Phía sau trang sách

Như núi như mây: Nỗi đau đồng sàng dị mộng

“Sống trong cảnh đồng sàng dị mộng thật khổ tâm vô cùng, không chỉ cho mình mà còn cho người phải ở với mình nữa”.

Published

on

Thoáng qua

Những cơn gió cứ liên tục thổi bay mây, nhưng dẫu mây có bay đi ngàn năm rồi thì cũng về lại với núi.” – đó là câu nói mở đầu cho chuyện dài tưởng như bất tận của Như núi như mây. Khởi đầu bằng tình cảm thiếu thời của hai cô cậu học trò đương lúc Saigon vươn mình yên ả để rồi sau đó là những biến động năm 75, tiếp tục là sức ảnh hưởng to lớn của bóng ma tư tưởng ngộp thở,… tất cả khiến họ trở thành những đường mải miết không hề giao cắt. Bẵng một thời gian, số kiếp băng qua ngã rẽ của từng người một, đâm vào nghi hoặc, cuối cùng cũng gặp nhau, hàn gắn và rồi mất mát,… tất cả xoay vòng như một thân thế phù du trôi nổi giữa kiếp người này. Với một kết cấu rất dễ bắt gặp ở những tiểu thuyết thiên về tình cảm hiện đại, Nguyễn Đông Thức lầm lì nhấn phanh bơm đầy thứ hơi số phận tréo ngoe vào trong lớp vỏ tưởng như thường tình và phổ biến ấy, thổi chúng căng phồng, căng mãi, căng mãi, để rồi vỡ tung ra từng mảnh nhỏ. Soi chiếu từng mảnh đau thương bằng con mắt nhân quần sau những mỏi mệt đi dọc câu chuyện, dễ dàng ta thấy chìm ẩn đâu đó là những thân phận, là một thời đoạn đầy những bấp bênh dễ chừng lật nhào sau cơn bão lớn.

1. Cơn mộng thứ nhất – Vỏ bọc đẹp đẽ

Một cách trực quan và chiếm đa số thời lượng, Như núi như mây được Nguyễn Đông Thức xây dựng như cuộc rượt đuổi thân phận theo đúng tiến trình của một mô tuýp quen thuộc: mở đầu là những trùng hợp khó tin, tiếp sau là những cao trào nút thắt đi đến đỉnh điểm và cuối cùng là những thoái trào của cơn đè nén suốt chặng đường dài. Nguyễn Đông Thức biết cách giữ nhịp tiểu thuyết, khi luôn đưa ra những khúc quanh mới, để rồi phân chúng thành từng ngã nhỏ, đưa nhiều lựa chọn và hướng nhân vật vào khúc cua nghiệt ngã nhất. Ông dùng những diễn biến ngoại cảnh cùng tâm lí nhân vật như mạch nguồn nuôi sống những đường dây này. Đọc Như núi như mây, ta dễ bắt gặp những nét tương đồng với đầy rẫy tác phẩm ngoài kia: chuyện tình ngang trái một phần nào đó hình dáng Shakespeare, chênh lệch giai cấp cổ hủ gọi mời nhân ảnh Hồ Biểu Chánh, những gian khổ đấu tranh lại đầy rẫy hình bóng Enrique Maria Remarque,… tất cả tựu hình chung nổi bật lên tính phổ biến, một phần tạo nên sự tiếp cận ban đầu dễ chừng thân quen để rồi tăng đều lũy tiến; nhưng cũng đồng thời gây ra một sự nhàm chán đối với những ai yêu thích cái lạ. Thế nhưng một điểm nổi bật dễ nhận ra trong tiểu thuyết này là Nguyễn Đông Thức đã mang tất cả những cái chung chung ấy vào cùng một chỗ, để rồi đưa vào phông nền vô cùng địa phương, hay nói cách khác, gắn mác địa danh lên chính thành phẩm. Và chính yếu tố made in Vietnam này lại làm cho tác phẩm vượt lên theo một mặt khác.

