Trà chiều

Như một người đã chết rồi

Franz Kafka từng nói: “Tôi cần sự cô độc cho lối viết của mình; không phải giống như một ẩn sĩ – điều đó không đủ – mà là giống như một người đã chết rồi.”

Published

on

Cũng như rất nhiều người, tôi thích văn Kafka, thích nhiều câu nói của ông nhưng chưa bao giờ tôi thích một câu nào đó nhiều như câu này: thích ở mức độ lẩm nhẩm rất nhiều ngày, nhiều tuần trong đầu sau khi đọc nó; thích ở mức độ mỗi lần buồn và nghĩ về nó là có thể tự an ủi bản thân. Câu nói này thể hiện sự nghiêm túc với ý thức cao độ nhất của một người viết. Tôi luôn thích những gì nghiêm túc, chân thành. Thậm chí, nghiêm túc đến cực đoan với tôi vẫn tốt hơn nhiều sự đùa giỡn dù mục đích xuất phát từ niềm vui hồn nhiên, vô tư. Tôi biết rằng có quan điểm nghệ thuật là một trò chơi, ta cứ chơi đùa trong nó như một đứa trẻ không vụ lợi. Nhưng tôi cho rằng đứa trẻ đó không nên xuất hiện ngay từ đầu, trò chơi đó không nên thiết lập ngay từ đầu. Tôi thích mọi thứ khởi nguồn từ sự nghiêm túc và trò chơi, đứa trẻ chỉ xuất hiện sau khi ta đã hăng say trong sự nghiêm túc đó và quên mất đi rằng mình đang nghiêm túc, không cảm thấy khổ sở vì mình nghiêm túc, cảm thấy sự nghiêm túc như một không khí và mình có thể thoải mái sống trong đó. Tuy vậy, mỗi người có một cách làm việc, sáng tạo khác nhau và không thể áp đặt cái phù hợp với mình lên người khác. Đó chỉ là cách thức làm việc của tôi. Nếu ngay từ đầu, tôi không thể suy nghĩ mọi thứ một cách nghiêm túc, tôi sẽ không thể bắt đầu được công việc. Nếu như có suy nghĩ mình chỉ làm chơi cho vui thì đó thuộc về việc thư giãn hay luyện tập, không phải làm việc. Và khi sự nghiêm túc bắt đầu tăng dần đến mức cực độ trong giới hạn bản thân, những lúc đó tôi mới nghĩ rằng mình có thể sáng tạo. Hành động suy nghĩ nghiêm túc giống như bước khởi đầu tôi tự thuyết phục mình phải tin vào thế giới tưởng tượng của chính mình, khi sự nghiêm túc xoay quanh thế giới đó đủ lớn, đấy chính là lúc tôi khởi sự viết. Có lẽ là việc suy nghĩ nghiêm túc ở đây giống như bước xác nhận của máy tính trước khi hoàn thành một tác lệnh nào đó: “Are you sure you want to do that?” hoặc cũng giống như bước khởi động để kích hoạt cơ thể trong trạng thái sẵn sàng hoạt động của vận động viên trước khi thi đấu. Tôi không phủ nhận đã từng có lúc vì quá mệt mỏi mà tôi xem viết như một cách để chơi đùa, để giải trí, để thư giãn cho khuây khỏa những nỗi buồn. Dù sao, điều tối cơ bản khi ta muốn làm một việc gì đó là điều ấy trước nhất phải khiến bản thân ta vui, hoặc tệ lắm cũng là ta thấy thoải mái với nó. Nhưng để thật sự đắm mình trong say mê sáng tạo, chỉ có sự nghiêm túc tuyệt đối từ lúc khởi phát mới trở thành động lực thật sự để tôi đi đến tận cùng con đường của mình. Nếu ngay từ đầu đã viết mà không có suy nghĩ nghiêm túc, tôi dễ bị đuối sức giữa chừng hoặc có khi là bỏ ngang hoặc có khi những thứ viết ra chỉ là các phiến đoạn ngắn. Tôi không biết vì sao mình yêu việc viết đến như thế. Nhưng cũng không hẳn là tôi yêu nó quá nhiều. Nó vẫn khiến tôi cảm thấy trống rỗng. Đôi khi trống rỗng đến mức cảm thấy bản thân mình như đang không tồn tại. Tôi cũng không biết từ khi nào mình lại quan trọng sự nghiêm túc đến thế, đặc biệt là sự nghiêm túc trong việc viết. Có lẽ, đây là một dấu hiệu chuyển biến tích cực. Chỉ là đôi khi tôi thấy hơi mệt mỏi.

