Phía sau trang sách

Như núi như mây: Nỗi đau đồng sàng dị mộng

“Sống trong cảnh đồng sàng dị mộng thật khổ tâm vô cùng, không chỉ cho mình mà còn cho người phải ở với mình nữa”.

Published

on

Thoáng qua

Những cơn gió cứ liên tục thổi bay mây, nhưng dẫu mây có bay đi ngàn năm rồi thì cũng về lại với núi.” – đó là câu nói mở đầu cho chuyện dài tưởng như bất tận của Như núi như mây. Khởi đầu bằng tình cảm thiếu thời của hai cô cậu học trò đương lúc Saigon vươn mình yên ả để rồi sau đó là những biến động năm 75, tiếp tục là sức ảnh hưởng to lớn của bóng ma tư tưởng ngộp thở,… tất cả khiến họ trở thành những đường mải miết không hề giao cắt. Bẵng một thời gian, số kiếp băng qua ngã rẽ của từng người một, đâm vào nghi hoặc, cuối cùng cũng gặp nhau, hàn gắn và rồi mất mát,… tất cả xoay vòng như một thân thế phù du trôi nổi giữa kiếp người này. Với một kết cấu rất dễ bắt gặp ở những tiểu thuyết thiên về tình cảm hiện đại, Nguyễn Đông Thức lầm lì nhấn phanh bơm đầy thứ hơi số phận tréo ngoe vào trong lớp vỏ tưởng như thường tình và phổ biến ấy, thổi chúng căng phồng, căng mãi, căng mãi, để rồi vỡ tung ra từng mảnh nhỏ. Soi chiếu từng mảnh đau thương bằng con mắt nhân quần sau những mỏi mệt đi dọc câu chuyện, dễ dàng ta thấy chìm ẩn đâu đó là những thân phận, là một thời đoạn đầy những bấp bênh dễ chừng lật nhào sau cơn bão lớn.

1. Cơn mộng thứ nhất – Vỏ bọc đẹp đẽ

Một cách trực quan và chiếm đa số thời lượng, Như núi như mây được Nguyễn Đông Thức xây dựng như cuộc rượt đuổi thân phận theo đúng tiến trình của một mô tuýp quen thuộc: mở đầu là những trùng hợp khó tin, tiếp sau là những cao trào nút thắt đi đến đỉnh điểm và cuối cùng là những thoái trào của cơn đè nén suốt chặng đường dài. Nguyễn Đông Thức biết cách giữ nhịp tiểu thuyết, khi luôn đưa ra những khúc quanh mới, để rồi phân chúng thành từng ngã nhỏ, đưa nhiều lựa chọn và hướng nhân vật vào khúc cua nghiệt ngã nhất. Ông dùng những diễn biến ngoại cảnh cùng tâm lí nhân vật như mạch nguồn nuôi sống những đường dây này. Đọc Như núi như mây, ta dễ bắt gặp những nét tương đồng với đầy rẫy tác phẩm ngoài kia: chuyện tình ngang trái một phần nào đó hình dáng Shakespeare, chênh lệch giai cấp cổ hủ gọi mời nhân ảnh Hồ Biểu Chánh, những gian khổ đấu tranh lại đầy rẫy hình bóng Enrique Maria Remarque,… tất cả tựu hình chung nổi bật lên tính phổ biến, một phần tạo nên sự tiếp cận ban đầu dễ chừng thân quen để rồi tăng đều lũy tiến; nhưng cũng đồng thời gây ra một sự nhàm chán đối với những ai yêu thích cái lạ. Thế nhưng một điểm nổi bật dễ nhận ra trong tiểu thuyết này là Nguyễn Đông Thức đã mang tất cả những cái chung chung ấy vào cùng một chỗ, để rồi đưa vào phông nền vô cùng địa phương, hay nói cách khác, gắn mác địa danh lên chính thành phẩm. Và chính yếu tố made in Vietnam này lại làm cho tác phẩm vượt lên theo một mặt khác.

