Phía sau trang sách

Mạc Ngôn, “Báu vật của đời” và sự phân tán hai góc nhìn

Lịch sử hơn 80 năm Trung Hoa mang nhiều gian truân cùng với thân phận của người phụ nữ, tất cả hiện diện trong đây như cơn co giật thần kinh đôi lần xuất hiện nơi những hào quang nơi chiếc vú to hay dòng sữa mẹ, rồi sẽ nằm mãi như con người ta đi tìm bản ngã, rồi đến một ngày, quay về chính nơi bắt đầu. Không sao về bắt đầu. Làm sao về?

Published

on

Báu vật của đời thể hiện xuyên suốt một hành trình dài phản ánh lịch sử, được phác họa bằng số phận của một gia đình. Lấy gia đình làm trung tâm phát triển tiểu thuyết, Mạc Ngôn khởi đầu tác phẩm của mình phổ biến như đại đa số tác gia phương Đông khác mà ta thường gặp, thế nhưng bằng lối viết trúc trắc mà mỗi tình tiết lại kí sinh trong một tình tiết khác, ông biến cuốn tiểu thuyết này thành ra duy nhất. Thượng Quan Lỗ thị – người phụ nữ điển hình nông thôn bị kiềm kẹp trong một gia đình thuần túy cổ hủ, sinh cho nhà chồng đến bảy người con nhưng tréo ngoe thay đó đều là những cuộc vụng trộm “xin nòi” và thành quả là bảy cô con gái. Bị hành hạ để rồi phó mặc, chỉ khi đến cuộc giãi bày với nhà truyền giáo Hà Lan thì mới lọt lòng cậu bé duy nhất, cháu đích tôn dòng họ Thượng Quan – Kim Đồng và người chị song sinh – Ngọc Nữ. Khi Nhật tràn vào đàn ông trong nhà đều bị tàn sát, Thượng Quan Lỗ thị một tay kẹp nách một tá đàn con, tay kia dẫn theo mẹ chồng dở dở ương ương tránh đi tị nạn. Cũng trong khoảng thời gian này, mỗi người con gái lớn lên và rồi nghe thấy tiếng gọi nằm sâu trong mình: người là phu nhân nhất thời của giai tầng nổi dậy, người lại bán mình cứu cảnh đói kém,… Mạc Ngôn một phần phản ánh số phận của một đời người rồi rất từ tốn lái sang quãng dài biến động: từ Đức thoát ra đến Nhật ùa vào, từ Quốc dân Đảng đến Đảng Cộng sản,… tất cả dâng cao trong mắt người đọc như những gai đâm đem đong tấm lòng.

Thật khó để khái quát một cách tương đối đầy đủ những ý tứ Mạc Ngôn mong muốn truyền đi trong Báu vật của đời. Thứ nhất bởi chính vẻ ngoài đồ sộ của nó về mặt vật lý, không-thời gian, nhân vật, bối cảnh,… Gần 900 trang sách với hơn 80 năm lịch sử Trung Hoa được ông gói gọn vào đây bằng tinh thần của người phụ nữ – mà như chia sẻ – được lấy cảm hứng từ chính mẹ mình. Thứ hai, nói đồ sộ bởi lẽ ông đã vận dụng hầu như mọi loại thủ pháp, ngôi kể, cách dẫn chuyện, phong cách sáng tác; tất cả đan cài vào nhau như những sợi len ngang dọc, dày đặc phong phú nhưng lại vô cùng trật tự.

Đọc Báu vật của đời, ta một lần nữa trở lại vùng đất Cao Mật vô cùng sống động đã từng xuất hiện trong Cao lương đỏ – tác phẩm đặt nền móng vị thế của ông trên văn đàn. Cao Mật lần này trở lại vẫn là ruộng cao lương trải dài bát ngát, vẫn là cây lúa oằn mình hứng chịu thời gian, vẫn là thổ phỉ, là hoang vắng, là đấu tranh, là thứ rượu ngon chốn Thập lý bá,… Tất cả gần gũi khi viết như kể tạo nên bức tranh miền sơn đông Trung Quốc vô cùng sống động. Ở đó, ông xoay hướng bút một cách sâu sắc mà cũng kỹ càng vào trong cuộc đời một người phụ nữ, tự Lỗ thị, con dâu nhà Thượng Quan. Từ y và cả gia đình với những số phận chìm nổi, Mạc Ngôn lần theo nhịp quay bánh xe lịch sử. Một cách hữu ý nhưng lại vô tình, ông căng dây cung tâm khảm của những nhân vật để rồi rung động những thứ sống động cả một thời đoạn. Từ Đức xâm chiếm đến Nhật nhảy vào; cải cách ruộng đất lê sang cách mạng văn hóa,… tất cả trải ra như một mâm cỗ dày đặc đau thương. Ở đó ông không che đậy mà lại bày ra trước mắt đầy đủ món ngon hiện thực, đến nỗi cái tàn nhẫn, cái tan tác trong tác phẩm này không còn khối lượng; bởi nhẽ đời sống đã quá cay đắng, số phận đã quá chôn vùi, khắp nơi đâu đâu cũng là cái chết.

Bám lấy số phận của một gia đình để rồi rộng mở con đường ngòi bút, Mạc Ngôn lại một lần nữa vô cùng lý tính trong cách sáng tạo cốt truyện. Dựa trên đặc tả người mẹ và chín người con, Mạc Ngôn phóng tác những xúc tu dài trượt theo những ngả nhánh nhỏ, mà mỗi cô gái là một đại diện cho thời đoạn mình, mở đầu luôn luôn đẹp đẽ, kết thúc luôn là đau thương. Ở đó, người mẹ – Lỗ thị – giữ vai trò trung tâm trong hầu hết câu chuyện thông qua giọng kể dường như độc nhất của Kim Đồng. Mỗi nhân vật là một câu chuyện cuộc đời vô cùng sống động, điều này cho phép Mạc Ngôn thỏa sức đóng mở cánh cửa thời gian một cách công khai không hề che giấu. Một cách tài tình nơi ông là những đan cài câu chuyện: mở đầu là sự lần lượt theo thứ tự tuổi tác; rồi đến một lúc, tất cả rối tung theo những đứt đoạn lịch sử. Thế nhưng với mỗi câu chuyện nhỏ ấy, ngòi bút của ông đồng thời tạo nên một thế lưỡng nan giữa cái cuốn hút khi mỗi phức tạp luôn có điểm nhấn, và thế gán ghép phần nhiều khiên cưỡng, đặc biệt ở những vị trí cửa hậu mỗi lần mở ra tử khí bay về.

Nhìn nhận một cách khách quan, phong độ Mạc Ngôn trong tác phẩm này không hề ổn định. Phần đầu đa số câu chuyện vô cùng sống động, thế nhưng ngày càng về sau ông lại để lộ sự tính toán cho thấy những mối căng cơ trong nhịp diễn tiến làm giãn lũy kế đương tăng, chính xác là sự ức chế. Đôi chỗ ta thấy khi vòng quanh không còn lối ra, cú hook trở nên vô nghĩa, thế thì nhân vật của ông chỉ còn cái chết (dù có thuyết phục hay không) hệt như Câm anh, Câm em, Tư Mã Hoàng, Tư Mã Phượng. Sự thiếu tinh tế là điểm trừ cho tác phẩm này. Thế nhưng nếu bỏ qua những điều lý tính nói trên mà nhìn nhận ở một mặt khác, thì tính cách và mỗi câu chuyện gắn với lịch sử đều được khắc họa một cách đậm nét vô cùng cuốn hút. 

Phong cách tả thực chiếm dụng phần lớn thời lượng Báu vật của đời. Nhờ chính tả thực mà những cảnh tựa đưa tang trong ruộng cao lương thành ra vô cùng sống động. Lại một lần nữa Mạc Ngôn cho thấy tài năng của mình trong việc quan sát. Phong cảnh ấy không chỉ có người, ruộng lúa, cao lương; mà còn cả tiếng ve, tiếng dế, bọn chó, lũ quạ, diều hâu,… đặt trong không khí ngột ngạt của buổi xế chiều, tất cả tang thương được ông đưa vào vô cùng hùng tráng như cảnh cuối trong Cao lương đỏ khi Cửu Nhi đốt trọn một ruộng cao lương cùng với bọn Nhật. Không dừng ở đó, nhờ tả thực, Mạc Ngôn đồng thời mang đến cho ta nhiều nỗi ám ảnh, tựa chi tiết Lỗ thị dùng dạ dày như chiếc túi chứa ăn trộm đậu vạc về cho Ngọc Nữ trong thời đói khổ bằng cách ói ra mật xanh mật vàng. Rõ ràng ta thấy, tả thực hoàn toàn đã làm rất tốt vai trò của mình, khi mang những gì thực nhất, gần nhất đến với người đọc một cách trọn vẹn nhất.

Nói Báu vật của đời phức tạp bởi lẽ không ngoài một số lượng lớn nhân vật tham gia mà còn nằm ở đường hướng sáng tác. Ngoài tả thực chiếm dụng phần lớn thời gian, Mạc Ngôn còn thêm một chút siêu thực vô cùng mới mẻ ở những tiểu thuyết phương Đông nặng tính mắt-thấy-tai-nghe, điển hình ở đây là hình ảnh khuôn ngực. Nói Báu vật của đời, nhưng thực chất là phong nhũ phì đồn – một cách tượng trưng cho người phụ nữ. Một lần ông viết: “Ngôn ngữ là núm vú của tư tưởng, hoa là núm vú của cây cỏ, đèn đường là núm vú của đường phố, mặt trời là núm vú của vũ trụ,… tất cả đều quy về núm vú, dùng núm vú móc nối toàn bộ thế giới vật chất”. Từ một hiện hữu vô cùng thực tế, ông thánh hóa thổi hồn vào nó như có lân tinh để rồi xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, Kim Đồng như con bệnh thần kinh đi theo tiếng gọi trở về nguyên bản. Khép lại tác phẩm, dưới mộ phần Lỗ thị, Mạc Ngôn đặc tả cảnh tượng vô cùng gợi mở: mỗi một núm vú to lớn tròn dẹt quy tụ thành một đỉnh núi trong tâm tưởng Kim Đồng. Một sự tượng trưng vô cùng độc đáo cho người phụ nữ trong thế siêu thực.

Kết hợp cùng những nổi bật trong phong cách sáng tác hay bản thân cốt truyện; sự sắp xếp mỗi một diễn tiến cũng là điểm nhấn vô cùng đáng nhớ. Mạc Ngôn một cách tài tình đưa ra rất nhiều câu chuyện mang tính nguyên nhân – hậu quả, để rồi chỉ trình bày hậu quả, còn cơn nguồn cội lại để sau này. Ban đầu tạo ra một sự ức chế hay nỗi hoài nghi về khả năng sáng tạo, nhưng khi được khơi thông, người đọc không thể không hài lòng hơn về cách giải quyết. Thoảng hoặc như chuyện đánh chết mẹ chồng của Lỗ thị hay chuyện người con thứ tư bán mình cứu cả gia đình trong thời nạn đói; Mạc Ngôn dọn dẹp mọi sự kể lể để cho mạch truyện tiếp tục diễn biến trôi chảy; xong rồi cả thảy chính phần vĩ thanh lại như cú hook đập ngược mang lời hồi đáp. Nếu đọc cả tiểu thuyết này bằng chính lý trí, ngoài những cái kết rất yếu của mỗi câu chuyện, ngoài sự phi logic trong tình tiết mang nhiều trùng hợp; thì sự sắp xếp này đôi khi lại phản tác dụng, mang đến cảm giác không tự nhiên ở cách xây dựng cốt truyện dẫu cho nội dung vô cùng tuyệt đỉnh.

Khép lại Báu vật của đời, Mạc Ngôn thật sự đã vô cùng thành công trong việc tạo nên một thế đối nghịch giữa lý trí và tình cảm. Nếu đọc cả tác phẩm này bằng một con mắt mang tính thực tại, sẽ dễ dàng thấy rất nhiều lỗ hổng hay sự sắp đặt làm mất cân bằng cho một tác phẩm; thế nhưng để cảm để thấu chính tính văn chương cấu thành khung xương gánh đỡ toàn bộ tiểu thuyết, thì Mạc Ngôn đã thật sự thành công trong việc gói gọn lịch sử để rồi nhốt chúng trong một thân phận, từ đó soi chiếu mang đến trải nghiệm vô cùng sống động. Lịch sử hơn 80 năm Trung Hoa mang nhiều gian truân cùng với thân phận của người phụ nữ, tất cả hiện diện trong đây như cơn co giật thần kinh đôi lần xuất hiện nơi những hào quang nơi chiếc vú to hay dòng sữa mẹ, rồi sẽ nằm mãi như con người ta đi tìm bản ngã, rồi đến một ngày, quay về chính nơi bắt đầu. Không sao về bắt đầu. Làm sao về?

Hết.

Ngô Thuận Phát


Xem tất cả những bài viết của Ngô Thuật Phát tại đây.


Phía sau trang sách

Có một thời ở Chợ Lớn: Những gam màu ký ức

Published

on

Có một thời ở Chợ Lớn là một trong hai tác phẩm mới nhất của nhà báo Phạm Công Luận do Phương Nam Book liên kết xuất bản dịp năm mới Ất Tỵ 2025. Chỉ một thời gian ngắn sau khi phát hành, sách sớm nhận được tình cảm của độc giả và lọt vào top sách bán chạy trong tuần tại Nhà Sách Phương Nam. Bên cạnh bản thân tác giả Phạm Công Luận, góp phần vào sự thành công của Có một thời ở Chợ Lớn không thể không kể đến họa sĩ Phạm Công Tâm với nhiều hình ảnh minh họa đẹp và đầy tinh tế, cũng như đội ngũ Phương Nam Book đã biên tập, thiết kế nhằm đưa tác phẩm đến tay độc giả theo cách chỉn chu nhất.

Chịu trách nhiệm thiết kế bìa và trình bày sách Có một thời ở Chợ Lớn là họa sĩ t.hờ. Trong bài phỏng vấn hôm nay, Bookish sẽ cùng anh t.hờ chia sẻ với bạn đọc về quá trình "lên đồ" cho Có một thời ở Chợ Lớn cũng như những câu chuyện bên lề thú vị trong quá trình sản xuất cuốn sách này.

  • Bookish: Anh có thể chia sẻ điều gì đã dẫn đến quyết định lựa chọn hình ảnh chùa Ôn Lăng và chợ Bình Tây làm ảnh bìa sách ở 2 phiên bản bìa mềm và bìa cứng?

Họa sĩ t.hờ: Nhắc đến Chợ Lớn, chắc hẳn 9 trên 10 người trong chúng ta sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh của chùa bà Ôn Lăng và chợ Bình Tây – hai công trình kiến trúc đặc trưng nhất của mảnh đất Chợ Lớn Sài Thành.

Đối với chùa bà Ôn Lăng, đây có thể coi là công trình mang đậm nét đặc trưng của kiến trúc Trung Hoa nhất giữa lòng Sài Gòn. Không chỉ là nơi chiêm bái của người dân địa phương và du khách gần xa, chùa bà Ôn Lăng còn là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa và tôn giáo như lễ hội Đoan Ngọ, lễ hội Trung Thu, lễ hội Thanh Minh, lễ hội Tết Nguyên Đán,… Chùa bà Ôn Lăng là một trong những ngôi chùa có ý nghĩa lịch sử và văn hóa quan trọng của Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và mảnh đất Chợ Lớn nói riêng.

Còn về chợ Bình Tây, đây không chỉ là một ngôi chợ sở hữu lối kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ấn văn hoá Á Đông của người châu Á ở đất Sài Thành, mà còn là nơi được biết tới là nơi trao đổi đồ cổ và buôn bán sỉ lớn nhất của người dân gốc Hoa ở Chợ Lớn. Dù hiện tại chợ Bình Tây đã có nhiều sự thay đổi về cơ sở hạ tầng nhưng những giá trị tinh thần, lịch sử và văn hoá vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay.

Chính vì lẽ đó, chùa bà Ông Lăng và chợ Bình Tây đã được mình chọn lựa để đưa lên 2 phiên bản bìa của Có một thời ở Chợ Lớn.

  • 2 ấn bản bìa mềm và bìa cứng có sự khác biệt gì về hình ảnh minh họa trong sách không?

Để đảm bảo sự chính xác về thông tin của các bài viết thì phần hình ảnh và nội dung bên trong của 2 phiên bản không có gì thay đổi.

  • Liệu có ẩn ý nào phía sau việc sử dụng 2 tông màu nóng - lạnh cho 2 phiên bản bìa sách?

Nhắc đến Chợ Lớn, người ta sẽ nghĩ ngay đến những tone màu rực rỡ như chính sắc màu chủ đạo trong cuộc sống của người dân nơi này – màu đỏ rực của những chiếc đèn lồng gốc Hoa, màu đỏ thẫm của những lớp mái ngói vươn màu thời gian hay màu đỏ tươi của những chú lân trong các lễ hội,… Bên cạnh đó, ta không thể không nhắc tới sắc vàng của những bức tường vững chải chạy dọc các con phố, của những món đồ trang trí bóng bẩy mỗi dịp Tết đến xuân về.

Thế nhưng, không vì thế mà Chợ Lớn vắng đi những phút giây lắng đọng. Dạo quanh Chợ Lớn, người ta vẫn có thể dễ dàng bắt gặp những tòa chung cư lâu đời trên đại lộ Trần Hưng Đạo hay từ chính trong nét kiến trúc phương Đông được tạo nên từ kỹ thuật xây dựng của Tây phương trong lối kiến trúc độc đáo của ngôi chợ Bình Tây xuất hiện trên bản bìa mềm.

  • Có câu chuyện ngoài lề nào thú vị trong quá trình thiết kế cho cuốn sách này mà anh ấn tượng không?

Mình cho rằng đó là một “bài học” thú vị nhiều hơn.

Như các bạn cũng biết, trước khi “Có một thời ở Chợ Lớn” ra đời, tác giả Phạm Công Luận đã từng cho ra mắt một quyển sách cùng chủ đề đó là “Hồi ức Phú Nhuận”. Do cả 2 quyển một chủ đề nên với vai trò là người thiết kế bìa cho cả hai, mình mong muốn tạo được nét tương đồng trên bìa khi 2 quyển sách được đặt cạnh nhau để nhấn mạnh “tính chất văn hóa” của 2 quyển sách này. Chính vì vậy, mình đã chủ đích đem cái gần gũi, thân thương nhưng cũng mang trong mình những lắt cắt lịch sử mà mình từng thể hiện trong bìa của”Hồi ức Phú Nhuận” mang vào quyển “Có một thời ở Chợ Lớn” lần này.

Nhưng rồi mình nhận ra, mỗi vùng đất sẽ mang trong mình một vẻ đẹp riêng. Nếu như Phú Nhuận là mảnh đất của những ký ức tuổi thơ thân thương, của những giai kỳ hào nhoáng của một Sài Thành hoa lệ, thì Chợ Lớn sẽ là những đất của những khu mua sắm xa hoa, của những quán ăn nức tiếng, và của sự hào sảng, phóng khoáng của người dân Chợ Lớn Sài Gòn.

Vậy nên, mình cho rằng đó là bài học mình của bản thân mình: Để nhấn mạnh, nếu không thể tương-đồng thì chúng ta có thể chọn tương-phản.

Bookish xin cảm ơn họa sĩ t.hờ vì đã dành thời gian chia sẻ. Chúc anh nhiều sức khỏe và đạt được thành công trong năm mới Ất Tỵ 2025.

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Cafe sáng