Một năm vừa qua, tôi đã sống gần như câu nói của Kafka. Tôi cảm thấy mình như một người đã chết rồi. Tôi luôn suy nghĩ trong đầu: “Mình là một người đã chết rồi. Dù mình đang đứng ở đây, đang nói chuyện với mọi người. Có thể là nói một vấn đề nào đó không thuộc về mình, có thể là nói một vấn đề nào đó thuộc về mình. Mình có thể có cảm xúc với việc này, việc kia. Nhưng thực sự mình không ở đây. Mình luôn không ở đây. Tất cả những điều đang ở đây trên da thịt mình hay những thứ vật chất mình đang tạo ra đều không thuộc về mình. Trong lòng mình chẳng tồn tại điều gì. Mình chỉ đơn giản là đứng ở đây, chịu sự tác động từ mọi thứ, thu nhận lại và quan sát. Một người đã chết rồi thì không thể tác động điều gì đến xung quanh.” Khi nghĩ như thế, cuộc sống của tôi tối giản hơn rất nhiều: tôi không bận tâm việc cố gắng duy trì các mối quan hệ, tôi không bận tâm chính cảm xúc của mình là vui hay buồn, tôi không bận tâm đến việc còn ai nhớ hay đã lãng quên mình, tôi để cho mọi thứ như nó là, chỉ cố gắng thu nhận những gì mình muốn như một mảnh đất lặng lẽ hút những mạch nước ngầm thấm sâu trong lòng hay mưa từ trên trời rơi xuống, hay không khí xung quanh, những tán lá rơi và mục rữa mỗi ngày. Chỉ thu vào và không phát ra. Tôi đã suy nghĩ như thế trong khoảng hai, ba tháng hoặc hơn thế. Và khi sống với suy nghĩ như một người đã chết rồi đó trong khoảng thời gian ấy, tôi nghĩ rằng mình dần dần có thể hiểu ý của Kafka theo cách nghĩ của mình. Ban đầu, tôi nghĩ rằng thứ suy nghĩ cần sự cô độc như một người đã chết rồi cho lối viết của mình nghĩa là sự lánh đời, tránh xa những phù phiếm của cuộc sống bên ngoài để tập trung lắng nghe tiếng nói bên trong của bản thân như một con kiến tự suy nghĩ về cuộc đời nó khi đang ở trong một lỗ sâu mà nó tự đào đâu đó để làm tổ, tránh xa sự rình rập nguy hiểm từ những con mắt xung quanh. Nhưng khi dần sống với suy nghĩ cô độc như một người đã chết rồi, tôi mới nhận ra suy nghĩ của Kafka không hẳn hoàn toàn là suy nghĩ lánh đời. Khi bạn nghĩ rằng bạn đã chết rồi nghĩa là cái tôi của bạn không còn quan trọng nữa, bạn không còn cái tôi nữa, và khi đó, mọi sự xung quanh bạn đều có thứ mà bạn có không có – cái tôi; vậy là, mọi sự xung quanh bỗng dưng trở nên quan trọng hơn bạn rất nhiều. Khi tôi nghĩ rằng mình đã chết rồi, tôi mới cảm thấy rõ rệt rằng mỗi người đều có một câu chuyện riêng và câu chuyện nào cũng đáng được trân trọng, cái tôi nào cũng đáng được trân trọng, không nên bỏ rơi hay lãng quên bất cứ điều nào đã đến với mình trong cuộc sống này vì dù là tình cờ hay hữu ý, mọi thứ đều xuất phát từ một sự sắp đặt kì công nào đó. Dù chỉ là trong suy nghĩ thôi nhưng khi tôi chết rồi, tôi mới thấy mọi thứ xung quanh thật đẹp đẽ. Chúng đẹp đẽ không chỉ vì có câu chuyện riêng mà còn vì đơn giản là chúng đang sống, chúng vẫn tiếp tục vận động, biến đổi không ngừng; trong khi đó, tôi lại là một người đã chết rồi, chỉ biết lặng lẽ đứng yên một nơi ngắm nhìn tất cả, không thể chia sẻ với bất kì ai, tôi cứ duy trì mãi trạng thái bất động, không biến chuyển đó. Có thể thu vào nhưng lại không thể phát ra. Có mặt ở đó nhưng lại như không có mặt ở đó. Sống mà như một người đã chết rồi. Cảm giác ấy mới thật cô độc làm sao. Nhiều lúc, sự nhạt nhòa ấy khiến tôi nghĩ rằng mình có thể khóc một mình. Nhưng nó thật là đẹp. Và cuộc sống thật là đẹp. “Life is beautiful but you don’t have a clue.” Lana Del Rey. Nàng đã hát như thế. Đúng là vậy thật nhỉ.