Đọc Như núi như mây, ta thấy hiện lên một Saigon vẫn là nó nhất vào những ngày cuối cùng của một phế tích tráng lệ. Chưa khi nào người ta miêu tả Saigon bằng những lần xem phim ở tầng 2 rạp Eden hay vào La Pagode uống cà phê và nghe nhạc máy jukebox như Nguyễn Đông Thức; cũng chưa bao giờ thấy nhắc đến những vũ trường Catinat, những cục xà bông Cô Ba, thuốc lá Samit hay kem UB trong một tác phẩm văn chương của thời hiện đại. Nói một cách khác, Saigon vẫn luôn sống động trong mỗi câu chuyện của ông, nó là linh hồn chứa đựng những nét riêng biệt cho toàn tác phẩm, nhưng cũng đồng thời, tồn tại song song trong ký ức những người xưa cũ hay tạo lập lát cắt héo úa cho lớp người sau. Và bằng việc tạo cho Saigon một chỗ đứng riêng, Nguyễn Đông Thức cũng đồng thời tạo riêng cho câu chuyện mình một sự cuốn hút khó thể tách rời.

Một thuộc tính khác làm cho Như núi như mây trở nên riêng biệt trong khu rừng đầy những tương đồng đó là thời đoạn. Việc chọn Saigon những năm 70 đầy những đổi thay chính trị khi cao trào giữa quân Giải phóng và phía miền Nam đang lên cao trào một phần làm nên tính chất địa phương cho toàn tác phẩm, đồng thời như là đường dây vận động xuyên suốt của những diễn biến sau này. Việc đôi lứa lìa xa cũng từ chiến tranh loạn lạc, việc cả gia đình chạy về miền Tây cũng từ công cuộc thanh lọc toàn diện chế độ cũ, cho đến chi tiết vượt biên, gặp cướp biển, di cư sang Mỹ, Pol Pot… tất cả xảy ra trong một thời đoạn ắt hẳn phải thế. Việc tính toán chi ly suốt một quãng dài để rồi gặp nhau khi đất nước mở cửa được Nguyễn Đông Thức tính toán kỹ càng, một phần cho thấy câu chuyện đương thời phải thế nhưng cũng đồng thời phản ánh lịch sử một thời đoạn dài.

Điều đáng nói thứ hai là Nguyễn Đông Thức đã một lần nữa không làm người đọc thất vọng bằng những điểm mạnh vốn có của mình. Nếu từng thân quen những chuyện học đường vô cùng ngờ nghệch trong Vĩnh biệt mùa hè hay khoảng thời gian thanh niên sôi nổi của Ngọc trong đá; thì với Như núi như mây ta lại như được sống dậy trong không khí ấy thêm một lần nữa. Nguyễn Đông Thức hiểu và biết cách xoay chuyển tình thế vô cùng nhịp nhàng khi lái câu chuyện vào vùng địa phận thân quen của mình. Ông từ tốn ở đó, từ tốn kể chuyện bằng những câu chữ chắc nịch, để đọc rồi lại thấm thía, rồi lại ước mơ. Từ những thân quen, ông chuyển câu chuyện theo một khía cạnh hoàn toàn khác lạ, dưới một góc nhìn không thể không có trong những tiểu thuyết tình yêu – những dục vọng thể xác. Những sự tiếp xúc về mặt thể xác trong văn ông không đóng một vai chủ chốt như Murakami hay Tanizaki (tuy về mức độ bạo dạn và dữ dội có thể đong đếm ngang ngửa) mà được thêm vào như cách biểu đạt tình yêu không hề che giấu, mà xét ở thời điểm tác phẩm ra đời, đã là một thay đổi đi sâu vào bản chất sự việc rất đáng ghi nhận. Cùng với Ma Văn Kháng ở mảng truyện ngắn; Nguyễn Đông Thức đã góp tên tuổi mình cùng Thuận, Đỗ Hoàng Diệu,… đi sâu khám phá bản thể con người.