Đọc Như núi như mây, ta thấy hiện lên một Saigon vẫn là nó nhất vào những ngày cuối cùng của một phế tích tráng lệ. Chưa khi nào người ta miêu tả Saigon bằng những lần xem phim ở tầng 2 rạp Eden hay vào La Pagode uống cà phê và nghe nhạc máy jukebox như Nguyễn Đông Thức; cũng chưa bao giờ thấy nhắc đến những vũ trường Catinat, những cục xà bông Cô Ba, thuốc lá Samit hay kem UB trong một tác phẩm văn chương của thời hiện đại. Nói một cách khác, Saigon vẫn luôn sống động trong mỗi câu chuyện của ông, nó là linh hồn chứa đựng những nét riêng biệt cho toàn tác phẩm, nhưng cũng đồng thời, tồn tại song song trong ký ức những người xưa cũ hay tạo lập lát cắt héo úa cho lớp người sau. Và bằng việc tạo cho Saigon một chỗ đứng riêng, Nguyễn Đông Thức cũng đồng thời tạo riêng cho câu chuyện mình một sự cuốn hút khó thể tách rời.

Một thuộc tính khác làm cho Như núi như mây trở nên riêng biệt trong khu rừng đầy những tương đồng đó là thời đoạn. Việc chọn Saigon những năm 70 đầy những đổi thay chính trị khi cao trào giữa quân Giải phóng và phía miền Nam đang lên cao trào một phần làm nên tính chất địa phương cho toàn tác phẩm, đồng thời như là đường dây vận động xuyên suốt của những diễn biến sau này. Việc đôi lứa lìa xa cũng từ chiến tranh loạn lạc, việc cả gia đình chạy về miền Tây cũng từ công cuộc thanh lọc toàn diện chế độ cũ, cho đến chi tiết vượt biên, gặp cướp biển, di cư sang Mỹ, Pol Pot… tất cả xảy ra trong một thời đoạn ắt hẳn phải thế. Việc tính toán chi ly suốt một quãng dài để rồi gặp nhau khi đất nước mở cửa được Nguyễn Đông Thức tính toán kỹ càng, một phần cho thấy câu chuyện đương thời phải thế nhưng cũng đồng thời phản ánh lịch sử một thời đoạn dài.

Điều đáng nói thứ hai là Nguyễn Đông Thức đã một lần nữa không làm người đọc thất vọng bằng những điểm mạnh vốn có của mình. Nếu từng thân quen những chuyện học đường vô cùng ngờ nghệch trong Vĩnh biệt mùa hè hay khoảng thời gian thanh niên sôi nổi của Ngọc trong đá; thì với Như núi như mây ta lại như được sống dậy trong không khí ấy thêm một lần nữa. Nguyễn Đông Thức hiểu và biết cách xoay chuyển tình thế vô cùng nhịp nhàng khi lái câu chuyện vào vùng địa phận thân quen của mình. Ông từ tốn ở đó, từ tốn kể chuyện bằng những câu chữ chắc nịch, để đọc rồi lại thấm thía, rồi lại ước mơ. Từ những thân quen, ông chuyển câu chuyện theo một khía cạnh hoàn toàn khác lạ, dưới một góc nhìn không thể không có trong những tiểu thuyết tình yêu – những dục vọng thể xác. Những sự tiếp xúc về mặt thể xác trong văn ông không đóng một vai chủ chốt như Murakami hay Tanizaki (tuy về mức độ bạo dạn và dữ dội có thể đong đếm ngang ngửa) mà được thêm vào như cách biểu đạt tình yêu không hề che giấu, mà xét ở thời điểm tác phẩm ra đời, đã là một thay đổi đi sâu vào bản chất sự việc rất đáng ghi nhận. Cùng với Ma Văn Kháng ở mảng truyện ngắn; Nguyễn Đông Thức đã góp tên tuổi mình cùng Thuận, Đỗ Hoàng Diệu,… đi sâu khám phá bản thể con người.