Có một lần, tôi tình cờ đọc được bài phỏng vấn Taylor Swift. Trong đó, người ta hỏi làm sao nàng có thể vừa sống vui vẻ, vừa sáng tác nhạc hay như thế. Nàng đã trả lời đại ý rằng: “Tôi luôn sống với suy nghĩ mình là một người đã 80 tuổi rồi. Khi bạn nghĩ bạn đã già, bạn không còn nhiều thời gian nữa, tự nhiên bạn sẽ loại bỏ đi rất nhiều thứ không thật sự quan trọng lắm với bạn và chỉ giữ lại những thứ quan trọng, những thứ làm bạn vui. Mỗi ngày tỉnh dậy tôi đều nghĩ mình là một người đã 80 tuổi rồi, tự khắc ngày hôm đó tôi sẽ biết mình muốn làm gì và tôi tận hưởng niềm vui sống mỗi ngày với những điều đơn giản. Tôi nghĩ mình là một người sống chậm.” Tôi khá bất ngờ khi nàng có suy nghĩ đó vì nhìn vẻ bề ngoài của nàng, nghe những bài hát của nàng, đọc một vài câu chuyện về đời sống riêng tư của nàng, tôi không thể nào hình dung được nàng lại sống với suy nghĩ đó mỗi ngày, nhất là khi nàng lại là một Nhân Mã. Nhưng nàng lại là một Nhân Mã với moon sign Cự Giải. Có lẽ sự trầm tính ấy ẩn sâu trong suy nghĩ của nàng, trong sinh hoạt hằng ngày hơn là những biểu hiện bề nổi bên ngoài. Và ngẫm nghĩ kĩ, thực ra suy nghĩ đó phần nào cũng có lí. Vì từ suy nghĩ đó có thể dẫn ra hai hướng hành động khác nhau: hoặc người ta sẽ sống chậm như một người già thực sự để quan sát cuộc sống; hoặc vì nghĩ mình không còn nhiều thời gian nữa mà chỉ làm những điều mình muốn, không bận tâm việc đó sẽ đem lại hậu quả gì. Có lẽ, nàng đã hành động theo hướng thứ hai. Hướng thứ hai thì giống một Nhân Mã nhưng suy nghĩ xuất phát điểm bên trong lại giống một Cự Giải. Có lẽ là vậy. Rồi tôi bắt đầu suy nghĩ hay là mình thử đổi lại đi. Không suy nghĩ giống như một người đã chết rồi của Kafka nữa mà thử suy nghĩ mình giống như một người đã già của Taylor Swift xem thế nào. Nhưng vấn đề là già đi bao nhiêu tuổi? Tôi không nghĩ mình sẽ chọn con số 80 vì nó quá lớn, có thể phản tác dụng với tôi, có thể khiến tôi sống kiểu bất cần hay YOLO mà đưa ra những quyết định sai lầm. Tôi quyết định rằng mình sẽ sống như một người đã 30 tuổi. Tôi nghĩ đó là một con số phù hợp và vừa vặn. Tôi chỉ nâng số tuổi trong suy nghĩ của mình so với số tuổi thực nhiều hơn 6 tuổi thôi giống như việc người ta vặn kim đồng hồ sớm hơn 5 hay 10 phút so với giờ thực để có dư thời gian trừ hao, để chuẩn bị sớm, để không bị trễ. Tôi cũng vậy. Tôi vặn số tuổi của mình lên 6 đơn vị.

Và rồi một buổi sáng tỉnh dậy, tôi trở thành một người 30 tuổi. Cũng giống như những người chỉnh đồng hồ sớm thường hay quên việc mình đã chỉnh sớm mà nhầm tưởng thời gian trên đồng hồ là giờ thực, tôi cũng dần quên mất việc mình đã vặn tuổi lại cho nó chạy sớm hơn. Vậy nên, có những buổi sáng tỉnh dậy, tôi cảm thấy buồn vì như có ai đó đã lấy mất đi 6 năm của mình, tệ hơn nữa là 6 năm đó tôi đã bị mất đi mà không biết nguyên nhân là gì, nó cứ tự nhiên mà mất đi như thế, tôi không còn là 24 nữa, tôi đã 30. Trong mỗi suy nghĩ trước quyết định gì đó có liên quan đến tuổi tác, thay vì nghĩ: “Mình đã 24 rồi,” tôi lại nghĩ “Mình đã 30 rồi đó,” hoặc là “Mình đã bị mất 6 năm lãng phí rồi đó, đừng để lãng phí thêm bất cứ thời gian nào nữa.” Với suy nghĩ đó, tôi nhận thấy mình bắt đầu làm những điều mình muốn một cách tích cực hơn, nghiêm túc hơn, tỉ mẫn hơn một chút. Không phải vì tôi không còn nhiều thời gian nữa mà vì tôi không muốn lãng phí thêm bất cứ thời gian nào như 6 năm tôi đã mất. Tôi thấy vui với việc mình ngày càng coi trọng sự nghiêm túc và cố gắng để làm việc nghiêm túc hơn.

Ở tuổi 30, tôi bắt đầu đối diện với chứng ruồi bay. Thực ra thì tôi không thấy nó giống ruồi nhưng có lẽ nhiều người thấy nó giống ruồi hơn nên họ đặt là chứng ruồi bay. Tôi thấy những đốm trong suốt di chuyển trước mắt mình ấy giống như những con nòng noọc hơn, hoặc là một nét gạch nguệch ngoạc của đứa trẻ nào đó, hoặc là những lỗ tròn nhỏ được tạo ra bởi một đầu kim đâm thủng bề mặt phẳng nào đó, hoặc giống như những bong bóng xà phòng thổi ra từ đồ chơi của một đứa trẻ nào đó bị thu nhỏ kích thước lại, vô tình trôi vào mắt tôi. Điều tôi buồn nhất là mình không còn được ngắm bầu trời trong xanh thật sạch sẽ, thoải mái nhìn mọi vật sáng rực dưới ánh nắng vàng mà không có bất kì vật thể nào lơ lửng như khoảng một tháng trước đây nữa. Tôi không biết mình có ruồi bay từ khi nào, đến một ngày đẹp trời khi tôi nhận thức được thì nó đã ở đó. Cũng giống như việc một ngày tôi tỉnh dậy và phát hiện rằng mình đã 30 tuổi.