2. Cơn mộng thứ hai – Nhát dao rách toạc

Như núi như mây hẳn nhiên như đã nói trên, mang trong mình một sự sóng đôi gần giống tựa đề của nó, khi vừa là một tiểu thuyết tình yêu, vừa là nỗi đau thân phận. Nếu Nguyễn Đông Thức chọn lớp vỏ tình yêu để làm phần nổi đẩy ra trước mắt người đọc, thì cái thấm thía về thân phận từ phía đằng sau như những nhát dao đâm lên lổm chổm. Cái hay là Nguyễn Đông Thức vừa không che giấu hoàn toàn phía sau để người đọc tự mình nhận ra, cũng không để nó lồ lộ trước mắt như những bài ca lịch sử; mà bằng lối viết xen kẽ, ông để hai yếu tố đan cài bổ sung cho nhau đầy tính hợp lí. Như núi như mây là bản trường ca dài từ số phận của người phụ nữ, mở rộng ra hơn là số phận của người di cư và rồi cuối cùng to lớn hơn, là số phận cả thời đoạn dông dài đầy đủ bất trắc.

Lấy hình ảnh những người phụ nữ làm nhân vật chính đi suốt câu chuyện, Nguyễn Đông Thức như muốn khởi đầu từ cái nhỏ nhất, từ sinh thể từ xưa đến nay vẫn luôn được coi là thành tố phụ. Những người phụ nữ trong tác phẩm này chịu nhiều đau thương, họ cùng có vẻ duy mĩ về sắc vóc nhưng cuộc đời lại bi thương đến không ngờ. Vân từ một thiếu nữ cái gì cũng có, muốn gì cũng được như bước ra từ trang viết của Hồ Biểu Chánh; lại sớm dằn vặt đau khổ trước những ngang trái yêu đương khi vẫn lại là vấn đề muôn thuở – giai cấp. Đến khi vùng mình thoát dậy, thời đoạn lịch sử lại nện cho cô những đòn đau điếng. Cuối cùng sau bao khó khăn tìm được bến đỗ, đời sống lại làm teo tóp dần đi khoảng thởi gian ấy. Hình ảnh Liên – một cô gái thanh niên xung phong bám víu vào tình yêu như một bản ngã, để rồi bị phản bội trong tâm tưởng, dằn vặt, học thích nghi và rồi tự mình phản bội. Khác với Dạ Ngân là một phụ nữ viết về phụ nữ vô cùng thành công trong Gia đình bé mọn, Nguyễn Đông Thức viết về những người phụ nữ trong đây với vẻ nâng niu cho một thân phận đã quá mỏi mệt. Tuy đôi khi những trúc trắc hay cách sắp xếp làm nên diễn tiến khiên cưỡng nhô mình vươn ra góc cạnh xù xì chưa được gọt giũa, nhưng nếu nhìn nhận dưới góc độ của một tâm hồn văn chương, thì đó là lời cứu vớt cho những thân phận quá ư chìm nổi. Để rồi sau này mượn một câu nói của Vân, ông viết như cách ta đồng thuận ngầm đầy vẻ cam chịu: “Cuộc sống là vậy, ai cũng phải gạt nước mắt đi tới chứ không thể cứ ngồi than khóc mãi chuyện quá khứ”.

Từ hành trình những người phụ nữ đi tìm tình yêu, Nguyễn Đông Thức hòa cơn bão nhỏ thành những trái ngang của một thời đoạn đầy những con người trong cơn bão lớn. Miền Nam thất thủ năm 75 như một cú sốc lớn cho phe Cộng hòa khi chỉ sau một đêm, từ một người có tất cả đã trở thành không có gì, báo hiệu cho một số phận bấp bênh hiện ra trước mặt. Để chạy trốn cuộc sống kham khổ trước khi Cách mạng ào vào Saigon, lớp tiểu tư sản chỉ còn duy cách vượt biên để rồi trở thành cánh buồm ngoài xa heo hút tâm hồn. Họ bỗng trở thành những người xa lạ, những người không có quê hương, những người chạy trốn vì chính lựa chọn đã gây ra kết cục cho họ thế này. Bị xếp vào hạng người tị nạn, họ vật vờ hiu hắt dáng hình phản chiếu dưới những cơn sóng, phía Tây là tổ quốc trước mặt nhưng không sao về được, rồi cướp biển, trấn lột, cưỡng hiếp… từ một ước mơ ban đầu khiến họ hóa điên. “Nhiều người trong số họ chấp nhận liều mạng đơn giản chỉ vì mong được đổi đời, có một cuộc sống khá hơn trên vùng đất hứa. Nhưng cũng có những người ra đi vì lý do khác. Họ có thể chấp nhận đói khổ, nhưng phải được đối xử công bằng. Họ vất vả cả đời, nhưng ít nhất họ phải còn niềm tin rằng con cái mình sẽ có cơ hội để được vươn lên bằng con người khác… Không có những điều đó, thì có chết họ cũng ra đi.” Thiếu nước ngọt làm họ hóa điên, chứng kiến gia đình tàn sát khiến họ hóa rồ, thần kinh của những người con thời đại này thật quá mong manh khi ánh chớp số phận vừa lóe lên chào.