2. Cơn mộng thứ hai – Nhát dao rách toạc

Như núi như mây hẳn nhiên như đã nói trên, mang trong mình một sự sóng đôi gần giống tựa đề của nó, khi vừa là một tiểu thuyết tình yêu, vừa là nỗi đau thân phận. Nếu Nguyễn Đông Thức chọn lớp vỏ tình yêu để làm phần nổi đẩy ra trước mắt người đọc, thì cái thấm thía về thân phận từ phía đằng sau như những nhát dao đâm lên lổm chổm. Cái hay là Nguyễn Đông Thức vừa không che giấu hoàn toàn phía sau để người đọc tự mình nhận ra, cũng không để nó lồ lộ trước mắt như những bài ca lịch sử; mà bằng lối viết xen kẽ, ông để hai yếu tố đan cài bổ sung cho nhau đầy tính hợp lí. Như núi như mây là bản trường ca dài từ số phận của người phụ nữ, mở rộng ra hơn là số phận của người di cư và rồi cuối cùng to lớn hơn, là số phận cả thời đoạn dông dài đầy đủ bất trắc.

Lấy hình ảnh những người phụ nữ làm nhân vật chính đi suốt câu chuyện, Nguyễn Đông Thức như muốn khởi đầu từ cái nhỏ nhất, từ sinh thể từ xưa đến nay vẫn luôn được coi là thành tố phụ. Những người phụ nữ trong tác phẩm này chịu nhiều đau thương, họ cùng có vẻ duy mĩ về sắc vóc nhưng cuộc đời lại bi thương đến không ngờ. Vân từ một thiếu nữ cái gì cũng có, muốn gì cũng được như bước ra từ trang viết của Hồ Biểu Chánh; lại sớm dằn vặt đau khổ trước những ngang trái yêu đương khi vẫn lại là vấn đề muôn thuở – giai cấp. Đến khi vùng mình thoát dậy, thời đoạn lịch sử lại nện cho cô những đòn đau điếng. Cuối cùng sau bao khó khăn tìm được bến đỗ, đời sống lại làm teo tóp dần đi khoảng thởi gian ấy. Hình ảnh Liên – một cô gái thanh niên xung phong bám víu vào tình yêu như một bản ngã, để rồi bị phản bội trong tâm tưởng, dằn vặt, học thích nghi và rồi tự mình phản bội. Khác với Dạ Ngân là một phụ nữ viết về phụ nữ vô cùng thành công trong Gia đình bé mọn, Nguyễn Đông Thức viết về những người phụ nữ trong đây với vẻ nâng niu cho một thân phận đã quá mỏi mệt. Tuy đôi khi những trúc trắc hay cách sắp xếp làm nên diễn tiến khiên cưỡng nhô mình vươn ra góc cạnh xù xì chưa được gọt giũa, nhưng nếu nhìn nhận dưới góc độ của một tâm hồn văn chương, thì đó là lời cứu vớt cho những thân phận quá ư chìm nổi. Để rồi sau này mượn một câu nói của Vân, ông viết như cách ta đồng thuận ngầm đầy vẻ cam chịu: “Cuộc sống là vậy, ai cũng phải gạt nước mắt đi tới chứ không thể cứ ngồi than khóc mãi chuyện quá khứ”.

