Phía sau trang sách

Mekong và nỗi ám ảnh của các nhà thám hiểm Pháp

Published

on

Qua Con đường thủy vào Trung Hoa, tác giả Milton Osborne đã tái hiện lại hành trình khám phá Mekong vô cùng sống động của các nhà thám hiểm người Pháp, từ đó làm rõ động cơ, mục đích cũng như là những hoài nghi vẫn còn tồn đọng nhiều thế kỷ qua.

Tình hình Mekong trước chuyến thám hiểm

Là sử gia nổi tiếng chuyên nghiên cứu về khu vực Đông Nam Á, bằng 10 năm đọc và nghiên cứu gián đoạn, cũng như những chuyến du khảo tại vùng Đông Dương từ năm 1959, Osborne thông qua tài liệu lưu trữ cũng như ghi chép cá nhân của phi hành đoàn, đã viết nên một cuốn sách hấp dẫn và lý thú như hành trình vào vùng huyền bí của giáo sư Challenger trong tác phẩm nổi tiếng của Sir Arthur Conan Doyle.

Cuốn sách xoay quanh cuộc thám hiểm sông Mekong trong hai năm 1866-1868, được chính quyền thực dân Pháp ở Nam Kỳ phát động. Xuất phát vào ngày 5.6 tại Sài Gòn, đoàn thám hiểm gồm 5 thành viên, do Đại úy Ernest Doudart de Lagrée làm trưởng đoàn, sau đó là Trung úy Francis Garnier (phó đoàn). Thành viên bao gồm Louis Delaporte – nhà sử học nghệ thuật, Louis de Carné – nhân viên Bộ Ngoại giao và hai trợ lý y tế: Eugene Joubert (kiêm nhà địa chất học) và Clovis Thorel (kiêm nhà thực vật học).

6 thành viên của đoàn thám hiểm đang nghỉ ngơi trên các bậc thang của ngôi đền Angkor. Từ trái qua phải họ là: Lagrée, de Carné, Thorel, Joubert, Delaporte và Garnier. Ảnh: Émile Gsell.

Một trong rất nhiều điểm sáng của cuốn sách này là Osborne đã đưa ra những nhận định có phần bất ngờ về động cơ của cuộc thám hiểm. Trái với suy nghĩ số đông rằng sự can thiệp vào vùng Mekong của đế quốc Pháp phần lớn phụ thuộc vào mong muốn bành trướng thuộc địa, thế nhưng qua tác phẩm này, tác giả đã chứng minh điều hoàn toàn ngược lại.

Ông viết “lịch sử bàn cờ chính trị Pháp từ đầu thế kỷ 19 thường xuyên cho thấy các chính phủ kế tiếp nhau không sẵn sàng góp sức phát triển các mô hình thương mại ở xa.” Vì vậy khi Louis Napoleon lên nắm quyền năm 1848, thì việc mở rộng phạm vi hoạt động ở phương Đông bắt nguồn từ nhiều lý do hơn là ý định của một quân vương cách xa ngàn dặm.

Đầu tiên là các giáo sĩ thừa sai muốn chính phủ bảo vệ tu sĩ và tín đồ của họ, trong khi cánh sĩ quan hải quân thì mãi luôn tin nước Pháp phải có được những thành công không thể thua kém Anh Quốc ở mảng thuộc địa. Còn với bộ phận thương gia, đặc biệt là dân Lyon và Bordeaux, thì họ bực dọc vì Pháp không có trong tay nơi nào sánh được với Singapore và Hồng Kông như của Anh Quốc.

Điều này cũng được khẳng định khi Osborne nhấn mạnh vào sự chần chừ của Thống soái Nam Kỳ để phê duyệt cho cuộc hành trình, vì không một ai có thể chắc chắn về mục đích cuối để khám phá Mekong. Vì vậy theo Osborne, chuyến đi tìm thượng nguồn sông Mekong chủ yếu bắt nguồn từ các cá nhân, mà cụ thể là Francis Garnier – phó đoàn – người mang tinh thần dân tộc đến mức cực đoan, với việc giơ cao lá cờ tam tài cho một thời đại của mission civilisatrice (sứ mệnh khai hóa văn minh).

