Phía sau trang sách

Lolita: Giai điệu cổ điển táo tợn, ranh mãnh và đẹp đẽ

“Chưa bao giờ, phải, chưa bao giờ tôi từng đọc một tác phẩm nào khó đọc đến như vậy. “

Published

on

“Chưa bao giờ, phải, chưa bao giờ tôi từng đọc một tác phẩm nào khó đọc đến như vậy. Khó đọc, đó là một từ chuẩn xác, một cuốn tiểu thuyết làm người ta phải chóng mặt với vốn kiến thức về ngôn ngữ, văn hóa, lối sống… ‘khủng’ về mọi mặt của tác giả.”

Thứ nhất, câu chuyện là sự pha trộn của gần hết các thứ tiếng ở Châu Mỹ và Châu Âu, đủ cho thấy khả năng ngoại ngữ siêu phàm của người viết.

Thứ hai, hành văn đứt nối, tưởng chừng ngắt quãng, đôi chỗ làm người đọc hoảng loạn, choáng váng cả về không gian và thời gian, bất ngờ, kịch tính nhưng lại lặng lẽ… thật kì diệu!

Thứ hai, mỗi câu mỗi chữ đề có tới mấy tầng nghĩa, lớp lớp chồng chồng, đọc xong một câu văn, người đọc như lặng đi trong thế giới tưởng tượng của riêng mình, trong tầng nghĩa mà mình hiểu, rồi lại bất ngờ khi lần đọc kế tiếp mình lại hiểu theo một nghĩa khác, rất kích thích, rất mới mẻ.

Thứ tư, mạnh bạo và phóng túng đề cập tới những từ ngữ nhạy cảm nhất, những chi tiết bùng nổ nhất. Lần đầu đọc, tôi phải công nhận vì sao có một thời thiên tiểu thuyết này dấy lên luồng tranh cãi giữa giá trị nghệ thuật hiện thực với sự rẻ mạt của một cuốn truyện khiêu dâm.

Thứ năm, chủ đề đột phá, bước ngoặt trong tư tưởng của một nhà văn. Tình yêu giữa một người đàn ông và một bé gái… có nhiều điều để nói hơn là một tình yêu thông thường. Đã vậy, khi đề cập tới tình yêu ở đây, tác giả gần như đồng nhất nó với thú vui thể xác, rất mạnh dạn, rất quyết liệt, rất phá cách.”

Đó là lời nhận xét của một độc giả sau khi thưởng thức hơn 400 trang của Lolita, kiệt tác của đại văn hào người Nga V. Nabokov.

Có một số ý kiến so sánh tình yêu của Humbert và Lolita với tình yêu Romeo và Juliet, vĩ đại mà chỉ bị sai lầm về tuổi tác. Có ý kiến cho rằng đây là một kiệt tác của một bậc thầy về ngôn ngữ. Và có độc giả không thể hiểu nổi V. Nabokov viết cái gì.

Được xếp vào top 10 tác phẩm gây tranh cãi nhất thế giới, top 100 tác phẩm xuất sắc nhất mọi thời đại, kiệt tác của văn chương thế kỉ XX, Lolita, cái tên không chỉ của một cuốn sách, một bộ phim mà đã đi vào tâm trí những ai yêu thích tác phẩm này như một tính từ riêng, một dấu ấn không thể nào quên. Một cuốn sách mà từ lúc khởi thủy, cho đến nay đã đi qua bao nhiêu sóng gió và vẫn luôn giữ được sức hút riêng của nó. Lolita đã từng được coi là một cuốn dâm thư và bị từ chối phũ phàng ở Mỹ, một quốc gia dường như luôn chấp nhận mọi tồn tại nghịch lý nhất của cả đời thường lẫn nghệ thuật, mặc dù V. Nabokov đã hy sinh thói quen viết tiếng Nga, tiếng mẹ đẻ mà ông nắm vững như lòng bàn tay mình, để chuyển sang viết tiếng Anh phục vụ độc giả.

Chính V. Nabokov cũng đau lòng một cách hài hước mà rằng: Có biên tập viên thông minh về các mặt khác, nhưng trong trường hợp này, mới đọc lướt phần đầu đã nhận định Lolita là “châu Âu già hủ hóa châu Mỹ trẻ”, trong khi một tay đọc lướt khác lại thấy trong đó hình ảnh của “châu Mỹ trẻ hủ hóa châu Âu già”.

Nabokov cũng than phiền rằng có ông chủ NXB thấy tiếc vì trong cả cuốn sách không có người tốt nào cả. Một ông chủ NXB khác nói, nếu ông in Lolita thì cả ông và Nabokov sẽ đi tù. Thậm chí “có những tâm hồn đôn hậu tuyên bố rằng Lolita chẳng mang ý nghĩa gì hết vì nó không dạy được họ điều gì” khi mà Lolita chỉ là câu chuyện đáng xấu hổ về một gã tâm thần và một cô bé dậy thì sớm lẳng lơ.

Sau đó cuốn sách đã được in lần đầu tiên ở Paris. Những người chấp nhận Lolita gọi đó là một cuốn sách khiêu dâm kết hợp với cách dạy dỗ hành vi ứng xử. Nhà văn Martin Amis còn cho rằng Lolita chính là biểu tượng của chủ nghĩa cực quyền đã phá hỏng nước Nga trong ánh mắt tuổi thơ của Nabokov.

Còn với Nabokov trong toàn bộ các cuốn sách của ông thì Lolita là tác phẩm tinh khiết nhất, trừu tượng nhất và được ông tính toán cẩn thận nhất. “Lolita là một tác phẩm được tôi đặc biệt ưng. Đó là tác phẩm khó khăn nhất của tôi, nó xử lý một chủ đề quá xa, quá tách biệt với đời sống xúc cảm của tôi, bởi vậy nó cho tôi niềm vui được vận dụng kết hợp nhiều tài năng của mình để làm cho câu chuyện không trở thành giả tạo.”

“Lolita, ánh sáng của đời tôi, ngọn lửa nơi hạ bộ của tôi. Tội lỗi của tôi, tâm hồn của tôi. Lo-lee-ta: đầu lưỡi lướt xuống ba bước nhỏ dọc vòm miệng, khẽ đập vào răng ba tiếng. Lo. Li. Ta.

Buổi sáng, em là Lo, ngắn gọn là Lo thôi, đứng thẳng cao một mét bốn mươi sáu, chân đi độc một chiếc tất. Mặc quần thụng trong nhà, em là Lola. Ở trường học, em là Dolly. Trên dòng kẻ bằng những dấu chấm, em là Dolores. Nhưng trong vòng tay tôi, bao giờ em cũng là Lolita.”

Nếu tóm tắt cột truyện Lolita ta có thể diễn giải mấy dòng sau:

Một tiến sĩ văn học người gốc Âu yêu si mê khốn khổ một em bé gái Mỹ mười hai tuổi đến nỗi buộc phải kết hôn với mẹ cô bé, người mà ông ta không yêu, chỉ để hàng ngày được gần gũi với người thương. Sau khi mẹ cô bé chết trong một tai nạn, tiến sĩ cùng con gái vợ chu du khắp nước Mỹ.

Rồi cuối cùng, vì lòng ghen tuông, vì nỗi đau đớn bởi sự mất mát tình yêu, ông ta trở thành kẻ giết người và đây chính là tập hồi ký của Humbert, một kẻ tâm thần.

Nếu chỉ đơn giản thế, ta có thể xếp Lolita vào danh sách dài những câu chuyện loạn luân rẻ mạt nhan nhản hàng ngày.

Nhưng Lolita hơn thế rất nhiều!

journal-book-cover-design-3-new-jpeg

Đó là sự tinh vi dò xét tâm lý con người; đó còn là những nước cờ ngôn từ kiệt xuất của một trong những thiên tài văn chương lớn nhất.