Từ hành trình những người phụ nữ đi tìm tình yêu, Nguyễn Đông Thức hòa cơn bão nhỏ thành những trái ngang của một thời đoạn đầy những con người trong cơn bão lớn. Miền Nam thất thủ năm 75 như một cú sốc lớn cho phe Cộng hòa khi chỉ sau một đêm, từ một người có tất cả đã trở thành không có gì, báo hiệu cho một số phận bấp bênh hiện ra trước mặt. Để chạy trốn cuộc sống kham khổ trước khi Cách mạng ào vào Saigon, lớp tiểu tư sản chỉ còn duy cách vượt biên để rồi trở thành cánh buồm ngoài xa heo hút tâm hồn. Họ bỗng trở thành những người xa lạ, những người không có quê hương, những người chạy trốn vì chính lựa chọn đã gây ra kết cục cho họ thế này. Bị xếp vào hạng người tị nạn, họ vật vờ hiu hắt dáng hình phản chiếu dưới những cơn sóng, phía Tây là tổ quốc trước mặt nhưng không sao về được, rồi cướp biển, trấn lột, cưỡng hiếp… từ một ước mơ ban đầu khiến họ hóa điên. “Nhiều người trong số họ chấp nhận liều mạng đơn giản chỉ vì mong được đổi đời, có một cuộc sống khá hơn trên vùng đất hứa. Nhưng cũng có những người ra đi vì lý do khác. Họ có thể chấp nhận đói khổ, nhưng phải được đối xử công bằng. Họ vất vả cả đời, nhưng ít nhất họ phải còn niềm tin rằng con cái mình sẽ có cơ hội để được vươn lên bằng con người khác… Không có những điều đó, thì có chết họ cũng ra đi.” Thiếu nước ngọt làm họ hóa điên, chứng kiến gia đình tàn sát khiến họ hóa rồ, thần kinh của những người con thời đại này thật quá mong manh khi ánh chớp số phận vừa lóe lên chào.

Nguyễn Đông Thức miêu tả cuộc sống trên trại tị nạn Pulau Bidong thuộc Indonesia chân thực đến từng mảnh đời, tương tự như những trang viết ta từng bắt gặp trong những câu chuyện tị nạn của Pachinko (Min Jin Lee) hay Thoát đến phương Tây (Mohsin Hamid). Ở đó con người vật vờ tựa những ngọn cỏ đắm mình trong ánh hoàng hôn. Những người điên, người lờ đờ dở dở ương ương có mặt ở khắp mọi nơi. Những căn bệnh tâm lý trầm kha lại làm tăng thêm cái vẻ ảm đạm bọc ngoài tác phẩm. Nguyễn Đông Thức khoét sâu vào lòng vết thương, phơi ra hiện thực tưởng như đau đớn và cho ta thấy tâm lý con người có thể mỏng manh đến mức độ nào.

Từ những bước ngoặt lịch sử đó, Nguyễn Đông Thức lẳng lặng phác họa những nét chìm nổi về tính cách nhân quần dẫu cho có quá tiêu cực hay không, khi vào những dịp đặc biệt luôn được phơi bày một cách rõ ràng. Trước tin thắng trận năm 75 ông viết: “Những người lính thua trận vẫn còn lầm lũi đi về như những bóng ma, bên cạnh đoàn quân hôi của đang mệt lử đẩy về nhà những chuyến hàng cuối cùng”. Con người vẫn luôn là thể đa bào lạ lẫm với thâm tâm trong suốt, dường như tùy vào thời đoạn mà được nhuộm thứ màu nào vào trong những ô lưới nhỏ. Những câu chuyện vượt biên đi xa, chạy loạn về miền Tây khi Biên Hòa đang dần thất thủ… tất cả phản ánh nên một thế hệ con người sống động trong những ghì ép thời đoạn. Bên cạnh đó, thế hệ người-trong-bao sau độc lập tin tưởng quá mù quáng vào một lý tưởng hay những người Việt sau khi vượt biên thành công đến Mỹ định cư, dùng thủ đoạn phá giá để tự giết nhau, khiến người Mỹ vì không chịu được bầu không khí trở nên rẻ mạt ấy, đã nhường hết cho họ một phố quận Cam để rồi lẳng lặng ra đi, bước khỏi ngôi nhà của mình… tất cả được khắc họa rõ nét trong tác phẩm này thành một cõi nhân quần rất nhiều xáo trộn.

