nào.

Đầu năm 2007, những lãnh đạo cũ thành lập Công ty cổ phần P/S để gầy dựng lại hoạt động kinh doanh. Công ty ban đầu gia công vỏ nhôm cho các doanh nghiệp dược phẩm, sau đó sản xuất kem đánh răng mang dòng chữ Hynos cùng hình ảnh quen thuộc "nụ cười anh Bảy Chà". Hàng hóa được tiêu thụ trong các khách sạn, resort và cũng xuất hiện rải rác trên sàn thương mại điện tử. Ảnh: Tommy Japan/Flickr

Tương tự Hynos, kem đánh răng Dạ Lan cũng có một thời lừng lẫy đầu thập niên 90 khi chiếm tới 90% thị phần từ Đà Nẵng trở ra phía Bắc. Thương hiệu này từng có lợi nhuận vài lượng vàng mỗi ngày.

Ông Trịnh Thành Nhơn, người sáng lập Dạ Lan, tự nhận thương hiệu của mình thời đó "là con gái đang độ tuổi xuân sắc" nên được nhiều doanh nghiệp nước ngoài như Colgate, Unilever, P&G đặt vấn đề hợp tác.

Năm 1995, Dạ Lan ký hợp đồng liên doanh với Colgate - thương vụ mà ông Nhơn gọi là "sai lầm lớn nhất cuộc đời". Thương hiệu khi đó được định giá 3,2 triệu USD và ông nắm 30%, đồng thời giữ chức phó tổng giám đốc trong công ty liên doanh.

Chưa đầy một năm hợp tác, Colgate bảo Dạ Lan càng kinh doanh càng lỗ nên cần nhường chỗ cho sản phẩm mang nhãn hiệu của họ. Colgate sau đó thông báo đã dùng hết vốn góp và vay ngân hàng. Khi ông Nhơn đồng ý góp thêm 10 triệu USD với điều kiện được làm tổng giám đốc, có toàn quyền điều hành, đối tác bác bỏ và khơi mào việc phá sản. Ảnh: Ông Trịnh Thành Nhơn cung cấp

Sau vài lần đàm phán căng thẳng, Colgate mua lại cổ phần của ông Nhơn với giá 5 triệu USD kèm điều kiện ông không được tham gia ngành hàng này trong 5 năm tiếp theo.

Ông Nhơn nỗ lực vực dậy thương hiệu Dạ Lan từ khoảng 2016, nhưng tự thừa nhận khoảng cách với những đơn vị dẫn đầu như P/S hay Colgate còn rất xa.

Ông cho biết mỗi ngày đều cố gắng phát triển lại Dạ Lan để bàn giao cho thế hệ sau này. "Tôi không can tâm nhìn con cái tiếp quản một công ty thua lỗ triền miên do mình gây nên. Khi tiền bạc bây giờ không phải là ưu tiên hàng đầu, tôi có một điều bất di bất dịch là không được để mất thương hiệu Dạ Lan bằng bất cứ giá nào", ông nói. Ảnh: Anh Nguyên

Phương Đông - Quỳnh Trần (Theo VnExpress)

Đọc bài viết

Cafe sáng