Đoàn thám hiểm hạ trại trước một chuỗi ghềnh trên đất Lào. Tranh của Louis Delaporte.

Trước đó, Mekong cũng đã được nhiều nhà thám hiểm để mắt quan tâm. Trong khi nhà thám hiểm người Pháp Henri Mouhot phải dựa vào Anh để tìm ra được thành quách của Angkor Wat, thì sĩ quan quân đội người Anh McLeod cũng đã thám hiểm sông Salween dọc theo biên giới Thái Lan, được coi như là dấu hiệu cho sự cạnh tranh cũng như tham vọng của phía đối địch.

Osborne cũng đã khẳng định gần 300 năm từ khi giáo sĩ người Bồ Đào Nha Da Cruz lần đầu viết về Mekong, thì hiểu biết của châu Âu vẫn chẳng tiến bộ bao nhiêu. Ông cũng ví họ chỉ như “những vật ký sinh trên cơ thể chính trị của khu vực này.”

Vì vậy công cuộc thám hiểm vào năm 1866 chính là cơ hội phục thù cho những sự thiếu hiểu biết nói trên. Giờ đây mục tiêu tối hậu là việc trả lời câu hỏi về nguồn gốc con sông, cũng như tiềm năng của bản thân nó trong vấn đề kinh tế.

Để giải quyết được vấn đề này, chính phủ Pháp tại Nam Kỳ đã hướng các nhà thám hiểm đến và thâm nhập vào những vùng đất từng giàu có và thịnh vượng trong quá khứ, từ đó tạo mối nối kết thương mại có lợi giữa chúng với vùng thuộc địa mới thành lập gần cửa sông Mekong.

Mục tiêu chính của cuộc thám hiểm là thu thập các tài liệu khoa học, lập bản đồ, xúc tiến ngoại giao và đánh giá khả năng giao thông của dòng sông để liên kết các khu vực đồng bằng Nam Kỳ, cảng Sài Gòn với vùng Thượng Xiêm (ngày nay là Thái Lan) và miền nam Trung Quốc. Tham vọng của chính quyền Pháp là tạo dựng ra một trung tâm thương mại thành công ở Sài Gòn, tựa như người Anh đã thực hiện kiểm soát Thượng Hải ở cửa sông Dương Tử.

Bìa sách Con đường thủy vào Trung Hoa. Ảnh: Phương Nam Book

Hành trình sống động

Bằng các ghi chép và những thư từ của năm thành viên, Osborne đã dựng nên một câu chuyện có phần hấp dẫn như cuộc phiêu lưu của thuyền trưởng Corcoran. Trên đường đi, đón chờ đoàn thám hiểm là những thử thách tưởng như không thể vượt qua. Bằng các hình ảnh được họa lại bởi Louis Delaporte và ghi chép của Francis Garnier (mà mấy năm trước tác phẩm Hành trình thám hiểm Đông Dương đã được ra mắt độc giả Việt Nam), Osborne đã cho thấy được không khí ảm đạm, biệt lập của vùng Kratie – tiền đồn xứ Campuchia.

Liền ngay sau đó là các ghềnh thác liên tục trải dài, ngăn cản bước tiến của đoàn thám hiểm. Từ việc phải chèo ngược dòng trên thuyền độc mộc với quân số hậu cần và trang thiết bị quá lớn, đến việc gặp phải “thác Niagara” hình bậc thang Khone ở Nam Lào… tất cả càng làm cho tình thế của đoàn thêm khó khăn hơn.

Đoàn thám hiểm phải luân chuyển liên tục giữa thuyền độc mộc và phu thồ do mực nước chênh lệch. Tranh của Louis Delaporte.

Osborne cũng đào rất sâu vào sự kiềm chế trong các trang viết của từng thành viên để tạo nên một tác phẩm thật sự chân thực. Ông đã xoáy sâu vào các cáo buộc chống đối lẫn nhau giữa các nhà thám hiểm, để thấy đây cũng đồng thời là một nguyên nhân góp phần vào khó khăn chung.

Đó là tính cách có phần đối nghịch giữa trưởng đoàn Lagrée và phó đoàn Garnier, hay giữa Garnier và de Carné mới hơn 20 tuổi một chút. Cộng với những căn bệnh của miền nhiệt đới, vắt, đỉa, giày dép rách nát, thực vật dày đặc trên từng ngã đường… cũng đã bao phen làm họ nhụt chí.

