Phía sau trang sách

Mạc Ngôn, “Báu vật của đời” và sự phân tán hai góc nhìn

Lịch sử hơn 80 năm Trung Hoa mang nhiều gian truân cùng với thân phận của người phụ nữ, tất cả hiện diện trong đây như cơn co giật thần kinh đôi lần xuất hiện nơi những hào quang nơi chiếc vú to hay dòng sữa mẹ, rồi sẽ nằm mãi như con người ta đi tìm bản ngã, rồi đến một ngày, quay về chính nơi bắt đầu. Không sao về bắt đầu. Làm sao về?

Published

on

Báu vật của đời thể hiện xuyên suốt một hành trình dài phản ánh lịch sử, được phác họa bằng số phận của một gia đình. Lấy gia đình làm trung tâm phát triển tiểu thuyết, Mạc Ngôn khởi đầu tác phẩm của mình phổ biến như đại đa số tác gia phương Đông khác mà ta thường gặp, thế nhưng bằng lối viết trúc trắc mà mỗi tình tiết lại kí sinh trong một tình tiết khác, ông biến cuốn tiểu thuyết này thành ra duy nhất. Thượng Quan Lỗ thị – người phụ nữ điển hình nông thôn bị kiềm kẹp trong một gia đình thuần túy cổ hủ, sinh cho nhà chồng đến bảy người con nhưng tréo ngoe thay đó đều là những cuộc vụng trộm “xin nòi” và thành quả là bảy cô con gái. Bị hành hạ để rồi phó mặc, chỉ khi đến cuộc giãi bày với nhà truyền giáo Hà Lan thì mới lọt lòng cậu bé duy nhất, cháu đích tôn dòng họ Thượng Quan – Kim Đồng và người chị song sinh – Ngọc Nữ. Khi Nhật tràn vào đàn ông trong nhà đều bị tàn sát, Thượng Quan Lỗ thị một tay kẹp nách một tá đàn con, tay kia dẫn theo mẹ chồng dở dở ương ương tránh đi tị nạn. Cũng trong khoảng thời gian này, mỗi người con gái lớn lên và rồi nghe thấy tiếng gọi nằm sâu trong mình: người là phu nhân nhất thời của giai tầng nổi dậy, người lại bán mình cứu cảnh đói kém,… Mạc Ngôn một phần phản ánh số phận của một đời người rồi rất từ tốn lái sang quãng dài biến động: từ Đức thoát ra đến Nhật ùa vào, từ Quốc dân Đảng đến Đảng Cộng sản,… tất cả dâng cao trong mắt người đọc như những gai đâm đem đong tấm lòng.

Thật khó để khái quát một cách tương đối đầy đủ những ý tứ Mạc Ngôn mong muốn truyền đi trong Báu vật của đời. Thứ nhất bởi chính vẻ ngoài đồ sộ của nó về mặt vật lý, không-thời gian, nhân vật, bối cảnh,… Gần 900 trang sách với hơn 80 năm lịch sử Trung Hoa được ông gói gọn vào đây bằng tinh thần của người phụ nữ – mà như chia sẻ – được lấy cảm hứng từ chính mẹ mình. Thứ hai, nói đồ sộ bởi lẽ ông đã vận dụng hầu như mọi loại thủ pháp, ngôi kể, cách dẫn chuyện, phong cách sáng tác; tất cả đan cài vào nhau như những sợi len ngang dọc, dày đặc phong phú nhưng lại vô cùng trật tự.

Đọc Báu vật của đời, ta một lần nữa trở lại vùng đất Cao Mật vô cùng sống động đã từng xuất hiện trong Cao lương đỏ – tác phẩm đặt nền móng vị thế của ông trên văn đàn. Cao Mật lần này trở lại vẫn là ruộng cao lương trải dài bát ngát, vẫn là cây lúa oằn mình hứng chịu thời gian, vẫn là thổ phỉ, là hoang vắng, là đấu tranh, là thứ rượu ngon chốn Thập lý bá,… Tất cả gần gũi khi viết như kể tạo nên bức tranh miền sơn đông Trung Quốc vô cùng sống động. Ở đó, ông xoay hướng bút một cách sâu sắc mà cũng kỹ càng vào trong cuộc đời một người phụ nữ, tự Lỗ thị, con dâu nhà Thượng Quan. Từ y và cả gia đình với những số phận chìm nổi, Mạc Ngôn lần theo nhịp quay bánh xe lịch sử. Một cách hữu ý nhưng lại vô tình, ông căng dây cung tâm khảm của những nhân vật để rồi rung động những thứ sống động cả một thời đoạn. Từ Đức xâm chiếm đến Nhật nhảy vào; cải cách ruộng đất lê sang cách mạng văn hóa,… tất cả trải ra như một mâm cỗ dày đặc đau thương. Ở đó ông không che đậy mà lại bày ra trước mắt đầy đủ món ngon hiện thực, đến nỗi cái tàn nhẫn, cái tan tác trong tác phẩm này không còn khối lượng; bởi nhẽ đời sống đã quá cay đắng, số phận đã quá chôn vùi, khắp nơi đâu đâu cũng là cái chết.