Nguyễn Đông Thức miêu tả cuộc sống trên trại tị nạn Pulau Bidong thuộc Indonesia chân thực đến từng mảnh đời, tương tự như những trang viết ta từng bắt gặp trong những câu chuyện tị nạn của Pachinko (Min Jin Lee) hay Thoát đến phương Tây (Mohsin Hamid). Ở đó con người vật vờ tựa những ngọn cỏ đắm mình trong ánh hoàng hôn. Những người điên, người lờ đờ dở dở ương ương có mặt ở khắp mọi nơi. Những căn bệnh tâm lý trầm kha lại làm tăng thêm cái vẻ ảm đạm bọc ngoài tác phẩm. Nguyễn Đông Thức khoét sâu vào lòng vết thương, phơi ra hiện thực tưởng như đau đớn và cho ta thấy tâm lý con người có thể mỏng manh đến mức độ nào.

Từ những bước ngoặt lịch sử đó, Nguyễn Đông Thức lẳng lặng phác họa những nét chìm nổi về tính cách nhân quần dẫu cho có quá tiêu cực hay không, khi vào những dịp đặc biệt luôn được phơi bày một cách rõ ràng. Trước tin thắng trận năm 75 ông viết: “Những người lính thua trận vẫn còn lầm lũi đi về như những bóng ma, bên cạnh đoàn quân hôi của đang mệt lử đẩy về nhà những chuyến hàng cuối cùng”. Con người vẫn luôn là thể đa bào lạ lẫm với thâm tâm trong suốt, dường như tùy vào thời đoạn mà được nhuộm thứ màu nào vào trong những ô lưới nhỏ. Những câu chuyện vượt biên đi xa, chạy loạn về miền Tây khi Biên Hòa đang dần thất thủ… tất cả phản ánh nên một thế hệ con người sống động trong những ghì ép thời đoạn. Bên cạnh đó, thế hệ người-trong-bao sau độc lập tin tưởng quá mù quáng vào một lý tưởng hay những người Việt sau khi vượt biên thành công đến Mỹ định cư, dùng thủ đoạn phá giá để tự giết nhau, khiến người Mỹ vì không chịu được bầu không khí trở nên rẻ mạt ấy, đã nhường hết cho họ một phố quận Cam để rồi lẳng lặng ra đi, bước khỏi ngôi nhà của mình… tất cả được khắc họa rõ nét trong tác phẩm này thành một cõi nhân quần rất nhiều xáo trộn.