Các loài lan bản địa do Louis Delaporte ghi lại. Tranh của Louis Delaporte
Pháo hoa tại Bassac khi đoàn thám hiểm đến đúng vào dịp Lễ hội Té nước. Tranh của Louis Delaporte.

Đó cũng còn chưa tính đến việc quay trở lại cũng như tách đoàn rất nhiều lần khi chưa có giấy phép để vào Trung Hoa. Ở Miến Điện, họ phải đối mặt với cơ chế chính trị không thật rõ ràng, khi các lực lượng thay nhau nắm quyền. Ở Trung Quốc, tình hình tương tự cũng đã xảy ra ngay tại Vân Nam với cuộc nổi dậy của người Hồi và nạn dịch tả, cùng cái lạnh ở Côn Minh, nạn thảo khấu ở Kiến Thủy…

Thế nhưng chính bằng tuyên ngôn “những điều chưa biết thật hấp dẫn không thể cưỡng lại được”, “quốc gia nào không có thuộc địa thì xem như chết rồi”, “chúng ta đang tiến hành giáo dục về chính trị và tinh thần cho một dân tộc được Thượng Đế giao phó”… thì họ đã dũng cảm ở lại và đạt được các kết quả ấn tượng trong việc ghi nhận dữ liệu về ngôn ngữ, tìm kiếm khoáng vật, cây cỏ, dược liệu cũng như tính chất Phật giáo. Đây được đánh giá là một trong những hồ sơ chi tiết nhất trong cuộc thám hiểm Đông Dương thế kỷ 19.

Mang góc nhìn Tây phương, thế nhưng Osborne cũng rất trung dung khi không áp đặt mang tính “bề trên” đối với vùng đất từng bị phương Tây khước từ. Trong tác phẩm này, ông vẫn thuật lại những sự mê mẩn của đoàn thám hiểm với Bassac trong mùa lễ hội đua ghe ngo, với pháo hoa, rượu và những người dân bản địa thân thiện.

Ở Luang Prabang thuộc Lào, ông cũng kể lại những nhà thám hiểm đã nhìn ra những “con người hoang dã cao quý” ở đây. Họ được đón nhận và tiếp đãi tương đối hồn hậu trong những mảnh đất vẫn còn đặt dưới sức ảnh hưởng của vua Norodom I của Thái Lan bấy giờ, tại các địa điểm như Bassac hay Ubon. Dẫu vậy là người ngoại quốc, họ cũng không thiếu những sự định kiến.

Chân dung nhóm thám hiểm còn sống sót cùng toán lính hộ tống tại Hán Khẩu (Trung Quốc) vào tháng 6-1968. Tranh của Louis Delaporte.

Cũng như trong cuốn Khoái khẩu và Khát vọng của Erica J. Peters, Osborne cho thấy những người ngoại quốc cũng nhìn vùng đất mới này với một nhãn quan thiếu sự đứng đắn. Thay vì tìm hiểu văn hóa, họ vẫn còn đó cách nhìn dâm dục đối với phụ nữ, lấy trộm sách thiêng ở chùa Wat Si Saket và biện hộ nó bằng sự nhân danh khoa học. Họ cũng châm biếm “vua” của các tiểu quốc hay là chư hầu với những bộ trang phục lộng lẫy. Họ cũng coi người bản xứ là lười biếng và không đáng tin… Thế nhưng cuối cùng thì đây lại là những người giúp đỡ họ trong hành trình.

Và tuy cuối cùng họ phải dừng lại ở Vân Nam, thế nhưng 4.000 dặm đường đất chưa từng khảo sát đã được ghi lại, cũng như dòng chảy Mekong đã được xác nhận, không còn kỳ bí. Bên cạnh đó nhờ Garnier, thì tiềm năng của sông Hồng trong việc kết nối với Trung Quốc cũng được nhìn thấy, dẫn đến hành động khiêu khích của Pháp tại Hà Nội vào năm 1873.

