Phía sau trang sách

Những tháng năm rực rỡ: Người quan sát già cỗi hồn nhiên

Published

on

Để nói về “Những tháng năm rực rỡ” của tác giả Ae-ran Kim, tôi sẽ không bắt đầu bằng “Đây là câu chuyện kể về cặp cha mẹ trẻ nhất và đứa con già nhất…”, bởi nội dung chứa đựng trong sách còn hơn thế rất nhiều. Chắc chắn, tôi sẽ giới thiệu rằng đây là một câu chuyện kì lạ, về những nhân vật kì lạ, những đoạn hội thoại kì lạ bao trùm trong bầu không khí huyền ảo đan xen giữa mơ và thực, giữa quá khứ và hiện tại. Nơi đó, cậu bé Han Ah Reum đang tận hưởng mùa hè đầy nắng gió với chiếc bạt lò xo của mình. Những cú tung người của cậu làm lay động hoa cỏ, lay động cả những tán cây đậm màu xanh lục, dòng suối trong veo nơi bố mẹ cậu gặp nhau lần đầu, hòa vào tiếng ồn ã của đám ve sầu và chuồn chuồn ở đó. Khi Ah Reum bật nhảy, trái tim cậu ngân lên những rung cảm sâu sắc với cuộc đời, và bằng sóng rung ấy, cậu gửi đến bố mẹ những lời thì thầm, thấu hiểu và yêu thương như một người bạn. Ah Reum đang tiếp tục quan sát tất cả mọi người từ nơi của cậu, hết sức chăm chú với trái tim hiếu kỳ và tươi mới đón nhận mọi sự việc mà không phán xét của cậu bé 17 tuổi, cùng đôi mắt từng trải, thấu suốt nhân gian của một ông lão 80. Và ở đó, nơi mùa hè miên viễn của tuổi trẻ, cậu đang viết tiếp những câu chuyện về cuộc đời bằng một ngôn ngữ vô thanh. Ah Reum chẳng còn cảm thấy vốn từ vựng của mình bị xáo trộn khi cơn gió thổi qua nữa, bởi bây giờ cậu là gió, là không gian bao quanh và cứ rộng ra mãi…

Vẻ đẹp thiên nhiên trong cuộc sống của Ah Reum và mọi người thật sống động. Lấy bốn mùa làm những cột mốc để người ta nhìn lại một năm, bốn mùa cuối cùng của Ah Reum đã trôi qua thật rực rỡ. Mùa xuân đến một cách lặng lẽ âm thầm, nhưng có khả năng thay đổi cảnh vật chỉ trong chớp mắt với những màu sắc sặc sỡ như quần áo, đồ chơi trẻ con của một gia đình vừa chào đón đứa con đầu lòng. Rồi khi mùa hè đến, không khí ban đêm nặng nề và ngột ngạt đưa mùi hương thức ăn nhanh hỏng, chóng thiu đến những người khó ngủ. Mùa hè cũng là mùa nóng nực và công bằng, dù có lông hay không thì con người vẫn vã mồ hôi như tắm. Nhưng đó cũng là mùa thích hợp nhất để ăn món đá bào đậu đỏ và sữa theo kiểu truyền thống. Khi thu sang, đi đến đâu bạn cũng có thể nghe tiếng gió vi vu, vì ở nơi đâu cũng có gió. Màu vàng thay dần sắc xanh, rồi lại bị đẩy lùi bởi sắc đỏ. Gió như đang trút bỏ từng chút một chiếc áo mùa hè và kéo bật ngay cả những gốc rễ mùa hè đang ẩn sâu dưới lòng đất. Bầu không khí trong lành, se sắt được Ah Reum ví như hơi thở của Chúa. Những cơn gió liên tục thay đổi diện mạo để không ai có thể nắm bắt được. Vào những ngày nắng đẹp, mùa thu còn là hương cà phê ngọt ngào và êm dịu mà Ah Reum chưa từng được nhấp môi. Cậu ngồi đó ngắm nhìn những bệnh nhân sưởi nắng với chiếc áo len mỏng bên ngoài bộ đồng phục bệnh viện. Ngoài ra, khi phân tích một từ đồng nghĩa, Ah Reum còn khám phá ra rằng, mùa thu còn là mùa “liếc mắt đưa tình”, khoảng thời gian mọi vật phải thu hút sự quan tâm của kẻ khác giới trước khi cái giá rét của mùa đông kéo đến. Và cuối cùng, mùa đông cằn cỗi khiến cây rụng hết lá, nhường chỗ cho sự hiện diện của những bông tuyết. Bông tuyết có cấu tạo thật đẹp. Dù chỉ rơi lặng lẽ rồi tan ra ngay khi chạm đất, và không ai thấy được vẻ đẹp của chúng bằng mắt thường, nhưng chúng vẫn thật đẹp như thế đấy. Như Ah Reum vậy, cậu vẫn sống thật đẹp ngay cả khi biết mình phải sớm nói lời chào tạm biệt cuộc sống.

