Phía sau trang sách

Mekong và nỗi ám ảnh của các nhà thám hiểm Pháp

Published

on

Qua Con đường thủy vào Trung Hoa, tác giả Milton Osborne đã tái hiện lại hành trình khám phá Mekong vô cùng sống động của các nhà thám hiểm người Pháp, từ đó làm rõ động cơ, mục đích cũng như là những hoài nghi vẫn còn tồn đọng nhiều thế kỷ qua.

Tình hình Mekong trước chuyến thám hiểm

Là sử gia nổi tiếng chuyên nghiên cứu về khu vực Đông Nam Á, bằng 10 năm đọc và nghiên cứu gián đoạn, cũng như những chuyến du khảo tại vùng Đông Dương từ năm 1959, Osborne thông qua tài liệu lưu trữ cũng như ghi chép cá nhân của phi hành đoàn, đã viết nên một cuốn sách hấp dẫn và lý thú như hành trình vào vùng huyền bí của giáo sư Challenger trong tác phẩm nổi tiếng của Sir Arthur Conan Doyle.

Cuốn sách xoay quanh cuộc thám hiểm sông Mekong trong hai năm 1866-1868, được chính quyền thực dân Pháp ở Nam Kỳ phát động. Xuất phát vào ngày 5.6 tại Sài Gòn, đoàn thám hiểm gồm 5 thành viên, do Đại úy Ernest Doudart de Lagrée làm trưởng đoàn, sau đó là Trung úy Francis Garnier (phó đoàn). Thành viên bao gồm Louis Delaporte – nhà sử học nghệ thuật, Louis de Carné – nhân viên Bộ Ngoại giao và hai trợ lý y tế: Eugene Joubert (kiêm nhà địa chất học) và Clovis Thorel (kiêm nhà thực vật học).

6 thành viên của đoàn thám hiểm đang nghỉ ngơi trên các bậc thang của ngôi đền Angkor. Từ trái qua phải họ là: Lagrée, de Carné, Thorel, Joubert, Delaporte và Garnier. Ảnh: Émile Gsell.

Một trong rất nhiều điểm sáng của cuốn sách này là Osborne đã đưa ra những nhận định có phần bất ngờ về động cơ của cuộc thám hiểm. Trái với suy nghĩ số đông rằng sự can thiệp vào vùng Mekong của đế quốc Pháp phần lớn phụ thuộc vào mong muốn bành trướng thuộc địa, thế nhưng qua tác phẩm này, tác giả đã chứng minh điều hoàn toàn ngược lại.

Ông viết “lịch sử bàn cờ chính trị Pháp từ đầu thế kỷ 19 thường xuyên cho thấy các chính phủ kế tiếp nhau không sẵn sàng góp sức phát triển các mô hình thương mại ở xa.” Vì vậy khi Louis Napoleon lên nắm quyền năm 1848, thì việc mở rộng phạm vi hoạt động ở phương Đông bắt nguồn từ nhiều lý do hơn là ý định của một quân vương cách xa ngàn dặm.

Đầu tiên là các giáo sĩ thừa sai muốn chính phủ bảo vệ tu sĩ và tín đồ của họ, trong khi cánh sĩ quan hải quân thì mãi luôn tin nước Pháp phải có được những thành công không thể thua kém Anh Quốc ở mảng thuộc địa. Còn với bộ phận thương gia, đặc biệt là dân Lyon và Bordeaux, thì họ bực dọc vì Pháp không có trong tay nơi nào sánh được với Singapore và Hồng Kông như của Anh Quốc.

Điều này cũng được khẳng định khi Osborne nhấn mạnh vào sự chần chừ của Thống soái Nam Kỳ để phê duyệt cho cuộc hành trình, vì không một ai có thể chắc chắn về mục đích cuối để khám phá Mekong. Vì vậy theo Osborne, chuyến đi tìm thượng nguồn sông Mekong chủ yếu bắt nguồn từ các cá nhân, mà cụ thể là Francis Garnier – phó đoàn – người mang tinh thần dân tộc đến mức cực đoan, với việc giơ cao lá cờ tam tài cho một thời đại của mission civilisatrice (sứ mệnh khai hóa văn minh).

Đoàn thám hiểm hạ trại trước một chuỗi ghềnh trên đất Lào. Tranh của Louis Delaporte.

Trước đó, Mekong cũng đã được nhiều nhà thám hiểm để mắt quan tâm. Trong khi nhà thám hiểm người Pháp Henri Mouhot phải dựa vào Anh để tìm ra được thành quách của Angkor Wat, thì sĩ quan quân đội người Anh McLeod cũng đã thám hiểm sông Salween dọc theo biên giới Thái Lan, được coi như là dấu hiệu cho sự cạnh tranh cũng như tham vọng của phía đối địch.