Tác giả Milton Osborne. Ảnh: Sydney Institute

Phần cuối tác phẩm, Osborne cũng viết về cái kết buồn của những con người mang nhiều lý tưởng, trong đó có cả bi kịch của Francis Garnier. Theo đó mẫu quốc tỏ ra thờ ơ với các kết quả của cuộc khảo sát Mekong, biên bản dày hơn ngàn trang chỉ bán được chưa đến 10 bộ cho các cơ quan chính phủ. Trong khi đó, Garnier chỉ được tôn vinh bằng một giải thưởng chung chung của Hội Địa Lý.

Quãng thời gian đó cũng chính là lúc chiến tranh Pháp – Phổ manh nha nổ ra, và uy tín của Garnier xuống cấp trầm trọng trong việc bị cho là giành danh tiếng của vị trưởng đoàn giờ đã qua đời. Cuối cùng ông đã trở lại Hà Nội lần nữa, và chờ đón ông chính là cái chết. Cho đến sau rốt, những người thám hiểm vẫn chỉ là những con chốt trên một bàn cờ chính trị, chịu sự lãnh đạm, bỏ mặc và quay lưng của mẫu quốc.

Bằng các tài liệu vô cùng thú vị cũng như xác đáng, Milton Osborne đã tạo nên một cuốn sách ấn tượng, cuốn hút như khi đang đọc một cuốn tiểu thuyết. Từ đó tình hình chính trị – xã hội ở các nước dọc bờ Mekong, cũng như tham vọng chính trị của đế quốc Pháp cũng được vén màn. Nhưng quan trọng nhất đó là hào quang sẽ luôn đi kèm cùng với bi kịch, và đây chính là áng văn dùng để ngợi ca những nỗ lực ấy.

Nguồn: Người Đô Thị | Minh Anh

Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Những thương hiệu quốc dân ‘vang bóng một thời’

Theo VnExpress – Xà bông Cô Ba, máy may Sinco, nước ngọt Con Cọp, kem đánh răng Hynos và Dạ Lan từng là những cái tên dẫn đầu thị trường, nhưng dần sa sút khi công ty chủ quản bỏ thương hiệu hoặc bán vốn cho đối tác.

Published

on

Xà bông Cô Ba là nhãn hiệu do ông Trương Văn Bền thành lập năm 1932 ở khu vực chợ hóa chất Kim Biên (quận 5, TP HCM).

Trong cuốn Sài Gòn tạp pín lù, học giả Vương Hồng Sển nói rằng hình ảnh in trên bao bì viên xà bông là cô Ba Thiệu, con thầy Thông Chánh, quê gốc Trà Vinh. Bà là người đăng quang cuộc thi hoa hậu đầu tiên tổ chức năm 1865 ở Sài Gòn. Tuy nhiên, cũng có thông tin khác cho rằng người phụ nữ này là vợ ông Trương Văn Bền. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Xà bông Cô Ba được ưa chuộng khắp miền Nam lúc bấy giờ nhờ chất lượng tốt, giá thành phải chăng. Theo lời học giả Vương Hồng Sển, xà bông "bán chạy vo vo", sản xuất đến đâu hết đến đó. Thương hiệu này có giai đoạn đánh bật sự độc quyền của Hãng xà bông Marseille (Pháp).

Đất nước thống nhất, công ty của ông Trương Văn Bền hoạt động theo mô hình doanh nghiệp nhà nước với tên gọi Nhà máy công tư hợp doanh xà bông Việt Nam, sau đó đổi tên thành Công ty Sản xuất và Thương mại Phương Đông. Sản phẩm xà bông Cô Ba dần vắng bóng khỏi thị trường. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Cuối năm 2017, Công ty Bất động sản An Dương Thảo Điền mua 48,68% cổ phần Công ty Phương Đông. Lãnh đạo công ty nói rằng Xà bông Cô Ba vẫn có chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng nên sẽ khôi phục dây chuyền sản xuất với sản lượng ước tính vài chục tấn mỗi năm, chủ yếu để bảo tồn thương hiệu gần trăm tuổi.