Ah Reum yêu quý sự biến đổi theo mùa, và hơn ai hết cậu hiểu rõ sức mạnh to lớn của quy luật tự nhiên ẩn sau những ngày tháng nối tiếp bình yên và tẻ nhạt. Chỉ khi không dễ dàng có được một điều gì đó, người ta mới biết rằng mình đã xem nhẹ những phúc lành ấy đến nhường nào. “Ở cái tuổi mà chúng ta điềm nhiên hút cạn sinh khí của những tạo vật bung nở rồi lụi tàn, ngạo nghễ tưởng rằng mình như không bao giờ chết, thì cũng là đã lao đến đỉnh cao của khoảnh khắc huy hoàng ngắn ngủi ấy”.

Cũng như thiên nhiên và cuộc sống, Ah Reum tha thiết yêu thương bố mẹ mình. Bởi ngoài đặc ân được bố mẹ mang đến cuộc đời, qua việc viết lại câu chuyện của bố mẹ, cậu còn hiểu hơn về chính mình và sống tiếp cuộc đời mình sau tuổi 17.

Cậu được khoác vào cơ thể khỏe mạnh cường tráng và những khao khát tuổi mới lớn của bố Han Dae Soo; được chạm trán với những rắc rối của tuổi thiếu niên và chịu đựng những áp lực, bất công đầu đời. Cậu được phạm sai lầm và trả giá cho sai lầm đó. Cậu được phép thất bại, đau đớn và vượt qua nỗi đau. Cậu có nhiều thời gian để băn khoăn và bất an về tương lai vô định phía trước. Cậu nhận được một cô bạn gái trời ban và trở thành bố khi chưa hiểu hết về cuộc đời, phải học những thứ mới tinh để chăm nom một đứa trẻ và dù vất vả đến thế nào đi nữa, khi ngắm nhìn con trẻ, mọi mỏi mệt dường như tan biến khi cậu nảy ra muôn vàn thắc mắc về đứa bé. Khi con trẻ lớn, cậu cũng được lớn lên theo mà vẫn giữ lại tâm hồn của tuổi 17. Ngay giây phút nó bệnh, cậu vẫn cảm thấy hạnh phúc, may mắn vì cả gia đình được ngồi cạnh nhau yên bình và cùng ăn một bát canh cá.

Cậu cũng có thể hiểu nỗi lòng của người mẹ thiếu nữ Choi Mi Ra. Dường như má cậu cũng ấm nóng hơn khi mẹ thẹn thùng trong những buổi giao lưu gặp mặt người khác phái. Cậu cũng thất thểu bước đi khi ước mơ trở thành ca sĩ của mẹ tan tành vì gia đình còn nhiều định kiến. Cũng như bố, mẹ cậu cũng mông lung không biết cuộc sống sắp tới sẽ như thế nào. Rồi mẹ bước vào chuyến phiêu lưu không thể quay đầu lại với một người con trai đồng cảnh ngộ, dũng cảm bỏ lại sau lưng tiếng cười khúc khích vô tư thời con gái để trở thành một người mẹ tận tâm, cố gắng ngẩng cao đầu tự hào về đứa con đang mang cho đến khi niềm tự hào ấy trở thành sự thật. Có lẽ nhờ sự tự hào của mẹ truyền sang khi còn trong bụng mà Ah Reum có thể lạc quan đến thế. Dù thế nào đi nữa, cậu cũng không oán trách cuộc đời mà ngược lại, vẫn ngắm nhìn cuộc sống với góc nhìn dí dỏm và tràn đầy biết ơn.