3. Tỉnh giấc

Như một tấm gương phản xạ những thứ song ánh, Như núi như mây của Nguyễn Đông Thức mang trong mình bộ mặt của một tiểu thuyết thân phận. Xuyên suốt chiều dài của cả tiểu thuyết là những cuộc rượt đuổi tưởng chừng mệt lử của số phận áp lên con người, khi nhu cầu cơ bản nhất của họ lâm vào ngõ cụt. Trong sáng, mưu mô, phản kháng, cam chịu,… đầy đủ các mặt sắc của đời sống tinh thần được thứ dịch xót xa của trúc trắc nuôi dưỡng và một kết cục dễ thấy biểu hiện thành hình. Có thể nói đây là một tiểu thuyết lãng mạn được gia công bởi một tay bút chắc tay, mang đậm dấu ấn thế hệ, dấu ấn Saigon. Nếu bỏ qua sự tham lam vài lần về những sắp xếp bố cục hay ôm đồm quá nhiều chi tiết vào trong, thì Như núi như mây là một tác phẩm vạch tung số phận con người, từ những phụ nữ đến người chạy loạn; từ người tị nạn đến cả nhân quần, tất cả xuất hiện và đứng vào hàng ngũ tiến hóa trên từng nấc thang nhân loại được Nguyễn Đông Thức sắp đặt và đưa vào canh gác từng vị trí trong mạch truyện mình.

Hết.

Ngô Thuận Phát


Đọc tất cả những bài viết của Ngô Thuật Phát.


Phía sau trang sách

Giải mã hạnh phúc: Khám phá nguồn gốc của niềm vui và sự hài lòng

Liệu có bí mật nào cho hạnh phúc? Đây là câu hỏi đã xuất hiện từ hàng thập kỷ trước, và nhiều triết gia, lãnh tụ tôn giáo cũng như nhà khoa học đã đưa ra câu trả lời của riêng họ. Nhưng liệu có thể dùng khoa học để giải mã sự mưu cầu hạnh phúc được không?

Published

on

Hãy cùng đến với “Giải mã hạnh phúc”. Đây là một giả thuyết được đưa ra bởi chuyên gia tâm lý Jonathan Haidt, cho rằng hạnh phúc đến từ những khao khát nội tâm và đồng thời cũng đến từ các yếu tố bên ngoài. Nói cách khác thì hạnh phúc vừa là “bẩm sinh”, vừa là “nuôi dưỡng”.

Cụ thể thì như vậy nghĩa là gì? Hãy cùng phân tích các thành phần tạo nên “Giải mã hạnh phúc”, cũng như cách ứng dụng chúng vào cuộc sống để tìm kiếm niềm vui và sự hài lòng.

Bẩm sinh

Yếu tố di truyền đóng một vai trò nhất định trong cảm nhận chung về hạnh phúc của chúng ta. Một số người sinh ra đã có cái nhìn lạc quan, trong khi những người khác có thể phải vật lộn với lo âu và trầm cảm. Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhớ là mặc dù di truyền có thể ảnh hưởng đến mức độ hạnh phúc cơ bản, nhưng chúng không phải là yếu tố quyết định duy nhất.

Nuôi dưỡng

Môi trường và trải nghiệm cũng định hình hạnh phúc, điều này  bao gồm các mối quan hệ, công việc và thậm chí cả cộng đồng nơi chúng ta sống. Bằng cách tạo ra một môi trường hỗ trợ và trọn vẹn, chúng ta có thể nuôi dưỡng hạnh phúc lớn hơn trong cuộc sống.

Cân bằng giữa mong muốn và hoàn cảnh: “Giải mã hạnh phúc” cho rằng chúng ta có thể tìm thấy hạnh phúc bằng cách cân bằng giữa mong muốn bên trong và hoàn cảnh bên ngoài. Ví dụ, nếu bạn có mong muốn mạnh mẽ về an ninh tài chính, có thể bạn cần tìm một công việc mang đến nguồn thu nhập ổn định. Mặt khác, nếu bạn có niềm đam mê sâu sắc với sự sáng tạo, việc theo đuổi một sự nghiệp cho phép niềm đam mê đó phát triển có thể quan trọng hơn.

Vậy, làm cách nào để áp dụng “Giải mã hạnh phúc” vào thực tiễn? Dưới đây là một vài mẹo giúp bạn tìm thấy niềm vui và sự hài lòng trong cuộc sống:

1. Xác định các giá trị của bản thân: Hiểu được điều gì thực sự quan trọng với bạn có thể giúp định hướng các quyết định và tạo ra một cuộc sống viên mãn hơn.