3. Tỉnh giấc

Như một tấm gương phản xạ những thứ song ánh, Như núi như mây của Nguyễn Đông Thức mang trong mình bộ mặt của một tiểu thuyết thân phận. Xuyên suốt chiều dài của cả tiểu thuyết là những cuộc rượt đuổi tưởng chừng mệt lử của số phận áp lên con người, khi nhu cầu cơ bản nhất của họ lâm vào ngõ cụt. Trong sáng, mưu mô, phản kháng, cam chịu,… đầy đủ các mặt sắc của đời sống tinh thần được thứ dịch xót xa của trúc trắc nuôi dưỡng và một kết cục dễ thấy biểu hiện thành hình. Có thể nói đây là một tiểu thuyết lãng mạn được gia công bởi một tay bút chắc tay, mang đậm dấu ấn thế hệ, dấu ấn Saigon. Nếu bỏ qua sự tham lam vài lần về những sắp xếp bố cục hay ôm đồm quá nhiều chi tiết vào trong, thì Như núi như mây là một tác phẩm vạch tung số phận con người, từ những phụ nữ đến người chạy loạn; từ người tị nạn đến cả nhân quần, tất cả xuất hiện và đứng vào hàng ngũ tiến hóa trên từng nấc thang nhân loại được Nguyễn Đông Thức sắp đặt và đưa vào canh gác từng vị trí trong mạch truyện mình.

Hết.

Ngô Thuận Phát


Đọc tất cả những bài viết của Ngô Thuật Phát.


Phía sau trang sách

Có một thời ở Chợ Lớn: Những gam màu ký ức

Published

on

Có một thời ở Chợ Lớn là một trong hai tác phẩm mới nhất của nhà báo Phạm Công Luận do Phương Nam Book liên kết xuất bản dịp năm mới Ất Tỵ 2025. Chỉ một thời gian ngắn sau khi phát hành, sách sớm nhận được tình cảm của độc giả và lọt vào top sách bán chạy trong tuần tại Nhà Sách Phương Nam. Bên cạnh bản thân tác giả Phạm Công Luận, góp phần vào sự thành công của Có một thời ở Chợ Lớn không thể không kể đến họa sĩ Phạm Công Tâm với nhiều hình ảnh minh họa đẹp và đầy tinh tế, cũng như đội ngũ Phương Nam Book đã biên tập, thiết kế nhằm đưa tác phẩm đến tay độc giả theo cách chỉn chu nhất.

Chịu trách nhiệm thiết kế bìa và trình bày sách Có một thời ở Chợ Lớn là họa sĩ t.hờ. Trong bài phỏng vấn hôm nay, Bookish sẽ cùng anh t.hờ chia sẻ với bạn đọc về quá trình "lên đồ" cho Có một thời ở Chợ Lớn cũng như những câu chuyện bên lề thú vị trong quá trình sản xuất cuốn sách này.

  • Bookish: Anh có thể chia sẻ điều gì đã dẫn đến quyết định lựa chọn hình ảnh chùa Ôn Lăng và chợ Bình Tây làm ảnh bìa sách ở 2 phiên bản bìa mềm và bìa cứng?

Họa sĩ t.hờ: Nhắc đến Chợ Lớn, chắc hẳn 9 trên 10 người trong chúng ta sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh của chùa bà Ôn Lăng và chợ Bình Tây – hai công trình kiến trúc đặc trưng nhất của mảnh đất Chợ Lớn Sài Thành.

Đối với chùa bà Ôn Lăng, đây có thể coi là công trình mang đậm nét đặc trưng của kiến trúc Trung Hoa nhất giữa lòng Sài Gòn. Không chỉ là nơi chiêm bái của người dân địa phương và du khách gần xa, chùa bà Ôn Lăng còn là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa và tôn giáo như lễ hội Đoan Ngọ, lễ hội Trung Thu, lễ hội Thanh Minh, lễ hội Tết Nguyên Đán,… Chùa bà Ôn Lăng là một trong những ngôi chùa có ý nghĩa lịch sử và văn hóa quan trọng của Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và mảnh đất Chợ Lớn nói riêng.