Chia sẻ với VnExpress, lãnh đạo An Dương Thảo Điền từng nói: "Tham gia ngành hàng tiêu dùng nhanh là cuộc chơi đòi hỏi vốn lớn và nhiều rủi ro, trong khi đây không phải thế mạnh của chúng tôi nên phương án được ưu tiên là hợp tác với các nhà sản xuất, phân phối có kinh nghiệm. Chúng tôi sẽ đóng góp công thức, bản quyền thương hiệu... để thành lập một liên doanh khôi phục Xà bông Cô Ba".

Trong ảnh là tòa nhà từng là trụ sở của xà bông Cô Ba nằm ở số 20 đường Kim Biên, bên hông chợ Kim Biên.

Nước ngọt Con Cọp có mặt ở hầu hết hàng quán ăn uống trước năm 1975 do tập trung vào phân khúc tiêu dùng bình dân, trong khi Coca-Cola thời đó ở phân khúc cao hơn. Đây là sản phẩm của Usine Belgique, nhà máy sản xuất nước giải khát lớn nhất miền Nam, thuộc tập đoàn BGI (Pháp). Nhà máy này cũng là nơi ra đời của bia Lade trái thơm và bia 33 Export.

Tờ áp phích có dòng chữ "nước ngọt Con Cọp mỗi chai, là nguồn vui mạnh kéo dài tuổi xuân" quen thuộc với người tiêu dùng. Ảnh tư liệu

Hai năm sau ngày đất nước thống nhất, Tập đoàn BGI chuyển quyền sở hữu và bàn giao toàn bộ nhà máy cho nhà nước với tên gọi Nhà máy nước ngọt Chương Dương. Nhãn hiệu Con Cọp biến mất từ đó, thay bằng các dòng sản phẩm xá xị mang thương hiệu Chương Dương. Ảnh lật sau là vị trí Công ty nước ngọt BIG nay là trụ sở công ty nước giải khát Chương Dương, 606 Võ Văn Kiệt.

Máy may Sinco ban đầu được nhập khẩu nguyên chiếc từ Nhật Bản, sau đó có nhà máy lắp ráp và đặt trụ sở chính trên đường Trần Hưng Đạo (quận 1 ngày nay). Nơi đây từng là biểu tượng quen thuộc của người dân Sài Gòn với biểu tượng máy may bàn đạp trên nóc tòa nhà. Hiện nay, tòa nhà đang được sử dụng làm cơ sở cho một phòng khám. Ảnh: Lynn Roylance

Trước ngày đất nước thống nhất, Sinco có đại lý phân phối khắp nội thành Sài Gòn và các tỉnh. Trong các tờ rơi quảng cáo, thương hiệu này giới thiệu ưu điểm chính là "may khéo, thêu đẹp, sửa chữa miễn phí" và cam kết bảo hành 20 năm. Sinco nổi tiếng với độ bền cao, thao tác đơn giản nên được nhiều gia đình và xưởng dạy nghề may ưa dùng.

Sau giải phóng, Sinco được quốc hữu hóa và trở thành Xí nghiệp liên hiệp Máy may Sinco. Doanh nghiệp này được cổ phần hóa những năm đầu 2000 và chuyển hướng sản xuất máy móc phục vụ công nghiệp và nông nghiệp như dây chuyền giết mổ gia cầm, chế biến lúa gạo, tiêu… Trụ sở công ty cũng được dời về huyện Bến Lức, Long An. Ảnh tư liệu

Hynos là hãng kem đánh răng do một người Mỹ gốc Do Thái thành lập và chuyển giao cho ông Huỳnh Đạo Nghĩa sau khi về nước.

Ông chủ mới nhanh chóng cải tiến mẫu mã và đưa Hynos tới gần người tiêu dùng bằng phương thức tiếp thị độc lạ thời đó: phát nhạc quảng cáo ra rả trên loa phóng thanh gần các cửa hàng bách hóa và đặt biển quảng cáo ở những vị trí đắc địa của Sài Gòn.

"Nụ cười anh Bảy Chà" và đoạn quảng cáo "trồng lúa mới có gạo mà ăn, thế mà có người đã phải trồng răng mới có răng mà ăn" làm nên thời kỳ hoàng kim của Hynos vào những năm cuối thập niên 60. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Không chỉ nổi tiếng trong nước, Hynos còn được bán sang các nước trong khu vực Đông Nam Á và Hong Kong, trở thành một trong những biểu tượng thương mại đương thời.