Osborne cũng đã khẳng định gần 300 năm từ khi giáo sĩ người Bồ Đào Nha Da Cruz lần đầu viết về Mekong, thì hiểu biết của châu Âu vẫn chẳng tiến bộ bao nhiêu. Ông cũng ví họ chỉ như “những vật ký sinh trên cơ thể chính trị của khu vực này.”

Vì vậy công cuộc thám hiểm vào năm 1866 chính là cơ hội phục thù cho những sự thiếu hiểu biết nói trên. Giờ đây mục tiêu tối hậu là việc trả lời câu hỏi về nguồn gốc con sông, cũng như tiềm năng của bản thân nó trong vấn đề kinh tế.

Để giải quyết được vấn đề này, chính phủ Pháp tại Nam Kỳ đã hướng các nhà thám hiểm đến và thâm nhập vào những vùng đất từng giàu có và thịnh vượng trong quá khứ, từ đó tạo mối nối kết thương mại có lợi giữa chúng với vùng thuộc địa mới thành lập gần cửa sông Mekong.

Mục tiêu chính của cuộc thám hiểm là thu thập các tài liệu khoa học, lập bản đồ, xúc tiến ngoại giao và đánh giá khả năng giao thông của dòng sông để liên kết các khu vực đồng bằng Nam Kỳ, cảng Sài Gòn với vùng Thượng Xiêm (ngày nay là Thái Lan) và miền nam Trung Quốc. Tham vọng của chính quyền Pháp là tạo dựng ra một trung tâm thương mại thành công ở Sài Gòn, tựa như người Anh đã thực hiện kiểm soát Thượng Hải ở cửa sông Dương Tử.

Bìa sách Con đường thủy vào Trung Hoa. Ảnh: Phương Nam Book

Hành trình sống động

Bằng các ghi chép và những thư từ của năm thành viên, Osborne đã dựng nên một câu chuyện có phần hấp dẫn như cuộc phiêu lưu của thuyền trưởng Corcoran. Trên đường đi, đón chờ đoàn thám hiểm là những thử thách tưởng như không thể vượt qua. Bằng các hình ảnh được họa lại bởi Louis Delaporte và ghi chép của Francis Garnier (mà mấy năm trước tác phẩm Hành trình thám hiểm Đông Dương đã được ra mắt độc giả Việt Nam), Osborne đã cho thấy được không khí ảm đạm, biệt lập của vùng Kratie – tiền đồn xứ Campuchia.

Liền ngay sau đó là các ghềnh thác liên tục trải dài, ngăn cản bước tiến của đoàn thám hiểm. Từ việc phải chèo ngược dòng trên thuyền độc mộc với quân số hậu cần và trang thiết bị quá lớn, đến việc gặp phải “thác Niagara” hình bậc thang Khone ở Nam Lào… tất cả càng làm cho tình thế của đoàn thêm khó khăn hơn.

Đoàn thám hiểm phải luân chuyển liên tục giữa thuyền độc mộc và phu thồ do mực nước chênh lệch. Tranh của Louis Delaporte.

Osborne cũng đào rất sâu vào sự kiềm chế trong các trang viết của từng thành viên để tạo nên một tác phẩm thật sự chân thực. Ông đã xoáy sâu vào các cáo buộc chống đối lẫn nhau giữa các nhà thám hiểm, để thấy đây cũng đồng thời là một nguyên nhân góp phần vào khó khăn chung.

Đó là tính cách có phần đối nghịch giữa trưởng đoàn Lagrée và phó đoàn Garnier, hay giữa Garnier và de Carné mới hơn 20 tuổi một chút. Cộng với những căn bệnh của miền nhiệt đới, vắt, đỉa, giày dép rách nát, thực vật dày đặc trên từng ngã đường… cũng đã bao phen làm họ nhụt chí.

Các loài lan bản địa do Louis Delaporte ghi lại. Tranh của Louis Delaporte
Pháo hoa tại Bassac khi đoàn thám hiểm đến đúng vào dịp Lễ hội Té nước. Tranh của Louis Delaporte.

Đó cũng còn chưa tính đến việc quay trở lại cũng như tách đoàn rất nhiều lần khi chưa có giấy phép để vào Trung Hoa. Ở Miến Điện, họ phải đối mặt với cơ chế chính trị không thật rõ ràng, khi các lực lượng thay nhau nắm quyền. Ở Trung Quốc, tình hình tương tự cũng đã xảy ra ngay tại Vân Nam với cuộc nổi dậy của người Hồi và nạn dịch tả, cùng cái lạnh ở Côn Minh, nạn thảo khấu ở Kiến Thủy…

Thế nhưng chính bằng tuyên ngôn “những điều chưa biết thật hấp dẫn không thể cưỡng lại được”, “quốc gia nào không có thuộc địa thì xem như chết rồi”, “chúng ta đang tiến hành giáo dục về chính trị và tinh thần cho một dân tộc được Thượng Đế giao phó”… thì họ đã dũng cảm ở lại và đạt được các kết quả ấn tượng trong việc ghi nhận dữ liệu về ngôn ngữ, tìm kiếm khoáng vật, cây cỏ, dược liệu cũng như tính chất Phật giáo. Đây được đánh giá là một trong những hồ sơ chi tiết nhất trong cuộc thám hiểm Đông Dương thế kỷ 19.