Còn về chợ Bình Tây, đây không chỉ là một ngôi chợ sở hữu lối kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ấn văn hoá Á Đông của người châu Á ở đất Sài Thành, mà còn là nơi được biết tới là nơi trao đổi đồ cổ và buôn bán sỉ lớn nhất của người dân gốc Hoa ở Chợ Lớn. Dù hiện tại chợ Bình Tây đã có nhiều sự thay đổi về cơ sở hạ tầng nhưng những giá trị tinh thần, lịch sử và văn hoá vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay.

Chính vì lẽ đó, chùa bà Ông Lăng và chợ Bình Tây đã được mình chọn lựa để đưa lên 2 phiên bản bìa của Có một thời ở Chợ Lớn.

  • 2 ấn bản bìa mềm và bìa cứng có sự khác biệt gì về hình ảnh minh họa trong sách không?

Để đảm bảo sự chính xác về thông tin của các bài viết thì phần hình ảnh và nội dung bên trong của 2 phiên bản không có gì thay đổi.

  • Liệu có ẩn ý nào phía sau việc sử dụng 2 tông màu nóng - lạnh cho 2 phiên bản bìa sách?

Nhắc đến Chợ Lớn, người ta sẽ nghĩ ngay đến những tone màu rực rỡ như chính sắc màu chủ đạo trong cuộc sống của người dân nơi này – màu đỏ rực của những chiếc đèn lồng gốc Hoa, màu đỏ thẫm của những lớp mái ngói vươn màu thời gian hay màu đỏ tươi của những chú lân trong các lễ hội,… Bên cạnh đó, ta không thể không nhắc tới sắc vàng của những bức tường vững chải chạy dọc các con phố, của những món đồ trang trí bóng bẩy mỗi dịp Tết đến xuân về.

Thế nhưng, không vì thế mà Chợ Lớn vắng đi những phút giây lắng đọng. Dạo quanh Chợ Lớn, người ta vẫn có thể dễ dàng bắt gặp những tòa chung cư lâu đời trên đại lộ Trần Hưng Đạo hay từ chính trong nét kiến trúc phương Đông được tạo nên từ kỹ thuật xây dựng của Tây phương trong lối kiến trúc độc đáo của ngôi chợ Bình Tây xuất hiện trên bản bìa mềm.

  • Có câu chuyện ngoài lề nào thú vị trong quá trình thiết kế cho cuốn sách này mà anh ấn tượng không?

Mình cho rằng đó là một “bài học” thú vị nhiều hơn.

Như các bạn cũng biết, trước khi “Có một thời ở Chợ Lớn” ra đời, tác giả Phạm Công Luận đã từng cho ra mắt một quyển sách cùng chủ đề đó là “Hồi ức Phú Nhuận”. Do cả 2 quyển một chủ đề nên với vai trò là người thiết kế bìa cho cả hai, mình mong muốn tạo được nét tương đồng trên bìa khi 2 quyển sách được đặt cạnh nhau để nhấn mạnh “tính chất văn hóa” của 2 quyển sách này. Chính vì vậy, mình đã chủ đích đem cái gần gũi, thân thương nhưng cũng mang trong mình những lắt cắt lịch sử mà mình từng thể hiện trong bìa của”Hồi ức Phú Nhuận” mang vào quyển “Có một thời ở Chợ Lớn” lần này.

Nhưng rồi mình nhận ra, mỗi vùng đất sẽ mang trong mình một vẻ đẹp riêng. Nếu như Phú Nhuận là mảnh đất của những ký ức tuổi thơ thân thương, của những giai kỳ hào nhoáng của một Sài Thành hoa lệ, thì Chợ Lớn sẽ là những đất của những khu mua sắm xa hoa, của những quán ăn nức tiếng, và của sự hào sảng, phóng khoáng của người dân Chợ Lớn Sài Gòn.

Vậy nên, mình cho rằng đó là bài học mình của bản thân mình: Để nhấn mạnh, nếu không thể tương-đồng thì chúng ta có thể chọn tương-phản.

Bookish xin cảm ơn họa sĩ t.hờ vì đã dành thời gian chia sẻ. Chúc anh nhiều sức khỏe và đạt được thành công trong năm mới Ất Tỵ 2025.

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Cafe sáng