Thực hiện chính sách quốc hữu hóa sau ngày giải phóng, Hynos được nhà nước tiếp quản và sáp nhập với một công ty cùng lĩnh vực thành Xí nghiệp Kem đánh răng Phong Lan, sau đó đổi tên thành Công ty Hóa phẩm P/S. Công ty có giai đoạn chiếm tới 60% thị phần kem đánh răng ở miền Nam. Ảnh: Bill Mullin

Giữa năm 1997, Tập đoàn Unilever đề nghị lập liên doanh trên tinh thần "win-win" với tổng vốn đầu tư hơn 17 triệu USD.

Trong thời gian hợp tác, Hóa phẩm P/S chỉ đảm nhận việc gia công vỏ hộp bằng nhôm mà không được sản xuất kem đánh răng như trước. Sáu năm sau ngày bắt tay, công ty bị đánh bật khỏi liên doanh kèm cam kết về sau không được sử dụng thương hiệu nổi tiếng bậc nhất lúc bấy giờ trên bất kỳ sản phẩm nào.

Đầu năm 2007, những lãnh đạo cũ thành lập Công ty cổ phần P/S để gầy dựng lại hoạt động kinh doanh. Công ty ban đầu gia công vỏ nhôm cho các doanh nghiệp dược phẩm, sau đó sản xuất kem đánh răng mang dòng chữ Hynos cùng hình ảnh quen thuộc "nụ cười anh Bảy Chà". Hàng hóa được tiêu thụ trong các khách sạn, resort và cũng xuất hiện rải rác trên sàn thương mại điện tử. Ảnh: Tommy Japan/Flickr

Tương tự Hynos, kem đánh răng Dạ Lan cũng có một thời lừng lẫy đầu thập niên 90 khi chiếm tới 90% thị phần từ Đà Nẵng trở ra phía Bắc. Thương hiệu này từng có lợi nhuận vài lượng vàng mỗi ngày.

Ông Trịnh Thành Nhơn, người sáng lập Dạ Lan, tự nhận thương hiệu của mình thời đó "là con gái đang độ tuổi xuân sắc" nên được nhiều doanh nghiệp nước ngoài như Colgate, Unilever, P&G đặt vấn đề hợp tác.

Năm 1995, Dạ Lan ký hợp đồng liên doanh với Colgate - thương vụ mà ông Nhơn gọi là "sai lầm lớn nhất cuộc đời". Thương hiệu khi đó được định giá 3,2 triệu USD và ông nắm 30%, đồng thời giữ chức phó tổng giám đốc trong công ty liên doanh.

Chưa đầy một năm hợp tác, Colgate bảo Dạ Lan càng kinh doanh càng lỗ nên cần nhường chỗ cho sản phẩm mang nhãn hiệu của họ. Colgate sau đó thông báo đã dùng hết vốn góp và vay ngân hàng. Khi ông Nhơn đồng ý góp thêm 10 triệu USD với điều kiện được làm tổng giám đốc, có toàn quyền điều hành, đối tác bác bỏ và khơi mào việc phá sản. Ảnh: Ông Trịnh Thành Nhơn cung cấp

Sau vài lần đàm phán căng thẳng, Colgate mua lại cổ phần của ông Nhơn với giá 5 triệu USD kèm điều kiện ông không được tham gia ngành hàng này trong 5 năm tiếp theo.

Ông Nhơn nỗ lực vực dậy thương hiệu Dạ Lan từ khoảng 2016, nhưng tự thừa nhận khoảng cách với những đơn vị dẫn đầu như P/S hay Colgate còn rất xa.

Ông cho biết mỗi ngày đều cố gắng phát triển lại Dạ Lan để bàn giao cho thế hệ sau này. "Tôi không can tâm nhìn con cái tiếp quản một công ty thua lỗ triền miên do mình gây nên. Khi tiền bạc bây giờ không phải là ưu tiên hàng đầu, tôi có một điều bất di bất dịch là không được để mất thương hiệu Dạ Lan bằng bất cứ giá nào", ông nói. Ảnh: Anh Nguyên

Phương Đông - Quỳnh Trần (Theo VnExpress)

Đọc bài viết

Cafe sáng