Mang góc nhìn Tây phương, thế nhưng Osborne cũng rất trung dung khi không áp đặt mang tính “bề trên” đối với vùng đất từng bị phương Tây khước từ. Trong tác phẩm này, ông vẫn thuật lại những sự mê mẩn của đoàn thám hiểm với Bassac trong mùa lễ hội đua ghe ngo, với pháo hoa, rượu và những người dân bản địa thân thiện.

Ở Luang Prabang thuộc Lào, ông cũng kể lại những nhà thám hiểm đã nhìn ra những “con người hoang dã cao quý” ở đây. Họ được đón nhận và tiếp đãi tương đối hồn hậu trong những mảnh đất vẫn còn đặt dưới sức ảnh hưởng của vua Norodom I của Thái Lan bấy giờ, tại các địa điểm như Bassac hay Ubon. Dẫu vậy là người ngoại quốc, họ cũng không thiếu những sự định kiến.

Chân dung nhóm thám hiểm còn sống sót cùng toán lính hộ tống tại Hán Khẩu (Trung Quốc) vào tháng 6-1968. Tranh của Louis Delaporte.

Cũng như trong cuốn Khoái khẩu và Khát vọng của Erica J. Peters, Osborne cho thấy những người ngoại quốc cũng nhìn vùng đất mới này với một nhãn quan thiếu sự đứng đắn. Thay vì tìm hiểu văn hóa, họ vẫn còn đó cách nhìn dâm dục đối với phụ nữ, lấy trộm sách thiêng ở chùa Wat Si Saket và biện hộ nó bằng sự nhân danh khoa học. Họ cũng châm biếm “vua” của các tiểu quốc hay là chư hầu với những bộ trang phục lộng lẫy. Họ cũng coi người bản xứ là lười biếng và không đáng tin… Thế nhưng cuối cùng thì đây lại là những người giúp đỡ họ trong hành trình.

Và tuy cuối cùng họ phải dừng lại ở Vân Nam, thế nhưng 4.000 dặm đường đất chưa từng khảo sát đã được ghi lại, cũng như dòng chảy Mekong đã được xác nhận, không còn kỳ bí. Bên cạnh đó nhờ Garnier, thì tiềm năng của sông Hồng trong việc kết nối với Trung Quốc cũng được nhìn thấy, dẫn đến hành động khiêu khích của Pháp tại Hà Nội vào năm 1873.

Tác giả Milton Osborne. Ảnh: Sydney Institute

Phần cuối tác phẩm, Osborne cũng viết về cái kết buồn của những con người mang nhiều lý tưởng, trong đó có cả bi kịch của Francis Garnier. Theo đó mẫu quốc tỏ ra thờ ơ với các kết quả của cuộc khảo sát Mekong, biên bản dày hơn ngàn trang chỉ bán được chưa đến 10 bộ cho các cơ quan chính phủ. Trong khi đó, Garnier chỉ được tôn vinh bằng một giải thưởng chung chung của Hội Địa Lý.

Quãng thời gian đó cũng chính là lúc chiến tranh Pháp – Phổ manh nha nổ ra, và uy tín của Garnier xuống cấp trầm trọng trong việc bị cho là giành danh tiếng của vị trưởng đoàn giờ đã qua đời. Cuối cùng ông đã trở lại Hà Nội lần nữa, và chờ đón ông chính là cái chết. Cho đến sau rốt, những người thám hiểm vẫn chỉ là những con chốt trên một bàn cờ chính trị, chịu sự lãnh đạm, bỏ mặc và quay lưng của mẫu quốc.

Bằng các tài liệu vô cùng thú vị cũng như xác đáng, Milton Osborne đã tạo nên một cuốn sách ấn tượng, cuốn hút như khi đang đọc một cuốn tiểu thuyết. Từ đó tình hình chính trị – xã hội ở các nước dọc bờ Mekong, cũng như tham vọng chính trị của đế quốc Pháp cũng được vén màn. Nhưng quan trọng nhất đó là hào quang sẽ luôn đi kèm cùng với bi kịch, và đây chính là áng văn dùng để ngợi ca những nỗ lực ấy.

Nguồn: Người Đô Thị | Minh Anh

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng