Phía sau trang sách

Mâu thuẫn trong văn học đại dịch: Không phải mất đi nhân mạng, mà là mất đi nhân tính

Những câu chuyện về đại dịch, khi ngôn ngữ hóa vô dụng và con người thành dã thú

Published

on

WHAT OUR CONTAGION FABLES ARE REALLY ABOUT
Jill Lepore

Khi Cái Chết Đen tràn vào thành phố London năm 1665, dân địa phương bỗng chốc hóa rồ. Người cầu viện sự trợ giúp từ chiêm tinh học, lang băm và Kinh Thánh. Người săm soi cơ thể mình, tìm kiếm triệu chứng của căn bệnh: các khối u, vết phồng rộp hay các chấm đen. Người khẩn cầu lời tiên tri; người trả tiền để được đoán mệnh; người cầu nguyện; người tru khóc. Người nhắm nghiền mắt; người bưng kín tai. Người khóc than trên đường phố. Người nghiên cứu những cuốn niên giám đánh động tâm trí: “Hẳn nhiên, sách khiến họ khiếp đảm.” Năm 1722 (cái năm mà dân tình lo sợ rằng một lần nữa dịch bệnh sẽ nhảy vọt qua Eo biển Manche, sau khi đã du hí qua Trung Đông đến Marseille và hướng về phía bắc nhờ các đội tàu thương lái), Daniel Defoe ra mắt A Journal of the Plague Year (tạm dịch Nhật ký năm dịch hạch), một tác phẩm sử thi mà ông viết song song với bản hướng dẫn/ cố vấn mang tên Công tác chuẩn bị thiết yếu phòng ngừa dịch hạch. Defoe viết, để kiểm soát tình trạng hoảng loạn, chính quyền đã cố gắng “ngăn chặn việc In Ấn những Cuốn Sách khiến Người Dân khiếp sợ.” Defoe hi vọng rằng những cuốn sách của mình sẽ trở nên “hữu dụng với người sống cùng thời và cho cả hậu thế, dù bản thân tôi đã được tha bổng khỏi việc nếm trải ly độc dược đắng chát này.” Và năm nay, cái ly độc dược đắng chát kia đã rời tủ.

Defoe hồi tưởng, vào năm 1665, người lo xa hay kẻ khôn ngoan đều đã bỏ chạy khỏi đất nước, và những người ở lại sau có lý do để hối hận: vào thời điểm họ quyết định ra đi thì “cả thành phố chẳng còn con Ngựa nào để họ mua hoặc thuê nữa,” và khi ấy, cổng thành đã đóng và tất cả mọi người bị mắc kẹt. Ai cũng cư xử tệ hại, nhưng những kẻ giàu sang là tệ hại nhất. Lão hàng thịt từ chối trao thịt tận tay cho nàng đầu bếp; cô phải tự tay lấy nó khỏi móc. Và ông ta cũng từ chối chạm tay vào tờ tiền; cô phải thả những đồng xu vào cái xô chứa đầy dấm. Nhớ lấy điều này nếu bạn lỡ hết nước rửa tay nhé.

“Trên Gương Mặt ai cũng chỉ có bi thương và sầu đau,” Dafoe viết. Việc chính quyền cấm cản in ấn những cuốn sách đáng sợ hóa ra vô dụng, bởi đâu đâu cũng là nỗi kinh hoàng. Ai cũng có thể đọc thấy thống kê tử vong hàng tuần, hay đếm những xác người chất đầy trên lối đi. Ai cũng có thể đọc những sắc lệnh của thị trưởng: “Nếu bất cứ Ai từng tiếp xúc với Người bị nhiễm bệnh, hay – bất chấp lệnh cấm – tự ý bước chân vào Căn Nhà đã bị nhiễm: Căn Nhà mà anh ta đang sinh sống sẽ bị phong tỏa.” Và ai cũng có để đọc dấu hiệu trên cửa ra vào của căn nhà bị nhiễm, được lính tuần canh gác, mỗi cánh cửa được đánh dấu bởi chữ thập dài ba mươi centimet, phía trên là dòng chữ in khổ to để thấy được từ khoảng cách xa, “Cầu Xin Chúa Nhân Từ.”

Việc đọc là hành vi truyền nhiễm, là cày bừa lên não bộ: sách có khả năng “gây nhiễm,” nói theo cả phạm trù trừu tượng và vi sinh học. Vào thế kỷ XVIII, khi thuyền trưởng tàu cập bến, họ phải cam kết đã khử trùng tàu bằng cách thề trên Kinh Thánh (đã được nhúng vào nước biển). Trong thời kỳ bệnh lao gây hoang mang dư luận, thư viện công cộng hun khói sách bằng cách niêm phong chúng vào thùng thép chứa đầy khí formaldehyde. Những ngày này, bạn có thể tìm kiếm hướng dẫn khử trùng sách qua bài viết của thủ thư trên Reddit. Phương pháp tốt nhất dường như là dùng khăn lau thấm cồn biến tính hoặc chai phun sương khử trùng nhà bếp; tuy nhiên, nếu bạn cho sách vào lò nướng ở nhiệt độ bảy mươi độ C (khoảng một trăm sáu mươi độ F), thì bạn còn có thể diệt cả bọ giường nữa. (“Đừng có làm hư sách chứ!”) Hay, như những gì đang diễn ra trong giai đoạn đóng cửa do virus Corona, thủ thư chỉ việc tạm ngưng hoạt động thư viện.