Những người yêu văn chương thường hay nói: “Tôi yêu văn chương như thể nó là máu mủ của chính tôi, là hơi thở cho tôi sống.” Tôi cũng đã từng nghĩ như thế. Nhưng dần dần, tôi không còn xác tín về tình yêu này nữa. Đôi khi tôi yêu nó, đôi khi tôi không yêu nó. Viết hay văn chương không bao giờ là thứ khiến tôi tự tin rằng mình đã hoàn toàn có nó hay nó là của mình, nó thuộc về mình như máu mủ, như hơi thở được. Tôi luôn cảm thấy mình phải bắt đầu lại từ đầu. Khi tôi vừa viết xong một câu chuyện, tôi quên mất cách để viết một câu chuyện. Tôi không có tự tin câu chuyện sau mình sẽ viết hay hơn câu chuyện trước vì mình đã có kinh nghiệm rồi. Tôi luôn khởi sự một câu chuyện như người mới tập viết đầy lúng túng, bối rối, ngỡ ngàng. Và trong giây phút bàng hoàng khi vừa bắt đầu ấy, tôi cố gắng bình tĩnh để suy nghĩ lại cấu trúc cho nó. Rồi tôi viết, tôi viết… cho đến khi quên hết tất cả và kết thúc câu chuyện, kết thúc những điều mình muốn nói. Trước đây, tôi không thích việc này cho lắm. Tôi thích việc mình phải nhớ rõ ràng cách thức những gì mình đã viết trước đây để tích lũy, để rút kinh nghiệm cho những lần sau. Tôi thích mình phải có chút tự tin khi viết. Nhưng bây giờ, tôi lại thích sự thiếu tự tin này. Tôi chấp nhận nó. Chấp nhận việc mình quên cách viết một câu chuyện như thế nào, chấp nhận việc mình luôn khởi đầu viết như một người mới tập kể chuyện. Việc viết vừa là một điều gần gũi vừa là một điều xa lạ như thế này khiến tôi sẽ mãi mãi yêu nó. Thiếu tự tin nếu hiểu một cách tích cực thì nó có thể gần gũi với tính cẩn trọng. Vì khi thiếu tự tin, người ta thường dễ dàng cẩn trọng hơn, dễ dàng chuẩn bị kĩ lưỡng hơn cho mọi việc, dễ dàng trở nên nghiêm túc hơn. Tôi nghĩ thiếu tự tin cũng có nhiều điểm tích cực không kém gì tự tin; hoặc là tôi đã ở độ tuổi biết học cách yêu lấy những khuyết điểm của mình, cho nó những lí do chính đáng để tồn tại, nhìn được mặt tích cực trong khuyết điểm ấy. Nhưng về sự thiếu tự tin, có một điều mâu thuẫn là khi tôi chấp nhận sự thiếu tự tin của chính tôi thì lúc đó, tôi lại thấy tự tin, nghĩ rằng sự thiếu tự tin của mình là đúng đắn ở một khía cạnh nào đó cũng giống như tự tin với sự thiếu tự tin của mình vậy.

Một người chị từng nói với tôi rằng: “Hình như những gì em làm, cái nào cũng đều rất nghiêm túc. Chị thích sự nghiêm túc đó. Đừng đánh mất nó nhé.”

Tôi rất hạnh phúc khi nghe câu nói đó vì cảm giác rằng những cố gắng của mình đã được ai đó nhận ra. Và chỉ cần nhận ra rằng tôi nghiêm túc với những gì mình làm là đủ. Tôi cũng thích sự nghiêm túc của chính mình. Ở thời khắc chuyển giao khi kết thúc tuổi 30, bắt đầu tuổi 31 này, tôi cũng chỉ mong mình sẽ giữ mãi sự nghiêm túc đó. Mong ước cho sinh nhật năm nay của mình, tôi chỉ ước đơn giản như vậy. Lẽ ra sinh nhật thường phải cầu mong những thứ mình chưa có, chứ không phải những thứ mình đang có nhưng sau rất nhiều mất mát đã xảy ra, tôi nhận thấy rằng chẳng có thứ nào mình đang có sẽ chắc chắn luôn nằm ở đó, không biến mất đi. Thứ đang có sẽ có thể trở thành thứ không còn có nữa. Vậy thì việc mong những thứ mình đang có vẫn tiếp tục sẽ có cũng là một điều quan trọng cần phải cân nhắc bên cạnh ước mong cho những điều mình chưa có. Người ta nói có sức khỏe là có tất cả. Điều đó đúng với tất cả mọi người. Điều đó cũng đúng với tôi-một người có vài vấn đề trục trặc về sức khỏe nhưng khi tôi thử suy nghĩ rằng nếu mình có sức khỏe thật tốt, ai đó có thể giải quyết giúp mình mọi vấn đề trục trặc về sức khỏe hiện tại và đưa nó về ngưỡng lí tưởng của vạch xuất phát, nhưng lúc đó, mình lại mất đi sự nghiêm túc, mình hời hợt với mọi thứ, mình không yêu bất cứ điều nào sâu đậm, không cuồng nhiệt, hăng say, miệt mài làm bất cứ điều gì đến quên cả thời gian, lúc ấy, dù cho có khỏe mạnh thế nào đi chăng nữa, mình cũng chỉ sống như một người đã chết rồi. Vậy nên tôi mong mình sẽ không bao giờ đánh mất sự nghiêm túc hiện đang có.

Ngày này một năm trước là một trong những ngày cuối cùng thầy tôi còn làm việc trước khi qua đời sau đó ba ngày… Đó là một ngày buồn, một tháng bảy buồn, một năm buồn với tôi. Tháng bảy năm ấy đã trôi qua thật chậm chạp, uể oải mà cũng đã vụt trôi đi thật vội vàng, nhanh chóng. Một năm vừa qua, mỗi lần buồn tôi lại nghĩ đến những ngày cuối cùng của thầy, nghĩ đến việc thầy đã phải chịu đựng cơn đau về thể xác như thế nào, sự cô đơn về tinh thần như thế nào khi không chia sẻ cùng ai tình trạng bệnh thật sự của mình để cố gắng làm việc bình thường đến tận những ngày cuối cùng. Tôi nghĩ về hình ảnh thầy những lúc ấy để tự động viên bản thân mình những lúc buồn, để cố gắng hạn chế liên lạc hay tâm sự làm phiền người này, người kia; thay vào đó, những lúc càng buồn nhất phải là những lúc càng chăm chút những gì mình đang làm nhất. Có thể vì đang buồn mà làm chậm hơn bình thường một chút nhưng không được vì thế mà làm cẩu thả đi. Dù cố gắng như thế, nhưng năm qua cũng có những giây phút tôi quá yếu lòng mà buông xuôi tất cả, thẫn thờ nhiều ngày trời, chìm trôi trong những suy nghĩ chồng chéo nhau đến mức không thể thấy được nút thắt do chính mình tạo ra mà tìm cách tháo gỡ. Vậy nên, tôi cũng mong rằng, ở tuổi này, dù có chuyện gì đi nữa, tôi cũng vẫn sẽ giữ được sự bình tĩnh để tiếp tục cố gắng, tiếp tục nghiêm túc. Và nếu một nơi như thiên đường hay Akaibu là có thật, tôi mong rằng có thể gặp lại thầy mà không phải quá ngượng ngùng vì những điều mình đã sống, những điều mình đã làm.

Cuối cùng là: Chúc mừng sinh nhật bản thân. Tuổi mới hạnh phúc nhé. Và cố gắng làm điều gì đó để ngày này năm sau có thứ mà khi nghĩ về, mình sẽ cảm thấy vui. Hãy cứ tin vào những gì mình làm, tiếp tục cố gắng, đừng bao giờ đánh mất sự nghiêm túc. Phải cố gắng là một người có trách nhiệm.

Happy birthday!

Hết.

K

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Trà chiều

Văn hóa đọc tại Việt Nam: Hành trình tỉnh thức trong thời đại mất tập trung

Khi cả thế giới đang quay cuồng trong cơn lốc của tốc độ, của công nghệ số và mạng xã hội, văn hóa đọc – vốn là một hoạt động tĩnh tại, cô độc và đòi hỏi sự kiên nhẫn – bỗng trở thành hiện tượng lạ giữa đời sống hiện đại.

Published

on

Một cú chạm màn hình có thể đưa bạn tới bất kỳ đâu: từ buổi hòa nhạc ở Vienna đến một bữa ăn đường phố ở Bangkok, từ những khoảnh khắc riêng tư của người xa lạ đến bản tin thời sự lúc rạng đông. Nhưng càng dễ dàng kết nối, chúng ta lại càng khó khăn trong việc lắng nghe chính mình. 

Và trong cuộc hành trình ấy, đọc sách - hành động tưởng như đã cũ kỹ, đang âm thầm trở lại như một nơi trú ẩn cuối cùng của tâm hồn hiện đại.

Văn hóa đọc không chỉ là việc “đọc sách”

Văn hóa đọc không nên được định nghĩa đơn giản chỉ là hành vi tiếp nhận văn bản in ấn, cần phải nhìn nó như là một cấu trúc hệ giá trị, nơi người đọc không chỉ tiêu thụ thông tin, mà còn tương tác với tri thức, phản tư, và từ đó tạo ra tầng sâu văn hóa cá nhân. Nên hiểu đọc là một hành vi văn hóa, không chỉ là kỹ năng.

Thế nhưng, tại Việt Nam, hành vi đọc nhiều khi bị giản lược thành “hoạt động học thuộc”. Cái gốc của việc đọc để hiểu mình và hiểu thế giới vẫn còn mờ nhạt trong đời sống học đường lẫn đời sống đô thị.

Chúng ta từng được dạy rằng đọc là để biết nhiều hơn. Nhưng biết không đồng nghĩa với hiểu. “Biết” là quá trình tiếp nhận và lưu trữ dữ liệu dưới dạng thông tin. “Hiểu” vượt lên trên điều đó - nó đòi hỏi sự tham gia của trải nghiệm cá nhân, khả năng phân tích, đồng cảm và cả những va chạm nội tâm. Một tác phẩm có giá trị không chỉ cung cấp tri thức ngoại tại, mà còn tạo điều kiện cho chủ thể tiếp nhận được soi chiếu, phản tỉnh từ đó nhận diện những lớp ẩn sâu của bản thể qua hình ảnh của người khác trong trang sách. 

Khi một đứa trẻ đọc Những tấm lòng cao cả, em sẽ không chỉ học đạo đức, mà bắt đầu cảm nhận được trái tim nhân loại. Khi một thiếu niên lần đầu đọc Người xa lạ của Camus, cậu ấy có thể không lý giải nổi thế giới, nhưng sẽ bắt đầu đặt câu hỏi về nó và về chính mình.

Vấn đề không nằm ở việc thiếu sách, mà thiếu “thái độ văn hóa” với sách

Mặc dù Việt Nam có hơn 30.000 đầu sách xuất bản mỗi năm (theo Cục Xuất bản), thế nhưng lượng sách bán ra tập trung chủ yếu ở thể loại giải trí, ngôn tình, self-help, còn các dòng sách triết học, văn hóa, nhân văn… chiếm tỷ lệ nhỏ hơn. Ta không thiếu sách, ta thiếu một nền tảng thẩm mỹ và nhân văn để lựa chọn sách một cách có chủ đích.

Nguyên nhân không chỉ nằm ở thời đại số làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin, mà còn nằm ở cách giáo dục về đọc sách. Tại nhiều trường học, việc đọc vẫn gắn liền với hình thức kiểm tra, chấm điểm, làm bài văn nghị luận sách giáo khoa - điều khiến đọc sách trở thành một “nghĩa vụ” hơn là một hành trình khám phá. Gia đình, các bậc phụ huynh còn chưa thực sự nghiên cứu và đặt mối quan tâm lớn lao cho việc giáo dục con trẻ dẫn đến việc các em phụ thuộc quá nhiều vào các thiết bị công nghệ. 

Nhưng tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự nở rộ của các phong trào đọc sách tự phát, không phải từ chỉ đạo hành chính, mà từ những con người đang đi tìm lại bản thân giữa cơn hỗn loạn của thông tin.

Đáng chú ý, sự phát triển của nền tảng số cũng không còn là lực cản, mà đang dần trở thành đòn bẩy cho việc tiếp cận sách: audio book, book podcast, nền tảng chia sẻ tóm tắt sách hay các cộng đồng đọc sách online đang lan tỏa mạnh mẽ. Sách không còn là một vật thể bất động mà trở thành dòng chảy đồng hành với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, âm thanh và cảm xúc.

Tất cả đang làm sống lại một giá trị xưa cũ: sự tĩnh lặng nội tâm. Đọc sách giờ đây không chỉ là tiếp nhận thông tin, mà là một hành động phản kháng với sự phân tán, ồn ào, và tiêu dùng giải trí mang tính chất "mì ăn liền".

Văn hóa đọc trong thời đại “siêu dữ liệu”

Thách thức lớn nhất với văn hóa đọc trong thời đại kỹ thuật số không phải là sự biến mất của sách giấy, mà là sự thoái hóa khả năng tập trung, năng lực phản tư và thái độ nghiêm túc của con người với tri thức. Chúng ta sống trong thời đại mà nội dung có thể bị tiêu thụ như thức ăn nhanh, nơi mọi người “đọc để phản ứng”, thay vì “đọc để cảm nghiệm”. Bởi vậy, chọn đọc - nhất là đọc sâu, đọc chậm giờ đây không chỉ là một lựa chọn mang tính trí tuệ, mà còn là một cách gìn giữ bản thân trước sự xao nhãng của thế giới hiện đại.

Đọc là kháng cự lại tốc độ. Là từ chối cái dễ. Là chọn cái sâu - dù biết nó chậm.

Văn hóa đọc giờ đây không chỉ là sách, mà còn là cách ta sống. Không chỉ là hành động cá nhân. Nó phản ánh cả một văn hóa. Một đất nước biết trân trọng sách là một đất nước không dễ bị lãng quên ký ức. Một thế hệ đọc sách là một thế hệ có nội lực.

Ở Việt Nam, từng có một thế kỷ mà sách được đọc bằng ánh đèn dầu, được chép tay, được truyền tay như những báu vật. Sách đi qua chiến tranh, qua đói nghèo, qua đạn bom, nhưng vẫn sống. Vấn đề của hôm nay không phải là thiếu sách, mà là quá nhiều thứ giành giật tâm trí ta khỏi sách.

Vấn đề sâu xa hơn: ta không còn coi đọc là một phần của việc sống đẹp. Thế giới đang dần lãng quên sự im lặng, sự chậm rãi, sự suy tư. Trong truyền thống tư tưởng phương Đông, đọc không phải là phương tiện để đạt được cái bên ngoài, mà là trở về với cái bên trong. Từ thời Lão - Trang, việc học, việc đọc vốn gắn liền với sự tĩnh tại của tâm. Đọc là tu thân. Đọc là dưỡng khí. Đọc là hành động đi ngược lại với sự xao động của đời sống, để khơi mở “minh tâm kiến tánh”, thấy lại chân diện mục của chính mình. 

Ngày xưa, các nho sĩ khi đọc sách thường đặt một bát nước trong veo bên cạnh, để “nếu tâm xao động thì nước đục” như một cách tự phản tỉnh. Người đọc không chỉ là kẻ truy cầu tri thức, mà còn là người gìn giữ đạo lý, tiết tháo và sự lặng thầm bền bỉ của văn hóa.

Trong thời đại siêu kết nối hiện nay, nghịch lý lớn nhất là con người càng lúc càng rỗng hơn giữa vô số dữ liệu. Chúng ta “biết” rất nhiều thứ nhưng lại hiểu rất ít điều, và càng ít sống sâu. Văn hóa đọc nếu được xem là một hệ sinh thái văn hóa bền vững - chính là cơ chế tự phòng vệ của trí tuệ trước sự tha hóa của thị hiếu và tốc độ.

Bởi vì đọc không chỉ là để “biết”, mà để nghi ngờ cái mình biết. Không chỉ để “giỏi lên”, mà để hiểu mình và hiểu người hơn. Và không chỉ để có tri thức, mà để trở nên người hơn trong thế giới ngày càng thiếu vắng chất người. 

Đọc - tự bản thân nó là một hành động kháng cự lại sự lãng quên, sự cạn mỏng và cả sự dễ dãi. Nó khơi mở lại điều tưởng như đã mất: một chiều sâu văn hóa không thể số hóa, không thể sao chép, thứ văn hóa được chưng cất từ mỗi lần lật trang, từ mỗi khoảnh khắc im lặng tự đối diện chính mình. Để được sống với một trái tim có lớp lang. 

Và nếu phải chọn một hành động lặng lẽ nào đó để định nghĩa tinh thần của một dân tộc đang muốn trở mình từ bên trong, thì đó hẳn phải là: đọc sách.

Ngọc Trâm

Đọc bài viết

Trà chiều

Vẻ đẹp từ những cuộc đời bình thường

Không cần phải nổi bật, bạn vẫn có thể sống một đời ý nghĩa.

Published

on

Làm người bình thường giờ đây bị ngầm hiểu là một thất bại trong một thế giới say mê những con người xuất chúng. Từ những giải vàng trong các trường tiểu học đến danh hiệu “nhân viên xuất sắc của tháng”; từ những tấm hình, thước phim được chọn lựa kĩ càng để đăng trên Instagram đến cuộc đua trở thành “phiên bản rực rỡ nhất của chính mình”, văn hóa của chúng ta không ngừng nâng cao chuẩn mực cho những tính từ “thành công”, “xứng đáng” hoặc thậm chí là “đủ”. Nhưng liên tục chạy đua để trở thành người xuất chúng liệu có khiến chúng ta hạnh phúc hơn hay chỉ đang gieo thêm lo âu, mặc cảm và đứt gãy trong kết nối giữa người với người?

Ẩn giấu trong những cuộc đời không mấy nổi bật vẫn tồn tại sự bình yên sâu lắng, đích đến đáng quý, thậm chí là vẻ đẹp đáng tôn vinh. Có lẽ đã đến lúc ta nên giành lại chân lý ấy - rằng không cần rực rỡ để sống một đời đáng sống.

Những chuẩn mực ngày càng leo cao

Ngay cả trẻ con giờ đây cũng không thoát khỏi chuỗi dài những kì vọng từ gia đình và xã hội. Trước kia, thời chúng ta đi học, “trung bình” được coi là nền tảng để phấn đấu, không có gì đáng xấu hổ. Nhưng nhìn xem, lũ trẻ bây giờ đang bị áp lực phải trở thành những người có thành tựu từ khi còn chưa học được cách chơi đùa vô tư. Giành được điểm A vẫn bị coi là chưa đủ tốt nếu chúng không mang thêm giải thưởng, tham gia hoạt động ngoại khóa và trong vai những người dẫn dắt, lãnh đạo đội nhóm. Những rào chắn vô hình không ngừng cao lên, vì thế chẳng ngạc nhiên khi những sinh viên mới bước vào ngưỡng cửa đại học hay thị trường lao động đã kiệt sức thay vì hạnh phúc. 

Mạng xã hội chỉ đổ thêm dầu vào lửa, đốt cháy cuộc đua kì vọng ấy hơn. Không dừng lại ở việc lướt xem những khoảnh khắc rực rỡ của người khác, chúng ta bắt đầu so sánh với cuộc đời chưa được đánh bóng của bản thân. Đọc được câu chuyện về những bạn trẻ 22 tuổi khởi nghiệp, đi du lịch vòng quanh thế giới, tự sắm nhà riêng - ta cảm thấy mình tụt lại vì mỗi ngày chỉ dậy đi làm và thanh toán hóa đơn. Những điều ấy trước kia từng được coi là phi thường, nay bỗng hóa tiêu chuẩn tối thiểu.

Ngay cả trong đời sống riêng, áp lực vẫn len lỏi. Ta phải là những người yêu lý tưởng, cha mẹ dịu dàng, giỏi chăm sóc bản thân và công dân đầy chánh niệm - tốt nhất là xong hết trước 9 giờ sáng. Người ta truyền nhau một quan niệm hiện đại, rằng: bạn đang lãng phí tiềm năng nếu không tối ưu từng giây phút của cuộc đời mình.

Nhưng nếu tiềm năng không phải là một chiếc thang để leo, mà là một không gian để ta an trú thì sao?

Phẩm giá ẩn sau lựa chọn một đời an yên

Hãy đổi cách ta kể câu chuyện. Sẽ ra sao nếu một cuộc sống “tầm trung” lại chính là một công việc đủ nuôi sống bản thân, những mối quan hệ đầy yêu thương, và một mái nhà rộn tiếng cười xen lẫn tiếng bát đũa? Không phải thứ để ta trốn chạy khi nhắc đến, mà là điều đáng để gìn giữ và trân trọng đúng không?

Thật tuyệt khi bạn xuất hiện trên mạng xã hội với những khoảnh khắc như vậy, dù cho chẳng có lời tán dương nào. Chúng ta vẫn luôn cần một người bạn chân thành, một người lạ biết cảm thông, và một đồng nghiệp đáng tin cậy. Những vai trò ấy hiếm khi xuất hiện trên mạng xã hội, nhưng chúng là sợi chỉ âm thầm dệt nên kết cấu bền chặt của xã hội -  điều mà danh vọng và tiền bạc đôi khi không thể làm được.

Hãy nghĩ về những giáo viên, lao công, y tá, tài xế, đầu bếp, điều dưỡng - những con người mà công việc thầm lặng của họ vẫn đang giữ cho thế giới vận hành. Họ có thể không bao giờ được gọi tên rộng rãi, nhưng công sức của họ chạm đến cuộc sống của biết bao người. Những tên gọi nghề nghiệp nghe có vẻ “bình thường”, nhưng những gì họ làm được thì không hề nhỏ bé.

Bình thường không có nghĩa là tầm thường. Đó là sự biết đủ với những gì bạn có, thay vì liên tục đem so với những cuộc đời khác. Đó là việc bạn hiểu rằng mình không thất bại chỉ vì không xuất chúng - chỉ cần là một con người đã luôn là điều đặc biệt. 

Những đánh đổi phía sau niềm tin phải trở nên xuất chúng

Bị cuốn vào cuộc đua theo đuổi sự vĩ đại thường dẫn ta đến tình trạng kiệt sức, lo âu và cô đơn. Chủ nghĩa cầu toàn gây ra chứng tê liệt cảm xúc, còn việc so sánh khiến ta đánh mất niềm vui. Ai cũng có thể “trên mức trung bình” - rõ ràng về mặt thống kê quan niệm này sai. Ấy vậy mà xã hội vẫn tiếp tục bán giấc mơ ấy, và ta vẫn tiếp tục mua nó, rồi cảm thấy mình chưa bao giờ đủ.

Ở một góc độ khác, việc tôn vinh thành công thái quá cũng hình thành một tâm thức thiếu hoàn thiện: nếu chỉ có một vài người ở đỉnh cao, thì phần còn lại ắt phải là kẻ thua cuộc. Nhưng cuộc sống đâu phải là một bảng xếp hạng, nó là bức tranh khảm đầy những niềm vui nhỏ bé, những khoảnh khắc yên tĩnh, và những kết nối thành thật giữa con người với nhau.

Ta chỉ thực sự sống trong hiện tại khi ngừng đuổi theo những cột mốc tiếp theo. Ta có thể tìm thấy sự đủ đầy, không phải trong việc trở nên khác biệt, mà trong cảm giác được thuộc về gia đình, cộng đồng và chính bản thân mình.

Viết lại định nghĩa “cuộc đời ý nghĩa”

Định hình lại những gì là cốt lõi của cuộc sống đòi hỏi sự can đảm - nhất là trong nền văn hóa đầy rẫy phô trương. Nó đồng nghĩa với việc khước từ lối sống "cày cuốc", chọn thầm lặng thay vì tiếng tăm, chọn sống sâu thay vì sống gấp, chọn sống đúng với hệ giá trị riêng của bản thân thay vì đứng trên những tiếng vỗ tay hào nhoáng.

Một cuộc đời ý nghĩa không được xây nên từ giải thưởng hay thuật toán mà được dệt từ những cuộc trò chuyện chân thật, những thói quen bồi đắp nên chúng ta, những bữa cơm trong gian bếp, những bước đi chậm rãi, những cử chỉ tử tế nhỏ nhoi - và nghỉ ngơi mà không mang theo cảm giác tội lỗi.

Hà Nhi dịch từ Psychology Today

Đọc bài viết

Cafe sáng