Phía sau trang sách

Nghệ thuật của sự Tàn độc

Những vần văn của Tanizaki vẫn sống. Có lẽ Akutagawa, cháy rụi ở tuổi còn quá trẻ, biết rằng những vần văn của ông đang tiến gần về cõi chết.

Published

on

ART OF CRUELTY
Ian Buruma

Ra đời hơn kém nhau khoảng mười năm, hai truyện ngắn The Tattooer (Xâm mình) (1910) của Tanizaki Jun’ichiro và Hell Screen (Bức bình phong địa ngục) (1918) của Akutagawa Ryunosuke có những nét tương đồng rõ rệt. Xâm mình kể về Seikichi, một nghệ sĩ xăm mình trong giai đoạn suy đồi thời kỳ Edo (tôi đoán là khoảng những năm 1840), một người có tham vọng – theo lời kể của tác giả – là khảm linh hồn anh lên lớp da của một người đàn bà tuyệt mỹ. Anh tiêu tốn rất nhiều thời gian để kiếm tìm tấm vải bạt người hoàn hảo cho kiệt tác đời mình, và khi bắt gặp đôi chân thanh tú của một thiếu nữ trà quán, anh biết đích đến đã gần kề. Bản năng mách bảo anh rằng, “Đây là bàn chân phải được tưới tắm bằng máu của đàn ông, bàn chân để chà đạp lên thân xác họ.”

Khi thiếu nữ với đôi bàn chân cám dỗ ghé thăm xưởng vẽ của anh, Seikichi cho cô xem bức tranh vẽ một nàng công chúa xinh đẹp – đang chứng kiến cảnh tù nhân bị hành quyết – trong trạng thái say mê. Thiếu nữ thú nhận rằng trong cô cũng dấy lên những xúc cảm tương tự như của nàng công chúa tàn nhẫn. Đôi mắt người thợ xăm lóe lên niềm vui thích. Seikichi bỏ thuốc cô và xăm trên làn da trắng mịn của cô ngày ngày đêm đêm. Khi cô tỉnh dậy từ cơn hôn mê, hình xăm chân nhện trên lưng cô dường như vừa di chuyển từ vai xuống eo. Người thợ xăm kiệt sức, linh hồn anh mắc kẹt vĩnh viễn trong tấm lưới của con nhện cái. Thiếu nữ hóa thân thành một con quỷ dâm dục, từng gã đàn ông một biến thành nô lệ của ả. Dù chuyện gì xảy ra, cái đẹp vẫn khiến cả hai ngây ngất.

*

Câu chuyện của Akutagawa cũng xoay quanh một nghệ sĩ – một họa sư cung đình của lãnh chúa quyền lực nhất Kyoto. Họa sư Yoshihide có sở thích vẽ những khung cảnh bạo lực và ác nghiệt; hắn khăng khăng đòi chứng kiến tận mắt từng tình tiết kinh hoàng trước khi vẽ lại thành tranh. Gã đệ tử xinh trai của hắn bị ép khỏa thân và tra tấn bằng rắn và chim cú, hoặc trói lại trong những tư thế đau đớn cùng cực.

Yoshihide, một người đàn ông u buồn và chết chóc, chỉ duy nhất yếu lòng trước cô con gái mà hắn thương yêu hết mực. Lãnh chúa của Yoshihide phải lòng cô gái xinh đẹp này, nhưng những lời tán tỉnh của ngài bị cự tuyệt.

Yoshihide nhận lệnh vẽ một bức bình phong khắc họa khung cảnh địa ngục. Hắn yêu cầu lãnh chúa một ân huệ: để truyền tải trọn vẹn sự rùng rợn của chủ thể trung tâm, hắn muốn được chứng kiến cảnh một chiếc xe bò bốc cháy, trong đó có một quý cô đang giãy giụa trước cái chết khiếp đảm cận kề. Lãnh chúa, với sự chờ mong thích ý, hứa hẹn sẽ dàn xếp được yêu cầu này. Một chiếc xe bò xuất hiện với một người thị nữ xiêm y lộng lẫy ở trong. Ngay khoảnh khắc chiếc xe bắt lửa, Yoshihide phát hiện – trong sự hỗn loạn vừa kinh hoàng vừa mê hoặc – rằng hắn đang chứng kiến chính con gái mình bị thiêu sống. Bức bình phong của hắn hiển nhiên là kiệt tác, được tất cả mọi người ca tụng. Vào ngày tác phẩm hoàn thành, Yoshihide treo cổ chết.

Cả hai câu chuyện đều lãng mạn và mỹ, tuy nhiên trong trường hợp của Tanizaki lại có đôi chút bóng bẩy và đồi trụy. Nó phi luân lý – không phải là trái luân lý – như lời phán quyết của Oscar Wilde rằng không có nghệ thuật luân lý hay trái luân lý, chỉ có nghệ thuật tốt hay tồi. Đúng vậy, trong cả hai tác phẩm, nghệ thuật vị nghệ thuật được đẩy tới giới hạn tận cùng. Không có gì – kể cả cái chết – là quá đà để hi sinh cho chữ mỹ.

Ai đó có thể bị lừa phỉnh mà nhận thấy những đặc trưng Nhật Bản trong hai tác phẩm này – một cảm giác mỹ học không bị trói buộc bởi phẩm hạnh Thiên Chúa Giáo. Quan điểm này được một số nhà phê bình Nhật Bản ủng hộ; họ chỉ ra rằng những giá trị mỹ học của Tanizaki không phải là lời công kích đến đức hạnh hay nhân văn, mà nó hoàn toàn bàng quan trước những quan tâm kể trên. Điều này trái ngược với giới “suy đồi” Tây phương, những kẻ cứ bận bịu chống đối cùm chân tôn giáo nên chẳng bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi đó. Cũng có thể suy đoán rằng những nghệ sĩ trưởng thành trong nền văn hóa nặng nề lễ nghĩa sẽ trở nên ám ảnh với những xúc cảm chân thật; lòng thành của họ chỉ có thể được kiểm nghiệm thông qua những thái cực bạo liệt – ví như tự tử đôi là chứng nhân duy nhất của tình yêu bền bỉ, và tương tự thế.

Nhưng tôi không cho rằng mỹ học của sự tàn độc trong những tác phẩm của Tanizaki và Akutagawa mang đậm chất Nhật. Khi viết Xâm mình, Tanizaki là một độc giả nồng nhiệt của Oscar Wilde, và điều đó hiện hữu. Sự ám ảnh của ông với hình tượng femme fatale1 (độc phụ) – ít nhất là trong những tác phẩm thời kỳ đầu – bị chi phối bởi Flaubert, Baudelaire và Wilde cũng nhiều như bởi văn chương Nhật Bản.

*

Tôi nghĩ rằng nhận xét này cũng đúng với Akutagawa. Tác phẩm của ông thường đặt bối cảnh trong một giai đoạn lịch sử Nhật Bản, nhưng tri giác văn chương của ông bị ảnh hưởng sâu sắc bởi các tác giả Tây phương. Trong Cogwheels (Những bánh răng), một ghi chép u buồn về căn bệnh điên đang dần phôi thai, được dịch nhuần nhuyễn bởi Cid Corman và Susumu Kamaike, Akutagawa liên tục đề cập đến văn chương Tây phương, khiến những ảo giác của ông bị nhuốm màu mê sách lạ thường, hệt như thể ông đang sống cạnh những bóng ma văn học.

“Khi ngồi trong phòng, tôi từng nghĩ về việc gọi điện đến một bệnh viện tâm thần nào đó. Nhưng bước chân đến đó nghĩa là tôi chết. Sau nhiều phút chần chừ, tôi quyết định đọc Tội ác và trừng phạt để sao nhãng chính mình. Tuy nhiên, trang văn mà tôi tìm đến là của Anh em nhà Karamazov. Đó là đoạn văn Ivan bị hành hạ bởi Pháp Quan Ác Quỷ. Ivan, Strindberg, de Maupassant, chính tôi, trong căn phòng này…”

Tôi không có ý nói hai người này thiếu sáng tạo, hay là văn chương của họ không phản ánh được văn hóa và xã hội Nhật. Nhưng tôi nghĩ rằng có những phương thức tưởng thưởng hơn để tiếp cận những tác gia trác tuyệt này (tôi hơi ngần ngừ khi dùng từ trác tuyệt để miêu tả Akutagawa, nhưng không với Tanizaki) hơn là việc tìm kiếm cái gì mới là kết tinh chất Nhật. Ví dụ, vì sao hai tác giả với lý lịch tương đồng, có lối thưởng thức văn chương khởi điểm giống nhau, lại kết thúc ở hai thái cực đối lập?

Cả hai người đều được sinh ra tại “hạ thành” Tokyo. Cả hai đều bị quyến rũ bởi phương Tây, dù chưa ai đặt chân đến đó. Cả hai người đều thoát ly (nếu đó là từ ngữ chính xác) khỏi vấn đề chính trị và xã hội vào chủ nghĩa mỹ học. Nhưng Akutagawa từ chối những ảo tưởng ma quỷ để đến với những bài viết tự truyện duy ngã luận mà những nhà phê bình văn học Nhật thích phân loại là văn học tinh khiết nhất. Ở đây, văn học tinh khiết là văn học không cốt truyện, thuần túy tập trung vào những biến chuyển vụn vặt trong tâm trạng tác giả và những chi ly tiểu tiết trong cuộc đời không mấy biến cố của anh ta.

Trái lại, Tanizaki luôn là một tác giả nổi tiểng không biết ngượng cùng khẩu vị kịch nghệ, tư tưởng đa dâm và ảo tưởng lố bịch không bao giờ ngã ngựa đến tận khi ông chết ở tuổi 79 vào năm 1965. (Akutagawa tự sát vào năm 1927 khi ông 35 tuổi.) Trong một bài luận về Tanizaki, Mishima Yukio từng bình luận rằng người dì xinh đẹp của ông sẽ có nét vui vẻ trầm lặng khi nghe người ta đề cập đến những tác phẩm “suy đồi” của Tanizaki. Mishima viết, “Văn chương của Tanizaki đầu tiên hẳn là rất ngon lành, như ẩm thực Pháp hoặc Trung Hoa.”

Chủ thể văn chương chính của Tanizaki là tình dục, đặc biệt là ác dâm, dẫn đến hứng thú của ông với bàn chân của các quý cô, trong khi Akutagawa càng càng càng chìm đắm trong chủ nghĩa ái kỷ, thiếu thốn giá trị chung, kinh tởm với bản thân, và cuối cùng là cái chết. Những ám ảnh đa dạng ấy hiện diện rõ ràng trong hai truyện ngắn tường thuật ở trên. Nhân vật nam chính của Tanizaki – Seikichi – biến nàng thơ của mình trở thành một ả quái vật, nhưng đồng thời tìm thấy sự thỏa mãn nhục dục. Họa sư của Akutagawa tạo ra được kiệt tác đời mình, nhưng phải hi sinh người duy nhất hắn thương yêu. Nỗi ám ảnh của ông hóa thân thành sự ghê tởm, cuộc đời của ông trở nên vô nghĩa và chẳng đáng sống.

*

Những cuốn sách đang được bàn luận ở đây trước nhất nó thú vị bởi giá trị văn chương. Điều này đặc biệt chính xác trong trường hợp của Akutagawa. Những bài luận về thời thơ ấu với kết nối lỏng lẻo của Tanizaki có hiệu quả tốt hơn trong tiếng Nhật so với tiếng Anh. Paul McCarthy đã thực hiện một bản dịch xuất sắc, nhưng ông đã đúng khi cảnh báo trong phần dẫn dắt rằng các độc giả phương Tây có thể bối rối trước kết cấu chương hồi, vô tổ chức của tác phẩm – kết cấu này rất được các độc giả Nhật yêu thích, nhưng không thường gặp trong văn chương phương Tây đương đại. Tuy nhiên, những bài luận của Tanizaki là một bản hướng dẫn vô giá về cá tính của ông. Đây là bức chân dung tuyệt diệu của một nghệ sĩ viết như một đứa trẻ (người ta đã đúc kết rằng, theo cách nào đó, Tanizaki mãi mãi vẫn là một đứa trẻ). Ắt hẳn, sự hoài cổ về tuổi thơ là sợi dây xuyên suốt trong hầu hết những cuốn sách của ông. Đồng thời, thiên hướng gợi tình cũng là một phần quan trọng trong hồi ký thơ bé của Tanizaki, hẳn nhiên phải vậy.

Cứ thế, chúng ta biết đến những trò chơi con trẻ được hưởng ứng bởi Tanizaki và những người bạn, như là “trò bóng rổ”. Những cậu bé học sinh nhỏ tuổi cùng nằm xuống trong những cái rổ được đặt tên là “buồng ngủ của gái bán hoa”, giả vờ như họ là khách quan và gái nhà thổ trong nhà chứa hạng sang. Thời bấy giờ, có rất nhiều vụ án mạng gớm guốc xảy ra, thu hút được sự say mê của giới trẻ. Một trường hợp như thế – sau đó được dàn dựng thành một vở kịch nổi tiếng và được Tanizaki ưa thích – là vụ sát hại một gái quầy bar giải nghệ bởi người chồng pháp lý của cô. Tình tiết nổi bật là mặt cô đã bị con dao rạch đến biến dạng. Những bức ảnh chụp lại gương mặt này, cùng với hình ảnh của những diễn viên nổi tiếng, được trưng bày tại hội chợ địa phương. Một câu chuyện khác, khiến Tanizaki thậm chí còn hài lòng hơn, là việc tình thế đảo ngược khi nàng geisha thời thượng O-ume đâm chết tình nhân với một con dao nhà bếp. Mẹ của Tanizaki kết luận, “Tôi nghĩ nàng ta hẳn là hình mẫu của thế gian khi bàn về một ‘người phụ nữ thực thụ’!” Tanizaki trưởng thành chắc chắn là đồng ý.

Sự tôn sùng phụ nữ của Tanizaki được khơi nguồn từ mẹ ông, người dĩ nhiên là một mỹ nhân. Mọi người, kể cả chính ông, đều kể rằng ông là một cậu bé bám mẹ và một đứa bé hay khóc đến không tưởng. Dẫu đã qua những tháng năm chập chững, Tanizaki vẫn không cưỡng lại được bầu ngực của mẹ mình. Ông cho rằng nguyên nhân không phải là do vị sữa mẹ, mà vì “hương thơm ngọt ngào và hơi ấm dịu dàng từ bầu ngực Mẹ.” So sánh với mẹ của Akutagawa, một người đàn bà điên:

“Mẹ tôi là một người điên. Tôi chưa bao giờ trải nghiệm được cái gì gần với tình mẫu tử từ bà. Bà luôn luôn ngồi một mình trong nhà chính ở Shiba, mái tóc vấn vít quanh răng lược, thổi phù phù qua một tẩu thuốc thân dài. Gương mặt và thân hình bà rất nhỏ nhắn. Tôi không giải thích được, nhưng gương mặt bà luôn có màu tro, không có dấu hiệu sức sống nào.”

Ta còn nghe kể lại, một nguồn cảm hứng khác của Tanizaki là bức tranh Đức Mẹ Madonna thuộc quyền sở hữu của ông nội ông – thành viên Nhà thờ Dòng chính Nga. “Với lòng tôn kính không thể diễn tả thành lời, ngắm nhìn đôi mắt của Đức Mẹ Đồng Trinh đầy ân cần và từ ái, tôi cảm thấy như mình không muốn rời xa bà.”

*

Nagai Kafu – tiểu thuyết gia, dịch giả Baudelaire, một người cống hiến cả đời mình cho đời sống nhà thổ – khen ngợi những tác phẩm thời kỳ đầu của Tanizaki, đặc biệt là Xâm mình vì phong cách, sự tinh tế và “vẻ đẹp sâu sắc, bí ẩn nảy mầm từ sự kinh khủng xác thịt.” Thế nhưng Paul McCarthy – một người phô diễn sự sành sõi đáng nể với gu gợi tình của Tanizaki – lại có vẻ bối rối trước ý nghĩa chính xác trong cách diễn đạt của Kafu. Với tôi, những gì Kafu muốn nói khá rõ ràng. Bất cứ khi nào sự tôn sùng phụ nữ của Tanizaki nhuốm màu nhục dục, những nữ thần thanh tao ấy sẽ biến thân thành những con quỷ. Họ vẫn đẹp khó tả, và thậm chí còn đẹp hơn, có lẽ chính bởi những kinh hoàng mà họ gây ra.

Một khía cạnh thú vị trong hình mẫu femme fatale của Tanizaki là những cô gái ấy thường bị Tây hóa, xấc xược, màu sắc, và hơi thô tục. Điều này khiến nhà phê bình người Nhật Eto Jun bình luận rằng sự tôn sùng mang tính khổ dâm của Tanizaki là phép ẩn dụ cho Nhật Bản hiện đại. Nhật Bản tôn thờ Tây phương, hệt như cách những nam nhân của Tanizaki liếm chân những mụ nữ thần phản trắc. Nhưng Eto, người bị ám ảnh bởi Tây phương kể từ vụ chiếm đóng sau chiến tranh, hẳn nhiên là sẽ nói thế. Sự thật là, sự tôn thờ của Tanizaki rất lưng chừng nước đôi. Phương Tây, tựa như những tình nhân tàn độc, quyến rũ nhưng nguy hiểm. Ông từng so sánh văn hóa phương Tây như một thứ thuốc phiện vừa ngọt ngào vừa chết người. Trong những năm tuổi trẻ, ông từng bộc lộ ham muốn bị giết chết bởi thứ thuốc này. Về sau, khi ông rời khỏi Tokyo vào thập niên 1920, Tanizaki ngày càng hướng mình về Nhật Bản truyền thống của thời thơ ấu – vẫn còn sót lại ở Kyoto.

Thậm chí trong những câu chuyện về thời thơ ấu, những người phụ nữ Tây phương đĩ điếm vẫn xuất hiện như những sinh vật sinh ra từ trí tưởng tượng hơn là thứ gì khác. Tanizaki mô tả một nhóm những quý cô Anh Quốc trẻ tuổi trong một tổ chức mang tên Đại Học viện Văn hóa Âu châu, thiết lập tại đặc khu ngoại quốc ở Tokyo. Những quý cô quyến rũ này dạy tiếng Anh ở tầng một, nhưng có một khu tầng hai bí ẩn, nơi những học sinh nhỏ tuổi người Nhật bị cấm đặt chân đến. Một người bạn của Tanizaki mô tả – sau một cú nhìn trộm – rằng nó như một cái sào huyệt xa hoa. Có tin đồn lan truyền rằng khi những quý ông Nhật Bản giàu có đến thăm khu nhà, công việc của những quý cô này đa dạng hơn là chỉ dạy tiếng Anh.

Mặc cho những tôn thờ của ông nội mình dành cho Đức Mẹ Đồng Trinh, Tanizaki chưa bao giờ thờ phụng tôn giáo hay là một người mộ đạo. Và cũng mặc cho những hiểu biết uyên thâm về văn chương Nhật, Trung và phương Tây, ông cũng không phải là một tác gia đặc biệt tài trí. Thực vậy, chính vì cái tiếng tăm rằng ông đam mê chủ nghĩa khoái lạc đến hết thuốc chữa, ông không được giới trí thức coi trọng. Văn chương của Tanizaki không có đủ thống khổ và tự vấn lương tâm để được đánh giá là “văn chương tinh khiết.”

Mặt khác, Akutagawa khiến họ hài lòng hơn; tác phẩm của ông luôn có đủ đầy thống khổ và tự vấn lương tâm. Ông chết với một quyển Kinh Thánh cạnh giường. Thế nhưng, ông chưa bao giờ – như cách người ta thường nói – tìm thấy Chúa. Trong Những bánh răng, một ông lão đã đề xuất rằng Thiên Chúa Giáo có thể là giải pháp cho nỗi đau của ông:

 “Nếu tôi có thể trở thành…”

 “Chẳng có gì khó đâu. Chỉ cần cậu tin vào Chúa, và Christ Con Trai Chúa Trời, và những phép màu mà Christ tạo ra…”

 “Ác quỷ thì tôi tin đấy…”

 “Vậy thì tại sao không tin vào Chúa? Nếu cậu tin vào bóng tối, tôi chẳng hiểu vì sao cậu không thể tin vào ánh sáng.”

 “Bởi vì có một số loại bóng tối chẳng hề có chút ánh sáng nào.”

Có thể lý do Akutagawa bị thu hút bởi Thiên Chúa Giáo một phần là do những giá trị mỹ học, tương tự như Oscar Wilde, cả hai người đều thưởng thức khía cạnh nghi thức và hình tượng tôn giáo. Nhưng tôi nghĩ mọi chuyện còn hơn thế. Mặc dù Akutagawa chưa bao giờ là một văn hào chính trị, ông hiển nhiên nhận thức được đi kèm với hiện đại hóa kiểu Tây phương là một sự rối loạn tín ngưỡng. Cũng không hẳn là ông có một nỗi khao khát phản động với Nhật Bản thuyền thống, còn lâu mới thế. Theo như ông nghĩ, Nhật Bản truyền thống cũng sụp đổ rồi. Điều ông đang tìm kiếm là một đặc tính tín ngưỡng vạn năng có thể cứu rỗi ông khỏi cái cảm quan cô lập dẫn đến chủ nghĩa duy ngã bệnh hoạn và thói ái kỷ thuần túy. Donald Keene tóm tắt chuẩn xác: “Người ta có thể vượt qua thói ái kỷ nhờ ơn trên, chứ không phải nhờ sự chiêm nghiệm cẩn trọng từ bất cứ luật lệ ứng xử nào.”

*

Những mô tả ngắn gọn của Akutagawa về sự thống khổ tinh thần dẫn đến kết cục tự tử là một bộ tài liệu xúc động. Ta cảm nhận được sức sống đang cạn dần từ người đàn ông này, chẳng để lại gì ngoài trí tuệ – lạnh băng, minh bạch đến kinh hoàng – những khi ông không chìm đắm trong những cơn hoang tưởng. Trong A Fool’s Life (Cuộc đời một kẻ ngốc), ra đời như bức thư tuyệt mệnh không lâu trước khi ông tự sát, Akutagawa so sánh mình với Icarus, trí tuệ của ông được gắn với đôi cánh nhân tạo bởi Voltaire:

 “Mở ra đôi cánh nhân tạo này, anh dễ dàng bay đến trời cao. Tắm mình trong ánh sáng lý luận, niềm vui và nỗi buồn nhân thế chìm dần dưới mắt anh. Vượt qua những thị trấn bẩn thỉu, đánh rơi sự chế nhạo và giễu nhại, anh bay vút lên những khoảng không vô định, hướng thẳng đến mặt trời. Cứ thế với đôi cánh nhân tạo, cháy xém bởi sức chói của mặt trời, một người Hy Lạp cổ đại đã rơi xuống biển, chết. Hình như anh đã quên điều đó rồi…”2

Tất cả những phân tích trên đâu đó ám chỉ rằng Akutagawa là một nhà văn sâu sắc hơn quý ngài Tanizaki thích hưởng lạc, kẻ dành quá nhiều thời gian cho những ám ảnh xác thịt hơn cho Voltaire, Icarus và sức sáng chói của mặt trời. Nhưng tôi tự hỏi điều này liệu có đúng không. Tôi tự hỏi liệu Tanizaki, thông qua sự hiểu biết sâu sắc về chủ nghĩa gợi tình, liệu có tiến gần với cốt lõi loài người hơn là Akutagawa không. Và điều quan trọng hơn là, Tanizaki đã truyền tải được điều này trong văn chương của mình. Những vần văn của Tanizaki vẫn sống. Có lẽ Akutagawa, cháy rụi ở tuổi còn quá trẻ, biết rằng những vần văn của ông đang tiến gần về cõi chết. Có lẽ đó là lý do ông không thể sống tiếp được nữa.

Hết.

Chú thích:

  1. Femme fatale (độc phụ) là danh từ ám chỉ hình mẫu phụ nữ có ngoại hình quyến rũ và bí ẩn lạ lùng, mê hoặc đàn ông nhưng thường mang trong mình những dụng ý nguy hiểm và thâm độc.
  2. Trích từ Cuộc đời một kẻ ngốc, Phạm Bích và Đỗ Nguyên dịch, NXB Văn học.

Aki-ten dịch.

Bài viết gốc được thực hiện bởi Ian Buruma, tại The New York Review of Books.


Đọc tất cả những bài viết của Aki-ten.


Tìm hiểu về tác giả Tanizaki Jun’ichiro



Phía sau trang sách

Giải mã hạnh phúc: Khám phá nguồn gốc của niềm vui và sự hài lòng

Liệu có bí mật nào cho hạnh phúc? Đây là câu hỏi đã xuất hiện từ hàng thập kỷ trước, và nhiều triết gia, lãnh tụ tôn giáo cũng như nhà khoa học đã đưa ra câu trả lời của riêng họ. Nhưng liệu có thể dùng khoa học để giải mã sự mưu cầu hạnh phúc được không?

Published

on

Hãy cùng đến với “Giải mã hạnh phúc”. Đây là một giả thuyết được đưa ra bởi chuyên gia tâm lý Jonathan Haidt, cho rằng hạnh phúc đến từ những khao khát nội tâm và đồng thời cũng đến từ các yếu tố bên ngoài. Nói cách khác thì hạnh phúc vừa là “bẩm sinh”, vừa là “nuôi dưỡng”.

Cụ thể thì như vậy nghĩa là gì? Hãy cùng phân tích các thành phần tạo nên “Giải mã hạnh phúc”, cũng như cách ứng dụng chúng vào cuộc sống để tìm kiếm niềm vui và sự hài lòng.

Bẩm sinh

Yếu tố di truyền đóng một vai trò nhất định trong cảm nhận chung về hạnh phúc của chúng ta. Một số người sinh ra đã có cái nhìn lạc quan, trong khi những người khác có thể phải vật lộn với lo âu và trầm cảm. Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhớ là mặc dù di truyền có thể ảnh hưởng đến mức độ hạnh phúc cơ bản, nhưng chúng không phải là yếu tố quyết định duy nhất.

Nuôi dưỡng

Môi trường và trải nghiệm cũng định hình hạnh phúc, điều này  bao gồm các mối quan hệ, công việc và thậm chí cả cộng đồng nơi chúng ta sống. Bằng cách tạo ra một môi trường hỗ trợ và trọn vẹn, chúng ta có thể nuôi dưỡng hạnh phúc lớn hơn trong cuộc sống.

Cân bằng giữa mong muốn và hoàn cảnh: “Giải mã hạnh phúc” cho rằng chúng ta có thể tìm thấy hạnh phúc bằng cách cân bằng giữa mong muốn bên trong và hoàn cảnh bên ngoài. Ví dụ, nếu bạn có mong muốn mạnh mẽ về an ninh tài chính, có thể bạn cần tìm một công việc mang đến nguồn thu nhập ổn định. Mặt khác, nếu bạn có niềm đam mê sâu sắc với sự sáng tạo, việc theo đuổi một sự nghiệp cho phép niềm đam mê đó phát triển có thể quan trọng hơn.

Vậy, làm cách nào để áp dụng “Giải mã hạnh phúc” vào thực tiễn? Dưới đây là một vài mẹo giúp bạn tìm thấy niềm vui và sự hài lòng trong cuộc sống:

1. Xác định các giá trị của bản thân: Hiểu được điều gì thực sự quan trọng với bạn có thể giúp định hướng các quyết định và tạo ra một cuộc sống viên mãn hơn.

2. Nuôi dưỡng các mối quan hệ: Mối quan hệ bền chặt với gia đình và bạn bè có thể mang lại tình yêu thương, sự hỗ trợ và cảm giác được thuộc về.

3. Theo đuổi đam mê: Tham gia vào các hoạt động và sở thích mang lại niềm vui có thể làm tăng cảm giác hạnh phúc và hài lòng.

4. Thực hành lòng biết ơn: Dành thời gian để trân trọng những điều tốt đẹp trong cuộc sống, dù nhỏ bé, có thể làm tăng cảm giác hạnh phúc tổng thể của bạn.

5. Cho đi: Giúp đỡ người khác có thể mang lại ý nghĩa và sự trọn vẹn cho cuộc sống của chúng ta.

Jonathan Haidt là một nhà tâm lý học và nhà tâm lý học xã hội, nổi tiếng với các công trình nghiên cứu về tâm lý học đạo đức và tâm lý học tư tưởng chính trị. Ông là giáo sư ngành Lãnh đạo Đạo đức tại Trường Kinh doanh Stern thuộc Đại học New York, và đã xuất bản một số cuốn sách và nhiều bài báo nghiên cứu trong lĩnh vực tâm lý học.

Các công trình của Haidt thường tập trung vào ý tưởng rằng niềm tin và giá trị đạo đức của chúng ta được hình thành bởi nhiều yếu tố, bao gồm văn hóa, sự nuôi dạy và kinh nghiệm cá nhân. Ông lập luận rằng đạo đức không chỉ là vấn đề lý trí mà còn bị ảnh hưởng bởi cảm xúc và trực giác của chúng ta.

Một trong những đóng góp đáng chú ý nhất của Haidt cho lĩnh vực tâm lý học là mô hình “trực giác xã hội” về phán đoán đạo đức. Mô hình này cho rằng các phán đoán đạo đức thường dựa trên những đánh giá tự động, vô thức về các tình huống, thay vì lý luận có ý thức và có chủ ý. Công trình này thách thức quan điểm truyền thống cho rằng việc ra quyết định đạo đức là một quá trình hoàn toàn lý trí, và nhấn mạnh tầm quan trọng của cảm xúc và trực giác trong việc hình thành niềm tin đạo đức của chúng ta.

Nghiên cứu của Haidt cũng đã khám phá vai trò của đạo đức trong hệ tư tưởng chính trị, và ông đã chỉ ra rằng những người theo chủ nghĩa bảo thủ và tự do thường có nền tảng đạo đức khác nhau. Ví dụ, những người theo chủ nghĩa bảo thủ có xu hướng coi trọng các giá trị như lòng trung thành, quyền lực và sự thiêng liêng, trong khi những người theo chủ nghĩa tự do có xu hướng coi trọng sự công bằng và chăm sóc. Haidt lập luận rằng những khác biệt về đạo đức này đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình thái độ và hành vi chính trị.

Các công trình của Haidt đã được trích dẫn rộng rãi và nhận được nhiều giải thưởng, bao gồm Giải thưởng William James Fellow từ Hiệp hội Khoa học Tâm lý. Các cuốn sách của ông được ca ngợi vì dễ tiếp cận và chứa đựng những hiểu biết sâu sắc về tâm lý con người.

Nhìn chung, những đóng góp của Jonathan Haidt cho lĩnh vực tâm lý học đã làm sáng tỏ vai trò của đạo đức và cảm xúc trong việc định hình niềm tin và hành vi, đồng thời giúp mở rộng hiểu biết về sự phức tạp của tâm trí con người.

Tóm lại, “Giải mã hạnh phúc” nhắc nhở chúng ta rằng hạnh phúc là sự kết hợp của cả bẩm sinh và nuôi dưỡng. Bằng cách cân bằng những mong muốn bên trong với hoàn cảnh bên ngoài, chúng ta có thể tạo ra một cuộc sống viên mãn và vui vẻ hơn. Vậy nên, hãy thử kiểm chứng “Giải mã hạnh phúc” và xem liệu nó có khiến bạn hạnh phúc hơn không nhé!

Lam dịch từ MindfulMac

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Cafe sáng