Nhưng dĩ nhiên, sách đồng thời là sự xoa dịu và giải khuây. Trong những thế kỷ dài khi Cái Chết Đen đang tàn phá châu Âu, những người cách ly (nếu họ may mắn sở hữu sách) sẽ dành thời gian đọc chúng. Nếu không, và nếu họ đủ khỏe mạnh, họ sẽ kể chuyện. Trong tác phẩm Decameron của Giovanni Boccaccio, viết vào thế kỷ XIV, bảy người phụ nữ và ba người đàn ông thay phiên kể chuyện trong mười ngày trốn tránh khỏi Cái Chết Đen, thứ “Bệnh Độc tử vong cuối cùng làm tổn thương bất cứ ai lỡ mắc phải,” một dịch bệnh khét tiếng đến mức Boccaccio cầu xin độc giả đừng phán xét rằng chỉ cầm sách thôi cũng thấy tởm lợm: “Tôi mong rằng nó không quá kinh khiếp với bạn, sẽ không cản trở quá trình đọc của các bạn.”

Văn chương về dịch bệnh rất hèn mạt. Dịch bệnh giống như phẫu thuật mở thùy não. Nó cắt bỏ những địa hạt cao cấp, những khả năng cao quý nhất của loài người, và chỉ để lại phần con. Trong tác phẩm The Last Man (tạm dịch Người sống sót cuối cùng) ra đời năm 1826, sau khi một căn bệnh đã tàn phá thế giới, Mary Shelley viết, “Vĩnh biệt sức mạnh phi thường của loài người. Vĩnh biệt nghệ thuật, và tu từ.” Mỗi câu chuyện về đại dịch là một câu chuyện về việc đánh mất ngôn từ, khi ngôn ngữ hóa vô dụng và con người thành dã thú.

Nhưng như vậy, sự tồn tại của sách, dù câu chuyện trong đó có tăm tối như thế nào, bản thân nó cũng là một dấu hiệu, một bằng chứng rằng nhân tính sẽ bền bỉ chịu đựng thông qua chính hành vi đọc truyền nhiễm. Việc đọc có lẽ là bệnh nhiễm, tâm trí của người viết thấm vào tâm trí của người đọc, không ngừng được. Tuy nhiên, nó đồng thời cũng là – với bản chất gần gũi được đón nhận, một dạng gần gũi mà nếu theo cách thức khác thì sẽ tuyệt đối bị cấm trong thời kỳ bệnh dịch – một liều thuốc giải, đã được chứng minh, bất bại và tinh tế.

*

Những câu chuyện về dịch bệnh bao hàm mọi sắc thái, từ Oedepus Rex đến Angels in America (tạm dịch Những thiên thần trên đất Mỹ). Một người đàn ông mù đã nói với Oedipus, “Ngươi chính là bệnh.” Nhân vật Tony Kushner nói, “Năm nay là năm 1986 và hiện có một cơn dịch, nhiều người bạn trẻ hơn tôi đã chết, và tôi chỉ mới ba mươi.” Ở đâu cũng từng có dịch, từ Thebes đến New York, tồi tệ và rùng rợn, nhưng chưa bao giờ có một dịch bệnh bùng phát ở khắp mọi nơi, cho đến khi Mary Shelley quyết định đặt bút viết tác phẩm tiếp theo, tiếp nối Frankenstein.

Người sống sót cuối cùng, đặt trong bối cảnh thế kỷ XXI, là tác phẩm lớn đầu tiên giới thiệu viễn cảnh loài người bị diệt chủng bởi đại dịch toàn cầu. Shelley xuất bản sách vào tuổi hai mươi chín, sau cái chết của hầu hết người thân, để lại cho cô, theo như cô nói, “di vật cuối cùng của một chủng tộc được trân trọng, những người bạn đồng hành của tôi, tuyệt diệt trước tôi.” Người kể chuyện trong sách xuất thân là người chăn cừu nghèo khổ và thất học: con người man rợ, bạo lực và coi thường pháp luật, thậm chí quái vật. Khi anh được một nhà quý tộc bồi dưỡng và mở cánh cửa đến sự học – “Một tình yêu tha thiết dành cho tri thức… khiến tôi dành ngày và đêm để đọc và học” – anh đã được nâng tầm nhờ sự Khai Sáng và trở thành một học giả, một người bảo vệ tự do, người ủng hộ chính phủ, một công dân của thế giới.

Và rồi, năm 2092, dịch bệnh ập tới, đầu tiên phá hủy Constantinople. Từng năm từng năm một, mầm bệnh biến mất mỗi mùa đông và tái xuất khi xuân đến, càng ngày càng tàn bạo, càng ngày càng rộng khắp. Nó đặt chân qua rặng núi, nó lan tỏa khắp đại dương. Mặt trời mọc, đen đặc: một dấu hiệu của sự diệt vong. “Qua châu Á, qua bờ sông Nile đến bờ biển Caspian, từ Hellespont đến cả biển Oman, sự hoảng loạn đột ngột lan truyền,” Shelley viết. “Đàn ông chen chật giáo đường; phụ nữ, mặt che mạng, nhanh chân đến hầm mộ, dâng lễ vật cho người chết để cầu xin an lành cho người sống.” Bản chất của căn bệnh này mãi mãi là bí ẩn. “Người ta gọi nó là bệnh dịch. Nhưng câu hỏi quan trọng vẫn chưa có lời đáp là vì sao bệnh dịch này được sinh ra và lan truyền.” Không nắm được cơ chế của căn bệnh nhưng tràn đầy lòng tin sai lầm, chính quyền hành động chần chừ. “Anh Quốc vẫn an toàn. Pháp, Đức, Italy và Tây Ban Nha đã bị phong tỏa, những bức tường canh giữ giữa ta và dịch bệnh vẫn chưa xuất hiện lỗ hổng.” Và sau đó là báo cáo của hàng loạt quốc gia, bị tàn phá và dân số sụt giảm. “Những thành phố lớn ở Hoa Kỳ, những đồng bằng màu mỡ ở Hindostan, những ngôi nhà đông đúc tại Trung Hoa, nay có nguy cơ thành bình địa.” Những con người run sợ cầu cứu lịch sử quá trễ, và tìm thấy trong trang sử, kể cả Decameron, bài học sai lầm: “Chúng ta hãy để tâm đến dịch bệnh năm 1348, khi người ta tính toán rằng một phần ba dân số thế giới đã bị diệt vong. Đến giờ Tây Âu vẫn không bị ảnh hưởng; có phải lúc nào cũng thế?” Không, không phải lúc nào cũng thế. Cuối cùng, dịch bệnh đã đến Anh Quốc, và đến lúc này những người khỏe mạnh đã không còn đâu để chạy trốn, bởi vì, trong dấu chấm kinh hoàng cuối cùng của nạn dịch, “chẳng còn nơi đâu để lưu vong nữa”: “Cả thế giới đều nhiễm bệnh!”

Nếu trong Frankenstein, Shelley tưởng tượng sự ra đời của con người nhờ chắp nối những bộ phận cơ thể, thì trong Người sống sót cuối cùng, cô tưởng tượng sự cắt rời của cả nền văn minh. Từng cái chết một, từng quốc gia một, loài người xuống dốc, từng bậc thang một, trượt dài trên cái thang xưa kia ta từng xây dựng và leo lên. Người kể chuyện của Shelley, người chăn cừu một thuở, là kẻ chứng kiến sự diệt vong và sự ruồng bỏ “phục sức của nhân tính” từng một thời tô điểm cho bản thân trần trụi của anh: luật pháp, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học, chính quyền dân chủ (“Chẳng còn quốc gia nào nữa!”), tự do, thương mại, văn học, âm nhạc, sân khấu, công nghiệp, giao thông, truyền thông, nông nghiệp. “Đầu óc của ta, trước kia đã mở rộng nhờ vô số địa hạt và vô vàn tổ hợp suy nghĩ, nay trốn sau thành lũy của bức tường xác thịt, chỉ duy nhất mong được bảo vệ sự an nguy của bản thân.” Và khi dịch bệnh phá hủy hành tinh, số người hiếm hoi sống sót hạ mình thành bộ lạc chiến tranh liên miên, mãi đến khi duy nhất một người, người kể chuyện của ta, còn sót lại, một lần nữa tái sinh dưới hình dạng kẻ chăn cừu. Lang thang giữa những đổ nát của thành Rome, anh bước chân vào ngôi nhà của một văn nhân và tìm thấy bản thảo trên bàn ông: “Nó chứa đựng luận văn uyên thâm về ngôn ngữ của nước Ý.” Cuốn sách cuối cùng là bản nghiên cứu ngôn ngữ, thứ phục sức đầu tiên của nhân tính. Và người kể chuyện của ta sẽ làm gì, khi chỉ còn mình anh trên thế gian này? “Tôi cũng sẽ viết một cuốn sách, tôi òa khóc – vì liệu còn ai có thể đọc nó nữa?” Anh gọi nó là “Lịch sử về người sống sót cuối cùng” và dành tặng nó cho những người đã khuất. Cuốn sách này không có độc giả. Dĩ nhiên, ngoại trừ những độc giả của Người sống sót cuối cùng.

*

Giấc mộng vĩ đại của thời kỳ Khai Sáng là sự tiến bộ; nỗi sợ cường đại của đại dịch là sự thoái trào. Nhưng trong văn học Mỹ, những tàn phá như trên thường đi kèm với bước ngoặt dân chủ: dịch bệnh chỉ là đòn san bằng cuối cùng. Câu chuyện của Edgar Allan Poe vào năm 1842, The Masque of the Red Death (tạm dịch Vũ hội của Cái Chết Đỏ) được đặt trong thời đại trung cổ, khi căn bệnh truyền nhiễm gây tử vong tức thì đang gieo tai họa ở khắp mọi nơi. “Có những cơn đau bén nhọn, tiếp đến là chóng mặt đột ngột, và sau đó xuất huyết tuôn trào qua lỗ chân lông, cùng phân hủy,” Poe viết. “Sắc đỏ tươi nhuộm màu thân thể và gương mặt nạn nhân chính là lời nguyền rủa khốn cùng ngăn anh ta nhận được sự cứu chữa và thương cảm từ đồng bào.” Đặc biệt, người giàu chẳng có mấy thương cảm dành cho kẻ nghèo. (Cũng không phải không liên quan, khi người cha dượng giàu có của Poe đã ngừng trao tiền chu cấp, làm ông trở nên khố rách áo ôm và vợ ông mất vì bệnh lao phổi.) Vị hoàng tử hống hách và những nhà quý tộc và những vị phu nhân rút lui về “chốn ẩn dật thâm sâu tại một trong những lâu đài tu viện,” nơi họ đắm chìm trong sự xa xỉ suy đồi, cho đến một đêm nọ, trong vũ hội hóa trang, một bóng người mang mặt nạ tham dự, chiếc mặt nạ “được chế tác để mô phỏng gương mặt của cái xác khô cứng, thậm chí quan sát kĩ cũng khó lòng phân biệt được.” Người tham dự này chính là Cái Chết Đỏ. Tất cả mọi người trong lâu đài chết trong đêm. Quý tộc không thể trốn thoát khỏi những điều mà người nghèo phải chịu đựng.

Cái chết đỏ của Poe nay trở thành đại dịch trong tiểu thuyết The Scarlet Plague (tạm dịch Dịch bệnh màu đỏ) của Jack London, đăng dài kỳ năm 1912. Căn bệnh khá giống nhau: “Cả gương mặt và cơ thể hóa đỏ tươi sau một tiếng nhiễm bệnh.” Căn bệnh xuất hiện năm 2013 và xóa sạch phần lớn dân số, người thượng lưu và thấp kém, quốc gia hùng cường và yếu ớt, mọi ngóc ngách của địa cầu, và những người sống sót nay bình đẳng trong tình trạng khốn khó và mất tư cách công dân. Một trong số ít ỏi người sống sót từng là học giả của Đại học California, Berkeley, một giáo sư văn chương Anh. Khi dịch bệnh bùng phát, ông đã trốn trong tòa nhà khoa hóa và trở nên miễn dịch. Trong nhiều năm, ông sống một mình tại một khách sạn cũ ở Yosemite, hưởng thụ số lượng đồ hộp dự trữ, cho đến khi ông rời đi và tham dự một nhóm nhạc nhỏ mang tên “Những anh tài xế,” trưởng nhóm là một kẻ cục súc từng là tài xế, và thậm chí ông còn lấy được vợ. Thời điểm tiểu thuyết bắt đầu, vào năm 2073, giáo sư nay đã là một ông lão, một người chăn cừu, tấm áo trên người làm từ da thú – “trên ngực và vai treo duy nhất một mảnh da cừu dơ hầy” – và sống như một con thú. Ông kể lại câu chuyện về dịch bệnh màu đỏ cho những cậu cháu trai, những cậu bé “nói chuyện bằng từ đơn tiết và câu ngắn ngắt quãng, nghe như âm thanh vô nghĩa hơn là ngôn ngữ,” nhưng chúng sử dụng cung tên rất thành thạo. Sự hoang dã của chúng khiến giáo sư khổ sở; ông thở dài và nhìn ra khoảng không từng là San Francisco: “Nơi bốn triệu người từng vui sống, hôm nay sói hoang ngự trị, và đám con cháu man rợ được sinh ra nay phải tự bảo vệ mình khỏi nanh vuốt kẻ thù bằng thứ vũ khí thời tiền sử. Nghĩ mà xem! Tất cả chỉ vì Cái Chết Đỏ.”

Jack London đã mượn tạm cái chết đỏ từ Poe và lấy cốt truyện từ Người sống sót cuối cùng – ngoại trừ, luận điểm của London về quá trình suy tàn và sụp đổ của loài người kém tinh tế hơn của Shelley rất nhiều. “Số phận của loài người tất sẽ chìm sâu, sâu hơn nữa vào đêm ban sơ trước khi, một lần nữa, ta có thể bước những bước đầy máu trên nấc thang tiến đến sự văn minh,” giáo sư giải thích. Với London, không phải động cơ tiến bộ về mặt đạo đức của thời kỳ Khai Sáng, chính chủ nghĩa tư bản công nghiệp và chủ nghĩa đế quốc mới là động lực để con người từ tàn bạo hóa văn minh, từ khan hiếm đến dư dả. Sự xuống dốc của loài người, với London, là sự xuống cấp vào đêm tối mông muội đặc trưng: cháu trai của giáo sư có “nước da nâu.” Trước khi dịch bệnh đến, tầng lớp tư bản và người ủng hộ chủ nghĩa đế quốc đã tích trữ được gia tài khổng lồ. “Tiền là gì?” những cậu bé hỏi ông nội mình khi ông sử dụng từ này để mô tả một đồng xu họ tìm thấy, đúc năm 2012. (“Đôi mắt của ông lão lấp loáng ánh nước khi ông cầm đồng xu.”) Tất cả những thứ này – màu da trắng, gia tài – đã mất rồi! Sự khổ sở lớn lao nhất của giáo sư liên quan đến việc vị cựu tài xế ép cưới vợ cũ của một trùm tư bản: “Nàng đứng đó, Vesta Van Warden, cô vợ trẻ của John Van Warden, áo quần rách nát, đôi tay chai sạn với những vết xước và sẹo, cúi đầu trước ngọn lửa và làm cái việc rửa bát – nàng, Vesta, người được sinh ra trong nhung lụa, trong hàng tước sang giàu nhất mà thế giới từng thấy.” Khổ sở tương đương là khi người da trắng đã chinh phục thành công mọi lục địa, nay cuối cùng đã đánh mất cả phía Đông và phía Tây. Giáo sư cố gắng giải thích cho những đứa cháu hoang dã về sự suy tàn của thành phố nước Mỹ, những thành phố mà kết cục ông đã biết được trong những ngày đầu đại dịch xuất hiện, khi tin tức có thể đến California từ đầu bên kia của đất nước, trước khi nhân viên điều khiển điện báo cuối cùng qua đời:

“Thành phố New York và Chicago trong cơn hỗn loạn… Một phần ba cảnh sát New York đã chết. Cảnh sát trưởng cũng đã chết, thị trưởng cũng thế. Pháp luật và trật tự đã ngừng hoạt động. Xác người nằm trên phố, chưa kịp chôn. Đường tàu hỏa và tàu thủy chuyên chở thực phẩm và những thứ tương tự vào thành phố đã ngừng hoạt động, và những nhóm người đói khổ đã cướp bóc cửa hàng và nhà kho. Ở đâu cũng tồn tại giết người, cướp của và say xỉn. Hàng triệu người đã bỏ chạy khỏi thành phố – đầu tiên là người giàu trong xe hơi và khinh khí cầu, sau đó là đám đông dân cư, đi bộ, mang theo mầm bệnh trong mình, bản thân dần chết đói và cướp bóc nông dân và thị trấn và làng mạc trên đường họ đi.”

Tất cả những thành phố đã hóa tro. Kể cả khinh khí cầu của người giàu cũng nổ thành hoa lửa, thế giới nay trở thành Hindenburg.

Dịch bệnh màu đỏ, xuất bản ngay trước Thế chiến thứ nhất, đồng thời cảnh báo về chi phí của chiến tranh thế giới, thậm chí là chi phí của việc sống. “Cách đây lâu lắm rồi, khi chỉ có một vài người trên thế giới, có rất ít dịch bệnh,” giáo sư giải thích. “Nhưng khi dân số tăng lên và mọi người sống gần nhau trong những siêu đô thị và khu văn minh, những căn bệnh mới xuất hiện, những loại vi trùng mới xâm nhập cơ thể. Vì thế, hàng triệu người hàng tỉ người bị giết chết. Và khi người càng bị dồn ép gần nhau hơn, những căn bệnh mới càng có hậu quả khủng khiếp hơn.” Cháu trai của ông chẳng thể hiểu những điều này. “Điều tra dân số năm 2010 đã thống kê thế giới có tám tỉ người,” ông nói. Chúng không hề tin ông, và không hề biết khái niệm một tỉ người là gì, hay là điều tra dân số, hay là thế giới.

Giáo sư nói, “Mười nghìn năm văn hóa và văn minh biến mất trong chớp mắt.” Ông quyết định cống hiến đời mình để trở thành một thủ thư, người lưu trữ mười nghìn năm ấy. Trong một hang động trên Đồi Telegraph, ông cất giữ tất cả những cuốn sách ông tìm được, mặc dù ông là người duy nhất biết đọc còn sống. “Trong đó là những trí tuệ to lớn,” ông giảng giải cho cháu mình trong chương cuối cuốn sách, bảo rằng ông cũng để lại bảng chữ cái. “Một ngày nào đó loài người sẽ một lần nữa học cách đọc,” ông thề. Chúng chẳng hiểu ông đang nói cái gì. Thế nhưng, độc giả của Dịch bệnh màu đỏ hiểu.

*

Cấu trúc của những tiểu thuyết hiện đại viết về dịch bệnh đều là biến thể của Nhật ký năm dịch hạch (một câu chuyện viết trong bốn bức tường cách ly) hoặc Người sống sót cuối cùng (một câu chuyện lấy bối cảnh trong một nhóm người rách rưới sống sót). Mặc dù bị giới hạn trong hai cấu trúc này, phạm vi kể chuyện vẫn rất rộng, và cùng với đó là phạm vi cho luân thường đạo đức, tranh luận lịch sử, suy ngẫm triết học. Mỗi tiểu thuyết dịch bệnh là một ngụ ngôn.

Albert Camus từng định nghĩa tiểu thuyết là nơi để con người bị bỏ lại trong tay những con người khác. Còn tiểu thuyết dịch bệnh là nơi con người bỏ mặc những người còn lại. Không giống như những hình thái hư cấu bàn về tận thế khác, khi kẻ thù là hóa chất hay núi lửa hay động đất hay những kẻ xâm lăng từ vũ trụ, kẻ thù ở đây là chính là loài người: cái chạm tay của người khác, hơi thở từ người khác, và – rất thường gặp – trong sự cạnh tranh lấy nguồn tài nguyên đang sụt giảm – kẻ thù đơn giản chỉ là sự tồn tại của người khác.

Camus, trong cuốn tiểu thuyết xuất bản năm 1947 The Plague (Dịch hạch), đặt bối cảnh câu chuyện trong bức tường phong tỏa của thị trấn Pháp-Algeria trong Thế chiến thứ hai (năm trong sách là 194-). Với những điềm báo, tiên tri và những con tốt thí, đây hoàn toàn có thể là London năm 1665. Ban đầu, bác sĩ Bernard Rieux cùng với nhiều người khác không nhận ra những dấu hiệu cảnh báo. (Tiểu thuyết cố ý viết từ sổ tay của Rieux, nhật ký năm dịch hạch của ông.) Ông chứng kiến cảnh một con chuột ngả nghiêng trước cửa nhà mình:

“Chúng di chuyển nhát gừng, bộ lông ướt nhèm nhẹp. Con vật ngừng lại và cố gắng lấy lại thăng bằng, một lần nữa cố di chuyển về phía bác sĩ, rồi lại ngừng, rồi quay một vòng với tiếng rít nho nhỏ và ngã sang một bên. Miệng nó hé mở và máu đang trào ra từ đó. Sau khi quan sát nó một lúc, bác sĩ đi lên lầu.”

Chuột thoát ra từ tầng hầm và chết trên đường, chất thành đống. Thế nhưng, bác sĩ và người dân chẳng có hành động nào, mãi đến khi có người chết đầu tiên, một người khuân vác. Và sau đó là hối hận: “Nhìn nhận lại những giai đoạn đầu tiên sau khi đã biết những sự kiện sau đó, người dân thị trấn tôi hiểu rằng họ chưa bao giờ mơ đến việc thị trấn này được chọn là nơi diễn ra một sự kiện quá sức gớm guốc, khi chuột chết hàng loạt giữa ban ngày hay cái chết của phu khuân vác vì căn bệnh ngoại lai.”

Sau đó, người đọc được biết, “cả thành phố đang trải qua một cơn sốt cao.” Số lượng ca nhiễm tăng lên, rồi tăng vọt. Mười một cái chết trong bốn mươi tám tiếng, và hơn thế. Ủy ban sức khỏe của chính quyền muốn trốn tránh việc sử dụng từ “dịch hạch,” nhưng nếu từ này không được sử dụng thì thông báo khẩn cấp không thể được ban hành. Thông báo được đăng lên, nhưng chỉ ở những nơi hẻo lánh, cỡ chữ rất nhỏ, và như những gì bác sĩ quan sát, “rất khó để tìm thấy dấu hiệu rằng chính quyền đang thẳng thắn đối mặt với tình huống.” Cuối cùng, trong sự tuyệt vọng, khi ba mươi người chết trong một ngày duy nhất, chính quyền áp dụng luật “diệt chuột” và đóng cửa thị trấn.

Dịch bệnh, dĩ nhiên, là virus của Phát-xít. Không ai trong thị trấn để tâm đến chuột cho đến khi đã quá muộn – mặc dù dịch bệnh “chối bỏ tương lai, bãi bỏ các chuyến đi, bóp nghẹt sự trao đổi thông tin”. Đây chính là sự dại dột của họ: “Họ nghĩ rằng mình tự do, nhưng chẳng ai có thể tự do khi bệnh tật gần kề.”

Dịch hạch không kể lại tiến trình của một đại dịch toàn cầu theo lý giải rằng căn bệnh chưa bao giờ vượt qua phạm vi thị trấn, nhưng dịch bệnh của Camus là một dịch bệnh không có điểm dứt. Nhưng thông qua ghi chép lịch sử, Rieux biết rằng chỉ duy nhất một căn bệnh trong lịch sử loài người có thể di chuyển từ nơi này sang nơi khác, vượt qua thời gian, từ “thị trấn Trung Hoa dồn nén nạn nhân chịu thống khổ trong câm lặng” đến những những “ổ rơm ẩm ướt, thối rữa dính bết trên nền đất bùn tại những trại hủi ở Constantinople, nơi bệnh nhân được dựng thẳng người dậy trên giường bệnh bằng móc câu,” đến “những xe chất đầy xác người lục đục đi qua đêm tối quỷ ám London – ngày và đêm, nơi và nơi chỉ độc lấp đầy bằng tiếng khóc không dứt của nỗi đau nhân loại.” Sau đó đến đâu? Auschwitz, Dachau, Buchenwald. Dịch bệnh ấy chính là con người.

Bị giày vò bởi phát hiện trên, Rieux, lúc này bị nhốt trong một nhà thương điên, đau khổ do sự cô độc tận cùng, do sự ghét bỏ và tàn bạo của xã hội hiện đại:

“Đôi khi vào nửa đêm, khi thị trấn đã chìm vào giấc ngủ say thinh lặng, bác sĩ bật radio trước khi lên giường, chuẩn bị cho giấc ngủ kéo dài vài tiếng đồng hồ được bản thân cho phép. Và từ tận cùng thế giới, vượt qua hàng ngàn dặm đất liền và biển cả, những phát thanh viên ân cần, thiện chí cố gắng nói lên trăn trở của đồng bạn loài người, và đúng là thế, nhưng cũng đồng thời chứng minh sự bất lực lớn lao của con người khi đứng trước việc sẻ chia những gánh nặng khổ đau mà anh ta không thể chứng kiến.”

Với những người bị cách biệt, không có khái nghiệm thế giới: “dịch bệnh đã nuốt chửng mọi người và mọi thứ.” Họ được cứu vớt vào phút cuối cùng bởi một loại serum, và thị trấn vỡ òa trong sự ăn mừng hoan hỉ. Trong lời kết tiểu thuyết, bác sĩ nghĩ về những gì ông đọc được. “Ông biết rằng đám đông hồ hởi ngoài kia không biết nhưng có thể học được từ cuốn sách: rằng dịch khuẩn que không bao giờ bị tiêu diệt hoặc biến mất hoàn toàn… và ngày nào đó, cái ngày mà nó sẽ khuấy động những con chuột và tiễn chúng đi chết tại một thành phố vui tươi, sẽ lại đến.” Con người luôn luôn, một lần nữa, trở thành chuột.

Nhận xét của Camus về “sự bất lực lớn lao của con người khi đứng trước việc sẻ chia những gánh nặng khổ đau mà anh ta không thể chứng kiến” là chủ đề của cuốn tiểu thuyết xuất sắc Mù lòa của José Saramago, đã tái tưởng tượng câu chuyện dịch bệnh, lấy bối cảnh năm 1995, về một bác sĩ nhãn khoa khá giống Defoe và một căn bệnh biến loài người thành động vật khi tước đoạt thị giác. Như một ngụ ngôn lịch sử, Mù lòa là bản cáo trạng thể chế độc tài thế kỷ XX: sự dồn ép những người yếu nhược vào bệnh viện và nhà tù, sự tàn nhẫn của giới cầm quyền vũ trang. Khi căn bệnh ập đến, chính quyền tập trung người mù lại và khóa nhốt họ trong bệnh viện tâm thần, nơi đó, trong tình cảnh mù lòa, họ xung đột với nhau. Họ trộm cắp, họ cưỡng hiếp. “Người mù lúc nào cũng trong trận chiến, đã luôn luôn ở trong trận chiến,” Saramago viết, trong những chiêm nghiệm u ám nhất của tiểu thuyết.

Nhưng Mù lòa đen tối hơn những bài học lịch sử thực tế rất nhiều. Với Saramago, mù không phải là bệnh; mù lòa là một bản chất con người. Trong tiểu thuyết, chỉ có duy nhất một người có khả năng nhìn. Cô đọc sách cho người mù, và điều này với họ vừa thiên đường vừa là phiền nhiễu: “Đây là những gì ta có thể làm, lắng nghe ai đó đọc cho ta câu chuyện về một lớp người tồn tại trước ta.” Và đó, trong những cuốn tiểu thuyết hiện đại về dịch bệnh, là mối nguy cuối cùng của dịch bệnh tận thế: sự biến mất của tri thức mà hành động đọc là liều thuốc chữa duy nhất. Đây chính là điều vị bác sĩ nhãn khoa của Saramago nhận ra, ngay khoảnh khắc ông đánh mất thị lực của mình trước khi căn bệnh được xác định: ý thức về sự quý giá, vẻ đẹp và sự mong manh của tri thức. Bối rối trước một ca bệnh tại phòng khám, khi bệnh nhân đột nhiên bị mù và tất cả những gì anh ta thấy không phải là màu đen mà là một màu trắng đục như sữa – vị bác sĩ nhãn khoa trở về nhà, và sau bữa tối, tham khảo những cuốn sách trong thư viện cá nhân. “Đêm hôm ấy, ông đặt cuốn sách đang nghiên cứu sang một bên, dụi đôi mắt mệt mỏi và tựa lưng vào ghế,” Saramago viết. Ông quyết định hẳn mình nên đi ngủ. “Nó diễn ra một phút khi ông đang gom gọn những cuốn sách để trả về chỗ cũ trong thư viện. Đầu tiên, ông nhận thức mình không nhìn thấy bàn tay mình, và sau đó, ông biết mình đã mù.”

Tất cả mọi thứ đã hóa trắng xóa. Như một trang giấy trắng.

Hết.

Mèo Heo lược dịch.

Bài viết gốc được thực hiện bởi Jill Lepore, đăng tại The New Yorker

Ảnh đầu bài: Karolis Strautniekas


Bài viết có thể bạn sẽ thích




Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Những thương hiệu quốc dân ‘vang bóng một thời’

Theo VnExpress – Xà bông Cô Ba, máy may Sinco, nước ngọt Con Cọp, kem đánh răng Hynos và Dạ Lan từng là những cái tên dẫn đầu thị trường, nhưng dần sa sút khi công ty chủ quản bỏ thương hiệu hoặc bán vốn cho đối tác.

Published

on

Xà bông Cô Ba là nhãn hiệu do ông Trương Văn Bền thành lập năm 1932 ở khu vực chợ hóa chất Kim Biên (quận 5, TP HCM).

Trong cuốn Sài Gòn tạp pín lù, học giả Vương Hồng Sển nói rằng hình ảnh in trên bao bì viên xà bông là cô Ba Thiệu, con thầy Thông Chánh, quê gốc Trà Vinh. Bà là người đăng quang cuộc thi hoa hậu đầu tiên tổ chức năm 1865 ở Sài Gòn. Tuy nhiên, cũng có thông tin khác cho rằng người phụ nữ này là vợ ông Trương Văn Bền. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Xà bông Cô Ba được ưa chuộng khắp miền Nam lúc bấy giờ nhờ chất lượng tốt, giá thành phải chăng. Theo lời học giả Vương Hồng Sển, xà bông "bán chạy vo vo", sản xuất đến đâu hết đến đó. Thương hiệu này có giai đoạn đánh bật sự độc quyền của Hãng xà bông Marseille (Pháp).

Đất nước thống nhất, công ty của ông Trương Văn Bền hoạt động theo mô hình doanh nghiệp nhà nước với tên gọi Nhà máy công tư hợp doanh xà bông Việt Nam, sau đó đổi tên thành Công ty Sản xuất và Thương mại Phương Đông. Sản phẩm xà bông Cô Ba dần vắng bóng khỏi thị trường. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Cuối năm 2017, Công ty Bất động sản An Dương Thảo Điền mua 48,68% cổ phần Công ty Phương Đông. Lãnh đạo công ty nói rằng Xà bông Cô Ba vẫn có chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng nên sẽ khôi phục dây chuyền sản xuất với sản lượng ước tính vài chục tấn mỗi năm, chủ yếu để bảo tồn thương hiệu gần trăm tuổi.

Chia sẻ với VnExpress, lãnh đạo An Dương Thảo Điền từng nói: "Tham gia ngành hàng tiêu dùng nhanh là cuộc chơi đòi hỏi vốn lớn và nhiều rủi ro, trong khi đây không phải thế mạnh của chúng tôi nên phương án được ưu tiên là hợp tác với các nhà sản xuất, phân phối có kinh nghiệm. Chúng tôi sẽ đóng góp công thức, bản quyền thương hiệu... để thành lập một liên doanh khôi phục Xà bông Cô Ba".

Trong ảnh là tòa nhà từng là trụ sở của xà bông Cô Ba nằm ở số 20 đường Kim Biên, bên hông chợ Kim Biên.

Nước ngọt Con Cọp có mặt ở hầu hết hàng quán ăn uống trước năm 1975 do tập trung vào phân khúc tiêu dùng bình dân, trong khi Coca-Cola thời đó ở phân khúc cao hơn. Đây là sản phẩm của Usine Belgique, nhà máy sản xuất nước giải khát lớn nhất miền Nam, thuộc tập đoàn BGI (Pháp). Nhà máy này cũng là nơi ra đời của bia Lade trái thơm và bia 33 Export.

Tờ áp phích có dòng chữ "nước ngọt Con Cọp mỗi chai, là nguồn vui mạnh kéo dài tuổi xuân" quen thuộc với người tiêu dùng. Ảnh tư liệu

Hai năm sau ngày đất nước thống nhất, Tập đoàn BGI chuyển quyền sở hữu và bàn giao toàn bộ nhà máy cho nhà nước với tên gọi Nhà máy nước ngọt Chương Dương. Nhãn hiệu Con Cọp biến mất từ đó, thay bằng các dòng sản phẩm xá xị mang thương hiệu Chương Dương. Ảnh lật sau là vị trí Công ty nước ngọt BIG nay là trụ sở công ty nước giải khát Chương Dương, 606 Võ Văn Kiệt.

Máy may Sinco ban đầu được nhập khẩu nguyên chiếc từ Nhật Bản, sau đó có nhà máy lắp ráp và đặt trụ sở chính trên đường Trần Hưng Đạo (quận 1 ngày nay). Nơi đây từng là biểu tượng quen thuộc của người dân Sài Gòn với biểu tượng máy may bàn đạp trên nóc tòa nhà. Hiện nay, tòa nhà đang được sử dụng làm cơ sở cho một phòng khám. Ảnh: Lynn Roylance

Trước ngày đất nước thống nhất, Sinco có đại lý phân phối khắp nội thành Sài Gòn và các tỉnh. Trong các tờ rơi quảng cáo, thương hiệu này giới thiệu ưu điểm chính là "may khéo, thêu đẹp, sửa chữa miễn phí" và cam kết bảo hành 20 năm. Sinco nổi tiếng với độ bền cao, thao tác đơn giản nên được nhiều gia đình và xưởng dạy nghề may ưa dùng.

Sau giải phóng, Sinco được quốc hữu hóa và trở thành Xí nghiệp liên hiệp Máy may Sinco. Doanh nghiệp này được cổ phần hóa những năm đầu 2000 và chuyển hướng sản xuất máy móc phục vụ công nghiệp và nông nghiệp như dây chuyền giết mổ gia cầm, chế biến lúa gạo, tiêu… Trụ sở công ty cũng được dời về huyện Bến Lức, Long An. Ảnh tư liệu

Hynos là hãng kem đánh răng do một người Mỹ gốc Do Thái thành lập và chuyển giao cho ông Huỳnh Đạo Nghĩa sau khi về nước.

Ông chủ mới nhanh chóng cải tiến mẫu mã và đưa Hynos tới gần người tiêu dùng bằng phương thức tiếp thị độc lạ thời đó: phát nhạc quảng cáo ra rả trên loa phóng thanh gần các cửa hàng bách hóa và đặt biển quảng cáo ở những vị trí đắc địa của Sài Gòn.

"Nụ cười anh Bảy Chà" và đoạn quảng cáo "trồng lúa mới có gạo mà ăn, thế mà có người đã phải trồng răng mới có răng mà ăn" làm nên thời kỳ hoàng kim của Hynos vào những năm cuối thập niên 60. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Không chỉ nổi tiếng trong nước, Hynos còn được bán sang các nước trong khu vực Đông Nam Á và Hong Kong, trở thành một trong những biểu tượng thương mại đương thời.

Thực hiện chính sách quốc hữu hóa sau ngày giải phóng, Hynos được nhà nước tiếp quản và sáp nhập với một công ty cùng lĩnh vực thành Xí nghiệp Kem đánh răng Phong Lan, sau đó đổi tên thành Công ty Hóa phẩm P/S. Công ty có giai đoạn chiếm tới 60% thị phần kem đánh răng ở miền Nam. Ảnh: Bill Mullin

Giữa năm 1997, Tập đoàn Unilever đề nghị lập liên doanh trên tinh thần "win-win" với tổng vốn đầu tư hơn 17 triệu USD.

Trong thời gian hợp tác, Hóa phẩm P/S chỉ đảm nhận việc gia công vỏ hộp bằng nhôm mà không được sản xuất kem đánh răng như trước. Sáu năm sau ngày bắt tay, công ty bị đánh bật khỏi liên doanh kèm cam kết về sau không được sử dụng thương hiệu nổi tiếng bậc nhất lúc bấy giờ trên bất kỳ sản phẩm nào.

Đầu năm 2007, những lãnh đạo cũ thành lập Công ty cổ phần P/S để gầy dựng lại hoạt động kinh doanh. Công ty ban đầu gia công vỏ nhôm cho các doanh nghiệp dược phẩm, sau đó sản xuất kem đánh răng mang dòng chữ Hynos cùng hình ảnh quen thuộc "nụ cười anh Bảy Chà". Hàng hóa được tiêu thụ trong các khách sạn, resort và cũng xuất hiện rải rác trên sàn thương mại điện tử. Ảnh: Tommy Japan/Flickr

Tương tự Hynos, kem đánh răng Dạ Lan cũng có một thời lừng lẫy đầu thập niên 90 khi chiếm tới 90% thị phần từ Đà Nẵng trở ra phía Bắc. Thương hiệu này từng có lợi nhuận vài lượng vàng mỗi ngày.

Ông Trịnh Thành Nhơn, người sáng lập Dạ Lan, tự nhận thương hiệu của mình thời đó "là con gái đang độ tuổi xuân sắc" nên được nhiều doanh nghiệp nước ngoài như Colgate, Unilever, P&G đặt vấn đề hợp tác.

Năm 1995, Dạ Lan ký hợp đồng liên doanh với Colgate - thương vụ mà ông Nhơn gọi là "sai lầm lớn nhất cuộc đời". Thương hiệu khi đó được định giá 3,2 triệu USD và ông nắm 30%, đồng thời giữ chức phó tổng giám đốc trong công ty liên doanh.

Chưa đầy một năm hợp tác, Colgate bảo Dạ Lan càng kinh doanh càng lỗ nên cần nhường chỗ cho sản phẩm mang nhãn hiệu của họ. Colgate sau đó thông báo đã dùng hết vốn góp và vay ngân hàng. Khi ông Nhơn đồng ý góp thêm 10 triệu USD với điều kiện được làm tổng giám đốc, có toàn quyền điều hành, đối tác bác bỏ và khơi mào việc phá sản. Ảnh: Ông Trịnh Thành Nhơn cung cấp

Sau vài lần đàm phán căng thẳng, Colgate mua lại cổ phần của ông Nhơn với giá 5 triệu USD kèm điều kiện ông không được tham gia ngành hàng này trong 5 năm tiếp theo.

Ông Nhơn nỗ lực vực dậy thương hiệu Dạ Lan từ khoảng 2016, nhưng tự thừa nhận khoảng cách với những đơn vị dẫn đầu như P/S hay Colgate còn rất xa.

Ông cho biết mỗi ngày đều cố gắng phát triển lại Dạ Lan để bàn giao cho thế hệ sau này. "Tôi không can tâm nhìn con cái tiếp quản một công ty thua lỗ triền miên do mình gây nên. Khi tiền bạc bây giờ không phải là ưu tiên hàng đầu, tôi có một điều bất di bất dịch là không được để mất thương hiệu Dạ Lan bằng bất cứ giá nào", ông nói. Ảnh: Anh Nguyên

Phương Đông - Quỳnh Trần (Theo VnExpress)

Đọc bài viết

Cafe sáng