Bám lấy số phận của một gia đình để rồi rộng mở con đường ngòi bút, Mạc Ngôn lại một lần nữa vô cùng lý tính trong cách sáng tạo cốt truyện. Dựa trên đặc tả người mẹ và chín người con, Mạc Ngôn phóng tác những xúc tu dài trượt theo những ngả nhánh nhỏ, mà mỗi cô gái là một đại diện cho thời đoạn mình, mở đầu luôn luôn đẹp đẽ, kết thúc luôn là đau thương. Ở đó, người mẹ – Lỗ thị – giữ vai trò trung tâm trong hầu hết câu chuyện thông qua giọng kể dường như độc nhất của Kim Đồng. Mỗi nhân vật là một câu chuyện cuộc đời vô cùng sống động, điều này cho phép Mạc Ngôn thỏa sức đóng mở cánh cửa thời gian một cách công khai không hề che giấu. Một cách tài tình nơi ông là những đan cài câu chuyện: mở đầu là sự lần lượt theo thứ tự tuổi tác; rồi đến một lúc, tất cả rối tung theo những đứt đoạn lịch sử. Thế nhưng với mỗi câu chuyện nhỏ ấy, ngòi bút của ông đồng thời tạo nên một thế lưỡng nan giữa cái cuốn hút khi mỗi phức tạp luôn có điểm nhấn, và thế gán ghép phần nhiều khiên cưỡng, đặc biệt ở những vị trí cửa hậu mỗi lần mở ra tử khí bay về.

Nhìn nhận một cách khách quan, phong độ Mạc Ngôn trong tác phẩm này không hề ổn định. Phần đầu đa số câu chuyện vô cùng sống động, thế nhưng ngày càng về sau ông lại để lộ sự tính toán cho thấy những mối căng cơ trong nhịp diễn tiến làm giãn lũy kế đương tăng, chính xác là sự ức chế. Đôi chỗ ta thấy khi vòng quanh không còn lối ra, cú hook trở nên vô nghĩa, thế thì nhân vật của ông chỉ còn cái chết (dù có thuyết phục hay không) hệt như Câm anh, Câm em, Tư Mã Hoàng, Tư Mã Phượng. Sự thiếu tinh tế là điểm trừ cho tác phẩm này. Thế nhưng nếu bỏ qua những điều lý tính nói trên mà nhìn nhận ở một mặt khác, thì tính cách và mỗi câu chuyện gắn với lịch sử đều được khắc họa một cách đậm nét vô cùng cuốn hút. 

Phong cách tả thực chiếm dụng phần lớn thời lượng Báu vật của đời. Nhờ chính tả thực mà những cảnh tựa đưa tang trong ruộng cao lương thành ra vô cùng sống động. Lại một lần nữa Mạc Ngôn cho thấy tài năng của mình trong việc quan sát. Phong cảnh ấy không chỉ có người, ruộng lúa, cao lương; mà còn cả tiếng ve, tiếng dế, bọn chó, lũ quạ, diều hâu,… đặt trong không khí ngột ngạt của buổi xế chiều, tất cả tang thương được ông đưa vào vô cùng hùng tráng như cảnh cuối trong Cao lương đỏ khi Cửu Nhi đốt trọn một ruộng cao lương cùng với bọn Nhật. Không dừng ở đó, nhờ tả thực, Mạc Ngôn đồng thời mang đến cho ta nhiều nỗi ám ảnh, tựa chi tiết Lỗ thị dùng dạ dày như chiếc túi chứa ăn trộm đậu vạc về cho Ngọc Nữ trong thời đói khổ bằng cách ói ra mật xanh mật vàng. Rõ ràng ta thấy, tả thực hoàn toàn đã làm rất tốt vai trò của mình, khi mang những gì thực nhất, gần nhất đến với người đọc một cách trọn vẹn nhất.

Nói Báu vật của đời phức tạp bởi lẽ không ngoài một số lượng lớn nhân vật tham gia mà còn nằm ở đường hướng sáng tác. Ngoài tả thực chiếm dụng phần lớn thời gian, Mạc Ngôn còn thêm một chút siêu thực vô cùng mới mẻ ở những tiểu thuyết phương Đông nặng tính mắt-thấy-tai-nghe, điển hình ở đây là hình ảnh khuôn ngực. Nói Báu vật của đời, nhưng thực chất là phong nhũ phì đồn – một cách tượng trưng cho người phụ nữ. Một lần ông viết: “Ngôn ngữ là núm vú của tư tưởng, hoa là núm vú của cây cỏ, đèn đường là núm vú của đường phố, mặt trời là núm vú của vũ trụ,… tất cả đều quy về núm vú, dùng núm vú móc nối toàn bộ thế giới vật chất”. Từ một hiện hữu vô cùng thực tế, ông thánh hóa thổi hồn vào nó như có lân tinh để rồi xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, Kim Đồng như con bệnh thần kinh đi theo tiếng gọi trở về nguyên bản. Khép lại tác phẩm, dưới mộ phần Lỗ thị, Mạc Ngôn đặc tả cảnh tượng vô cùng gợi mở: mỗi một núm vú to lớn tròn dẹt quy tụ thành một đỉnh núi trong tâm tưởng Kim Đồng. Một sự tượng trưng vô cùng độc đáo cho người phụ nữ trong thế siêu thực.

Kết hợp cùng những nổi bật trong phong cách sáng tác hay bản thân cốt truyện; sự sắp xếp mỗi một diễn tiến cũng là điểm nhấn vô cùng đáng nhớ. Mạc Ngôn một cách tài tình đưa ra rất nhiều câu chuyện mang tính nguyên nhân – hậu quả, để rồi chỉ trình bày hậu quả, còn cơn nguồn cội lại để sau này. Ban đầu tạo ra một sự ức chế hay nỗi hoài nghi về khả năng sáng tạo, nhưng khi được khơi thông, người đọc không thể không hài lòng hơn về cách giải quyết. Thoảng hoặc như chuyện đánh chết mẹ chồng của Lỗ thị hay chuyện người con thứ tư bán mình cứu cả gia đình trong thời nạn đói; Mạc Ngôn dọn dẹp mọi sự kể lể để cho mạch truyện tiếp tục diễn biến trôi chảy; xong rồi cả thảy chính phần vĩ thanh lại như cú hook đập ngược mang lời hồi đáp. Nếu đọc cả tiểu thuyết này bằng chính lý trí, ngoài những cái kết rất yếu của mỗi câu chuyện, ngoài sự phi logic trong tình tiết mang nhiều trùng hợp; thì sự sắp xếp này đôi khi lại phản tác dụng, mang đến cảm giác không tự nhiên ở cách xây dựng cốt truyện dẫu cho nội dung vô cùng tuyệt đỉnh.

Khép lại Báu vật của đời, Mạc Ngôn thật sự đã vô cùng thành công trong việc tạo nên một thế đối nghịch giữa lý trí và tình cảm. Nếu đọc cả tác phẩm này bằng một con mắt mang tính thực tại, sẽ dễ dàng thấy rất nhiều lỗ hổng hay sự sắp đặt làm mất cân bằng cho một tác phẩm; thế nhưng để cảm để thấu chính tính văn chương cấu thành khung xương gánh đỡ toàn bộ tiểu thuyết, thì Mạc Ngôn đã thật sự thành công trong việc gói gọn lịch sử để rồi nhốt chúng trong một thân phận, từ đó soi chiếu mang đến trải nghiệm vô cùng sống động. Lịch sử hơn 80 năm Trung Hoa mang nhiều gian truân cùng với thân phận của người phụ nữ, tất cả hiện diện trong đây như cơn co giật thần kinh đôi lần xuất hiện nơi những hào quang nơi chiếc vú to hay dòng sữa mẹ, rồi sẽ nằm mãi như con người ta đi tìm bản ngã, rồi đến một ngày, quay về chính nơi bắt đầu. Không sao về bắt đầu. Làm sao về?

Hết.

Ngô Thuận Phát


Xem tất cả những bài viết của Ngô Thuật Phát tại đây.


Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Cafe sáng