2. Nuôi dưỡng các mối quan hệ: Mối quan hệ bền chặt với gia đình và bạn bè có thể mang lại tình yêu thương, sự hỗ trợ và cảm giác được thuộc về.

3. Theo đuổi đam mê: Tham gia vào các hoạt động và sở thích mang lại niềm vui có thể làm tăng cảm giác hạnh phúc và hài lòng.

4. Thực hành lòng biết ơn: Dành thời gian để trân trọng những điều tốt đẹp trong cuộc sống, dù nhỏ bé, có thể làm tăng cảm giác hạnh phúc tổng thể của bạn.

5. Cho đi: Giúp đỡ người khác có thể mang lại ý nghĩa và sự trọn vẹn cho cuộc sống của chúng ta.

Jonathan Haidt là một nhà tâm lý học và nhà tâm lý học xã hội, nổi tiếng với các công trình nghiên cứu về tâm lý học đạo đức và tâm lý học tư tưởng chính trị. Ông là giáo sư ngành Lãnh đạo Đạo đức tại Trường Kinh doanh Stern thuộc Đại học New York, và đã xuất bản một số cuốn sách và nhiều bài báo nghiên cứu trong lĩnh vực tâm lý học.

Các công trình của Haidt thường tập trung vào ý tưởng rằng niềm tin và giá trị đạo đức của chúng ta được hình thành bởi nhiều yếu tố, bao gồm văn hóa, sự nuôi dạy và kinh nghiệm cá nhân. Ông lập luận rằng đạo đức không chỉ là vấn đề lý trí mà còn bị ảnh hưởng bởi cảm xúc và trực giác của chúng ta.

Một trong những đóng góp đáng chú ý nhất của Haidt cho lĩnh vực tâm lý học là mô hình “trực giác xã hội” về phán đoán đạo đức. Mô hình này cho rằng các phán đoán đạo đức thường dựa trên những đánh giá tự động, vô thức về các tình huống, thay vì lý luận có ý thức và có chủ ý. Công trình này thách thức quan điểm truyền thống cho rằng việc ra quyết định đạo đức là một quá trình hoàn toàn lý trí, và nhấn mạnh tầm quan trọng của cảm xúc và trực giác trong việc hình thành niềm tin đạo đức của chúng ta.

Nghiên cứu của Haidt cũng đã khám phá vai trò của đạo đức trong hệ tư tưởng chính trị, và ông đã chỉ ra rằng những người theo chủ nghĩa bảo thủ và tự do thường có nền tảng đạo đức khác nhau. Ví dụ, những người theo chủ nghĩa bảo thủ có xu hướng coi trọng các giá trị như lòng trung thành, quyền lực và sự thiêng liêng, trong khi những người theo chủ nghĩa tự do có xu hướng coi trọng sự công bằng và chăm sóc. Haidt lập luận rằng những khác biệt về đạo đức này đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình thái độ và hành vi chính trị.

Các công trình của Haidt đã được trích dẫn rộng rãi và nhận được nhiều giải thưởng, bao gồm Giải thưởng William James Fellow từ Hiệp hội Khoa học Tâm lý. Các cuốn sách của ông được ca ngợi vì dễ tiếp cận và chứa đựng những hiểu biết sâu sắc về tâm lý con người.

Nhìn chung, những đóng góp của Jonathan Haidt cho lĩnh vực tâm lý học đã làm sáng tỏ vai trò của đạo đức và cảm xúc trong việc định hình niềm tin và hành vi, đồng thời giúp mở rộng hiểu biết về sự phức tạp của tâm trí con người.

Tóm lại, “Giải mã hạnh phúc” nhắc nhở chúng ta rằng hạnh phúc là sự kết hợp của cả bẩm sinh và nuôi dưỡng. Bằng cách cân bằng những mong muốn bên trong với hoàn cảnh bên ngoài, chúng ta có thể tạo ra một cuộc sống viên mãn và vui vẻ hơn. Vậy nên, hãy thử kiểm chứng “Giải mã hạnh phúc” và xem liệu nó có khiến bạn hạnh phúc hơn không nhé!

Lam dịch từ MindfulMac

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Cafe sáng