Cứ thế, cậu được sống tiếp qua cuộc sống của người khác, sống đến khi già cỗi và thông thái mà vẫn còn bố, người thậm chí còn già cỗi và thông thái hơn như ông Jang lớn và ông Jang bé. Cậu có thể trải nghiệm lòng dũng cảm của việc tỏ tình và sức mạnh tự tin của một anh chàng không mấy sắc vóc như chú Seung Chan. Cậu được giận dữ và bất mãn trước một người nhẫn tâm lợi dụng đứa trẻ bệnh tật để lấy chất liệu viết văn. Và hơn hết, cậu có thể nếm trải trọn vẹn hương vị tình yêu, dù là đang chớm nở như nụ hoa, chín đỏ mọng như trái hồng, hoặc cả khi nó không có thật và đắng chát như một ngụm rượu Soju trên đầu lưỡi. Cậu đã trải nghiệm tất cả những điều đó qua từng câu chữ và vô cùng mãn nguyện.

Hình ảnh khu phố, bệnh viện, ngôi nhà làm phông nền cho câu chuyện của nhân vật hiện lên thật nhẹ nhàng và ấm áp. Những vất vả và khó khăn diễn ra trong suốt quá trình từ khi Ah Reum hoài thai cho đến khi cậu chào đời, khi bố mẹ vật lộn với mưu sinh và cả nhà cùng nhau chiến đấu với căn bệnh của cậu, đặc biệt là những cơn đau thể xác và nỗi cô đơn cùng cực mà Ah Reum phải một mình chịu đựng đều không thể nào diễn tả. Nhưng tất cả đều trở nên nhẹ bẫng dưới góc nhìn trong trẻo của Ah Reum. Hoặc cũng có thể, cậu đã vận dụng sức mạnh từ tâm hồn chững chạc của mình để xóa đi mọi cảm xúc bi lụy và viết lại cuộc sống thành một câu chuyện nên thơ, mộc mạc, không nặng nề nhưng vẫn dễ dàng chạm đến trái tim.

Ah Reum là biểu tượng của lòng ham sống và tình yêu cuộc sống. Chỉ khi đứng ở vị trí của một người khao khát được trải nghiệm nhưng phải rời đi quá sớm, chúng ta mới thấy rằng cuộc sống này tươi đẹp và đáng sống biết bao. Nơi ấy, mọi thứ đều là phước lành, kể cả những vấp ngã, sai lầm đáng thất vọng và thậm chí trở thành nỗi buồn của ai đó là điều không phải người nào cũng có cơ hội trải nghiệm. Tận hưởng từng khoảnh khắc được sống, trân trọng bản thân không hoàn hảo, yêu thương và tha thứ cho sự chưa sẵn sàng của bố mẹ… đó là cách mà Ah Reum đã sống. Vừa tách mình ra như một đài quan sát để nhìn sự việc như chính nó là, cậu vừa hòa mình bằng thân phận của một mảnh đời nhỏ xíu, tưởng như chẳng đáng kể nhưng lại góp phần điểm tô cho cuộc sống tươi đẹp và đa dạng hơn.

Dáng hình nhỏ bé nhưng mạnh mẽ của Ah Reum như một lời nhắn nhủ, động viên chúng ta rằng: Hãy thêm yêu cuộc sống và sống trọn vẹn đời mình! Đừng chán ghét cơ thể mình vì nó chưa hoàn hảo, hãy tạ ơn vì chúng vẫn lành lặn và hoạt động tốt. Đừng thoái chí trước những thất bại và lầm lỡ, hãy hân hoan vì có thể bắt đầu lại vào ngày mai. Đừng lo âu trước tương lai vô định, hãy trân trọng vì điều đó cho thấy chúng ta vẫn còn nhiều thời gian. Đừng ủ dột vì những điều nhỏ nhặt chưa vừa ý, ngoài kia chẳng phải còn rất nhiều vẻ đẹp đang chờ bạn ngắm nhìn sao? Đừng thổi phồng những khó khăn, đừng bi quan trước nghịch cảnh, đừng chờ đợi, băn khoăn mà hãy thực hiện ngay những mơ ước của mình. Hãy thức dậy khoan khoái và tràn đầy năng lượng, hãy quan sát cảnh vật và con người với thật nhiều yêu thương, hãy làm mọi việc với lòng say mê và tâm huyết, hãy tận hưởng mọi thứ nhỏ nhoi như thể đó là món quà tuyệt vời nhất.

Cuộc sống không định nghĩa con người bạn, ngược lại, chính bạn là người lựa chọn gam màu cho bức tranh cuộc sống của mình. Như cách Ah Reum cố gắng thu nhặt thật nhiều hình ảnh và cảm xúc trong từng phút giây được sống từ lời kể của họ hàng, sách vở và từ góc nhìn của cậu đối với thế giới xung quanh, những hình ảnh và cảm xúc ấy cũng đã cô đặc lại và tạo nên danh tính của riêng cậu. Nếu các cô cậu học trò trạc tuổi Ah Reum có chiếc thẻ tên gắn trên bộ đồng phục học sinh cấp ba, cậu cũng có cho mình một chiếc thẻ như thế. Trên đó sẽ ghi rằng “Trường học cuộc đời, Han Ah Reum, lớp Tận hưởng mỹ vị cuộc sống”.

Về tác giả

Ae-ran Kim sinh năm 1980 tại Chungnam, Hàn Quốc, tốt nghiệp khoa Biên kịch Đại học Quốc gia Seoul. Từ khi còn trẻ, tác giả đã giành được nhiều giải thưởng văn học danh giá cho cả hạng mục tiểu thuyết và truyện ngắn, được đánh giá là cây viết tài năng trong làng văn học Hàn Quốc. Tác phẩm của Ae-ran Kim tập trung vào hình ảnh con người trong cuộc sống hiện đại, khéo léo đưa ra cái nhìn mới mẻ về xu hướng thay đổi của cuộc sống, trong đó nổi bật là câu chuyện của người trẻ Hàn Quốc trong quá trình đô thị hóa nông thôn.

Những tháng năm rực rỡ (Tựa gốc: My Brilliant Life) là cuốn tiểu thuyết Ae-ran Kim lấy cảm hứng từ truyện ngắn “Dị nhân Benjamin” (The Curious Case of Benjamin Button) của tác giả F. Scott Fitzgerald và thổi vào làn gió mới của yếu tố nội tâm, tình cảm gia đình đặc trưng của văn học Hàn Quốc. Cuốn sách đã trở thành tác phẩm bán chạy nhất tại Hàn Quốc và được dựng thành bộ phim cùng tên vào năm 2014.

Tự đánh giá Những tháng năm rực rỡ là mầm cây nảy từ những hạt giống đã gieo trồng trong những truyện ngắn trước đó, nữ nhà văn cho rằng đây là cột mốc đánh dấu thời khắc cô vượt lên khỏi câu chuyện của chính mình, quan tâm hơn đến những mảnh đời xung quanh. Điều đó được thể hiện rõ qua cái nhìn bao dung, cảm thông của tác giả về đôi vợ chồng trẻ con, đại diện cho những người đã đi lệch khỏi quỹ đạo được xem là đúng đắn của cuộc đời. Mỗi người có một hoàn cảnh khác nhau, không có gì đúng hay sai bởi mọi thứ trong cuộc đời mỗi người là điều phải diễn ra và được sắp đặt để diễn ra.

Vào tháng 1 năm 2021, phiên bản tiếng Anh của cuốn sách đã phát hành tại Mỹ và được Tạp chí The Oprah Magazine bầu chọn là cuốn sách hay nhất trong tháng. Cũng như ở Châu Á, tác phẩm cũng để lại trong lòng người đọc phương Tây phong vị nhẹ nhàng, tinh tế, thấu hiểu và có sức mạnh lay động trái tim.

Hạ Nhiên

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng