Phía sau trang sách

Mekong và nỗi ám ảnh của các nhà thám hiểm Pháp

Published

on

Qua Con đường thủy vào Trung Hoa, tác giả Milton Osborne đã tái hiện lại hành trình khám phá Mekong vô cùng sống động của các nhà thám hiểm người Pháp, từ đó làm rõ động cơ, mục đích cũng như là những hoài nghi vẫn còn tồn đọng nhiều thế kỷ qua.

Tình hình Mekong trước chuyến thám hiểm

Là sử gia nổi tiếng chuyên nghiên cứu về khu vực Đông Nam Á, bằng 10 năm đọc và nghiên cứu gián đoạn, cũng như những chuyến du khảo tại vùng Đông Dương từ năm 1959, Osborne thông qua tài liệu lưu trữ cũng như ghi chép cá nhân của phi hành đoàn, đã viết nên một cuốn sách hấp dẫn và lý thú như hành trình vào vùng huyền bí của giáo sư Challenger trong tác phẩm nổi tiếng của Sir Arthur Conan Doyle.

Cuốn sách xoay quanh cuộc thám hiểm sông Mekong trong hai năm 1866-1868, được chính quyền thực dân Pháp ở Nam Kỳ phát động. Xuất phát vào ngày 5.6 tại Sài Gòn, đoàn thám hiểm gồm 5 thành viên, do Đại úy Ernest Doudart de Lagrée làm trưởng đoàn, sau đó là Trung úy Francis Garnier (phó đoàn). Thành viên bao gồm Louis Delaporte – nhà sử học nghệ thuật, Louis de Carné – nhân viên Bộ Ngoại giao và hai trợ lý y tế: Eugene Joubert (kiêm nhà địa chất học) và Clovis Thorel (kiêm nhà thực vật học).

6 thành viên của đoàn thám hiểm đang nghỉ ngơi trên các bậc thang của ngôi đền Angkor. Từ trái qua phải họ là: Lagrée, de Carné, Thorel, Joubert, Delaporte và Garnier. Ảnh: Émile Gsell.

Một trong rất nhiều điểm sáng của cuốn sách này là Osborne đã đưa ra những nhận định có phần bất ngờ về động cơ của cuộc thám hiểm. Trái với suy nghĩ số đông rằng sự can thiệp vào vùng Mekong của đế quốc Pháp phần lớn phụ thuộc vào mong muốn bành trướng thuộc địa, thế nhưng qua tác phẩm này, tác giả đã chứng minh điều hoàn toàn ngược lại.

Ông viết “lịch sử bàn cờ chính trị Pháp từ đầu thế kỷ 19 thường xuyên cho thấy các chính phủ kế tiếp nhau không sẵn sàng góp sức phát triển các mô hình thương mại ở xa.” Vì vậy khi Louis Napoleon lên nắm quyền năm 1848, thì việc mở rộng phạm vi hoạt động ở phương Đông bắt nguồn từ nhiều lý do hơn là ý định của một quân vương cách xa ngàn dặm.

Đầu tiên là các giáo sĩ thừa sai muốn chính phủ bảo vệ tu sĩ và tín đồ của họ, trong khi cánh sĩ quan hải quân thì mãi luôn tin nước Pháp phải có được những thành công không thể thua kém Anh Quốc ở mảng thuộc địa. Còn với bộ phận thương gia, đặc biệt là dân Lyon và Bordeaux, thì họ bực dọc vì Pháp không có trong tay nơi nào sánh được với Singapore và Hồng Kông như của Anh Quốc.

Điều này cũng được khẳng định khi Osborne nhấn mạnh vào sự chần chừ của Thống soái Nam Kỳ để phê duyệt cho cuộc hành trình, vì không một ai có thể chắc chắn về mục đích cuối để khám phá Mekong. Vì vậy theo Osborne, chuyến đi tìm thượng nguồn sông Mekong chủ yếu bắt nguồn từ các cá nhân, mà cụ thể là Francis Garnier – phó đoàn – người mang tinh thần dân tộc đến mức cực đoan, với việc giơ cao lá cờ tam tài cho một thời đại của mission civilisatrice (sứ mệnh khai hóa văn minh).

Đoàn thám hiểm hạ trại trước một chuỗi ghềnh trên đất Lào. Tranh của Louis Delaporte.

Trước đó, Mekong cũng đã được nhiều nhà thám hiểm để mắt quan tâm. Trong khi nhà thám hiểm người Pháp Henri Mouhot phải dựa vào Anh để tìm ra được thành quách của Angkor Wat, thì sĩ quan quân đội người Anh McLeod cũng đã thám hiểm sông Salween dọc theo biên giới Thái Lan, được coi như là dấu hiệu cho sự cạnh tranh cũng như tham vọng của phía đối địch.