Humbert, nhân vật chính của truyện, hơn Lolita 21 tuổi. Humbert đã bảo vệ luận án tiến sĩ, các bài báo khoa học vẫn thường xuyên được đăng tải, được các trường đại học mời giảng dạy, có mối quan hệ tốt đẹp với tất cả những người xung quanh, được đánh giá là một người nhã nhặn, lịch thiệp và nhân cách tốt, được phụ nữ mê như điếu đổ với bề ngoài điển trai. Tóm lại mọi hành vi và tác phong của Humbert hoàn toàn bình thường, đến nỗi cả hai người vợ và bạn bè anh ta đều chẳng hay biết  anh ta một kẻ tâm thần mắc bệnh ham muốn tình dục với trẻ con, hay còn gọi là bệnh ái nhi.

Gã Humbert một phần cứ phải che giấu con người thật để chứng tỏ mình là một người đàn ông bình thường, một người văn minh khiến ngay cả khi gã chưa bị bỏ tù thì cũng giống như đang sống trong một cái nhà tù vô hình với một tưởng tượng vô hình về cái “cù lao thời gian thần tiên vô hình”.

Phần nữa, gã luôn phải đè nén và che giấu cái ham muốn tội lỗi của mình, cái ham muốn mà càng cố gắng đè bẹp, nó càng khiến cho gã phát cuồng lên, đặc biệt là khi Humbert sống kề sát Lolita, bị cô bé kích động hàng ngày, mà luôn phải giả bộ là một người cha dượng thân ái và lịch thiệp. Humbert yêu thương và tôn thờ Lolita như với cách mà anh ta gọi các em bé gái: Tiểu nữ thần. Tình yêu đơn phương của H.H cũng có đầy đủ các cung bậc của một thứ tình yêu tột đỉnh. Sau sự phản bội của Lolita, gã cha dượng H.H nổi lòng ghen tuông và “Lo ngước mắt lên với một nụ cười nửa miệng ngỡ ngàng và chẳng nói chẳng rằng, tôi bạt một cái tát tai trời giáng trúng cái chỏm nhỏ, cứng và nóng của gò má em…”

Và tiếp đến là hối hận, là nức nở chuộc tội êm dịu đến thắt lòng, là quỳ gối yêu đương, là làm lành trong mê cuồng xác thịt đến tuyệt vọng. “Trong đêm nhung lụa ở motel Mirana, tôi hôn lòng bàn chân hoe hoe vàng với những ngón dài của em, tôi đốt cháy mình…” Humbert vừa là chủ nô, vừa là nô lệ của Lolita, và toàn bộ câu chuyện toát lên rất rõ hai khía cạnh mâu thuẫn đầy ám ảnh này.

Lolita tên thật là Dolores Haze, là một cô bé tính khí thất thường, vừa ngây thơ, vừa dày dạn. Có thể người đàn bà trong cơ thể cô phát triển quá sớm, với những khao khát về tình dục quá sớm trong khi trí não cô cũng không trưởng thành hơn tuổi mười hai là mấy, mọi hành vi của Lolita chỉ là sự tò mò của một bé gái dậy thì.

Trong suốt cuộc hành trình chạy trốn rong ruổi suốt nước Mỹ, cô vừa có những cuộc truy hoan cùng người đàn ông đáng tuổi bố mình, vừa thèm thuồng những trò chơi tinh nghịch mà lứa tuổi “tiểu nữ thần” như cô ưa thích. Và cũng đúng như tính cách của một đứa trẻ, cô nhanh chóng chán “cái thế giới Humberland màu nâu sậm và đen kịt”. Cô chạy trốn, cô chối bỏ bởi trước mắt cô là một tương lai mịt mù bởi một thứ tình yêu nô lệ tước đoạt cả tuổi thơ, tước đoạt tự do, tước đoạt một cuộc sống bình thường.

Lolita đáng thương hơn là đáng trách bởi cô chỉ là cô bé không cha không mẹ, không bạn bè và không người chia sẻ sống trong một môi trường bất bình thường, với một kẻ bất bình thường nuôi dưỡng một thứ tình yêu bất bình thường.