Osborne cũng đã khẳng định gần 300 năm từ khi giáo sĩ người Bồ Đào Nha Da Cruz lần đầu viết về Mekong, thì hiểu biết của châu Âu vẫn chẳng tiến bộ bao nhiêu. Ông cũng ví họ chỉ như “những vật ký sinh trên cơ thể chính trị của khu vực này.”

Vì vậy công cuộc thám hiểm vào năm 1866 chính là cơ hội phục thù cho những sự thiếu hiểu biết nói trên. Giờ đây mục tiêu tối hậu là việc trả lời câu hỏi về nguồn gốc con sông, cũng như tiềm năng của bản thân nó trong vấn đề kinh tế.

Để giải quyết được vấn đề này, chính phủ Pháp tại Nam Kỳ đã hướng các nhà thám hiểm đến và thâm nhập vào những vùng đất từng giàu có và thịnh vượng trong quá khứ, từ đó tạo mối nối kết thương mại có lợi giữa chúng với vùng thuộc địa mới thành lập gần cửa sông Mekong.

Mục tiêu chính của cuộc thám hiểm là thu thập các tài liệu khoa học, lập bản đồ, xúc tiến ngoại giao và đánh giá khả năng giao thông của dòng sông để liên kết các khu vực đồng bằng Nam Kỳ, cảng Sài Gòn với vùng Thượng Xiêm (ngày nay là Thái Lan) và miền nam Trung Quốc. Tham vọng của chính quyền Pháp là tạo dựng ra một trung tâm thương mại thành công ở Sài Gòn, tựa như người Anh đã thực hiện kiểm soát Thượng Hải ở cửa sông Dương Tử.

Bìa sách Con đường thủy vào Trung Hoa. Ảnh: Phương Nam Book

Hành trình sống động

Bằng các ghi chép và những thư từ của năm thành viên, Osborne đã dựng nên một câu chuyện có phần hấp dẫn như cuộc phiêu lưu của thuyền trưởng Corcoran. Trên đường đi, đón chờ đoàn thám hiểm là những thử thách tưởng như không thể vượt qua. Bằng các hình ảnh được họa lại bởi Louis Delaporte và ghi chép của Francis Garnier (mà mấy năm trước tác phẩm Hành trình thám hiểm Đông Dương đã được ra mắt độc giả Việt Nam), Osborne đã cho thấy được không khí ảm đạm, biệt lập của vùng Kratie – tiền đồn xứ Campuchia.

Liền ngay sau đó là các ghềnh thác liên tục trải dài, ngăn cản bước tiến của đoàn thám hiểm. Từ việc phải chèo ngược dòng trên thuyền độc mộc với quân số hậu cần và trang thiết bị quá lớn, đến việc gặp phải “thác Niagara” hình bậc thang Khone ở Nam Lào… tất cả càng làm cho tình thế của đoàn thêm khó khăn hơn.

Đoàn thám hiểm phải luân chuyển liên tục giữa thuyền độc mộc và phu thồ do mực nước chênh lệch. Tranh của Louis Delaporte.

Osborne cũng đào rất sâu vào sự kiềm chế trong các trang viết của từng thành viên để tạo nên một tác phẩm thật sự chân thực. Ông đã xoáy sâu vào các cáo buộc chống đối lẫn nhau giữa các nhà thám hiểm, để thấy đây cũng đồng thời là một nguyên nhân góp phần vào khó khăn chung.

Đó là tính cách có phần đối nghịch giữa trưởng đoàn Lagrée và phó đoàn Garnier, hay giữa Garnier và de Carné mới hơn 20 tuổi một chút. Cộng với những căn bệnh của miền nhiệt đới, vắt, đỉa, giày dép rách nát, thực vật dày đặc trên từng ngã đường… cũng đã bao phen làm họ nhụt chí.

Các loài lan bản địa do Louis Delaporte ghi lại. Tranh của Louis Delaporte
Pháo hoa tại Bassac khi đoàn thám hiểm đến đúng vào dịp Lễ hội Té nước. Tranh của Louis Delaporte.

Đó cũng còn chưa tính đến việc quay trở lại cũng như tách đoàn rất nhiều lần khi chưa có giấy phép để vào Trung Hoa. Ở Miến Điện, họ phải đối mặt với cơ chế chính trị không thật rõ ràng, khi các lực lượng thay nhau nắm quyền. Ở Trung Quốc, tình hình tương tự cũng đã xảy ra ngay tại Vân Nam với cuộc nổi dậy của người Hồi và nạn dịch tả, cùng cái lạnh ở Côn Minh, nạn thảo khấu ở Kiến Thủy…

Thế nhưng chính bằng tuyên ngôn “những điều chưa biết thật hấp dẫn không thể cưỡng lại được”, “quốc gia nào không có thuộc địa thì xem như chết rồi”, “chúng ta đang tiến hành giáo dục về chính trị và tinh thần cho một dân tộc được Thượng Đế giao phó”… thì họ đã dũng cảm ở lại và đạt được các kết quả ấn tượng trong việc ghi nhận dữ liệu về ngôn ngữ, tìm kiếm khoáng vật, cây cỏ, dược liệu cũng như tính chất Phật giáo. Đây được đánh giá là một trong những hồ sơ chi tiết nhất trong cuộc thám hiểm Đông Dương thế kỷ 19.

Mang góc nhìn Tây phương, thế nhưng Osborne cũng rất trung dung khi không áp đặt mang tính “bề trên” đối với vùng đất từng bị phương Tây khước từ. Trong tác phẩm này, ông vẫn thuật lại những sự mê mẩn của đoàn thám hiểm với Bassac trong mùa lễ hội đua ghe ngo, với pháo hoa, rượu và những người dân bản địa thân thiện.

Ở Luang Prabang thuộc Lào, ông cũng kể lại những nhà thám hiểm đã nhìn ra những “con người hoang dã cao quý” ở đây. Họ được đón nhận và tiếp đãi tương đối hồn hậu trong những mảnh đất vẫn còn đặt dưới sức ảnh hưởng của vua Norodom I của Thái Lan bấy giờ, tại các địa điểm như Bassac hay Ubon. Dẫu vậy là người ngoại quốc, họ cũng không thiếu những sự định kiến.

Chân dung nhóm thám hiểm còn sống sót cùng toán lính hộ tống tại Hán Khẩu (Trung Quốc) vào tháng 6-1968. Tranh của Louis Delaporte.

Cũng như trong cuốn Khoái khẩu và Khát vọng của Erica J. Peters, Osborne cho thấy những người ngoại quốc cũng nhìn vùng đất mới này với một nhãn quan thiếu sự đứng đắn. Thay vì tìm hiểu văn hóa, họ vẫn còn đó cách nhìn dâm dục đối với phụ nữ, lấy trộm sách thiêng ở chùa Wat Si Saket và biện hộ nó bằng sự nhân danh khoa học. Họ cũng châm biếm “vua” của các tiểu quốc hay là chư hầu với những bộ trang phục lộng lẫy. Họ cũng coi người bản xứ là lười biếng và không đáng tin… Thế nhưng cuối cùng thì đây lại là những người giúp đỡ họ trong hành trình.

Và tuy cuối cùng họ phải dừng lại ở Vân Nam, thế nhưng 4.000 dặm đường đất chưa từng khảo sát đã được ghi lại, cũng như dòng chảy Mekong đã được xác nhận, không còn kỳ bí. Bên cạnh đó nhờ Garnier, thì tiềm năng của sông Hồng trong việc kết nối với Trung Quốc cũng được nhìn thấy, dẫn đến hành động khiêu khích của Pháp tại Hà Nội vào năm 1873.

Tác giả Milton Osborne. Ảnh: Sydney Institute

Phần cuối tác phẩm, Osborne cũng viết về cái kết buồn của những con người mang nhiều lý tưởng, trong đó có cả bi kịch của Francis Garnier. Theo đó mẫu quốc tỏ ra thờ ơ với các kết quả của cuộc khảo sát Mekong, biên bản dày hơn ngàn trang chỉ bán được chưa đến 10 bộ cho các cơ quan chính phủ. Trong khi đó, Garnier chỉ được tôn vinh bằng một giải thưởng chung chung của Hội Địa Lý.

Quãng thời gian đó cũng chính là lúc chiến tranh Pháp – Phổ manh nha nổ ra, và uy tín của Garnier xuống cấp trầm trọng trong việc bị cho là giành danh tiếng của vị trưởng đoàn giờ đã qua đời. Cuối cùng ông đã trở lại Hà Nội lần nữa, và chờ đón ông chính là cái chết. Cho đến sau rốt, những người thám hiểm vẫn chỉ là những con chốt trên một bàn cờ chính trị, chịu sự lãnh đạm, bỏ mặc và quay lưng của mẫu quốc.

Bằng các tài liệu vô cùng thú vị cũng như xác đáng, Milton Osborne đã tạo nên một cuốn sách ấn tượng, cuốn hút như khi đang đọc một cuốn tiểu thuyết. Từ đó tình hình chính trị – xã hội ở các nước dọc bờ Mekong, cũng như tham vọng chính trị của đế quốc Pháp cũng được vén màn. Nhưng quan trọng nhất đó là hào quang sẽ luôn đi kèm cùng với bi kịch, và đây chính là áng văn dùng để ngợi ca những nỗ lực ấy.

Nguồn: Người Đô Thị | Minh Anh

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Cafe sáng