Không thể phủ nhận Lolita là một tiểu thuyết khó đọc, có thể ở những trang đầu độc giả có thể sẽ bị choáng vì nó khó nhằn, cảm thấy ghét Humbert và cả Lolita nhưng nếu chịu khó theo dõi tiếp thì sẽ cảm thấy vô cùng thú vị với lối chơi chữ cũng như diễn biến của câu chuyện. Cuộc hành trình của hai con người ấy sẽ khiến người đọc cảm thấy buồn bã, thương cho số phận của những nhân vật, đồng cảm, tìm ra sự yêu thương nhiều hơn là căm phẫn. Và cuối cùng là sự vỡ òa khi Humbert đã xóa bỏ nguyên tắc mang mã gene độc nhất vô nhị của mình, xóa bỏ tư duy mỹ cảm của một người đàn ông, xóa bỏ lòng kiêu hãnh của một nam nhân khi nhìn cái bụng to phình của người thương đang mang đứa con của kẻ khác.

“Tôi khẩn thiết muốn thế giới biết tôi yêu xiết bao Lolita của tôi, chính Lolita này, trắng bệch và ô nhiễm, với đứa con của một kẻ khác trong bụng, nhưng vẫn còn nguyên cặp mắt xám với rèm mi đen nhánh như bồ hóng, mái tóc vẫn nguyên màu hạnh đào nâu đỏ, vẫn là Carmencita, vẫn là của tôi. Ngay cả như vậy, chỉ cần trông thấy bộ mặt thân yêu tái nhợt của em, chỉ cần nghe âm thanh cái giọng trẻ khản đặc của em, lòng tôi đã ngập tràn thương mến đến phát điên rồi, ơi Lolita của tôi.”

Chỉ đến khi Lolita bỏ trốn, chỉ đến khi gã lặn lội đi tìm bằng được cô, chỉ đến khi gã bị cô kiên quyết từ chối, cảm xúc, sự hy sinh, sự tuyệt vọng của gã mới làm người xem rung động và xót xa. Rồi đến khi gã đi tìm gặp người mà Lolita yêu say đắm và cũng là người làm tan nát trái tim cô để trả thù, bạn đọc lại có cảm giác tình cảm của Humbert với Lolita mang hơi hướng của tình cảm cha-con.

Cuối cùng, khi gã người tình chết, Humbert vào tù và viết ra Lolita như một bản tự thú, một lần nữa Nabokov đã dùng tình yêu mãnh liệt của mình để làm cho Lolita trở thành bất tử. Tượng đài Lolita đã nói lên khát vọng tình yêu đẹp đẽ của Nabokov, một tình yêu đã vượt ra ngoài biên giới của tình dục, ham muốn và bản năng.

Nabokov đã chạm đến tận cùng những kẽ tâm lý trong ngõ thẳm của tâm hồn người, những suy nghĩ sâu kín được tác giả trải dài trên giấy trắng mực đen. Cốt truyện nhiều biến động, nhiều tình tiết ly kỳ, không gian đẹp và ý tưởng chân lý. Lolita chậm rãi và nhẹ nhàng như một giai điệu cổ điển réo rắt để người đọc có thể gặm nhấm từ từ, đọc để cảm thụ khi có thời gian và không gian thoải mái thích hợp.

Hết.

Thu Hiền

*

Có thể bạn đọc sẽ thích


Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Những thương hiệu quốc dân ‘vang bóng một thời’

Theo VnExpress – Xà bông Cô Ba, máy may Sinco, nước ngọt Con Cọp, kem đánh răng Hynos và Dạ Lan từng là những cái tên dẫn đầu thị trường, nhưng dần sa sút khi công ty chủ quản bỏ thương hiệu hoặc bán vốn cho đối tác.

Published

on

Xà bông Cô Ba là nhãn hiệu do ông Trương Văn Bền thành lập năm 1932 ở khu vực chợ hóa chất Kim Biên (quận 5, TP HCM).

Trong cuốn Sài Gòn tạp pín lù, học giả Vương Hồng Sển nói rằng hình ảnh in trên bao bì viên xà bông là cô Ba Thiệu, con thầy Thông Chánh, quê gốc Trà Vinh. Bà là người đăng quang cuộc thi hoa hậu đầu tiên tổ chức năm 1865 ở Sài Gòn. Tuy nhiên, cũng có thông tin khác cho rằng người phụ nữ này là vợ ông Trương Văn Bền. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Xà bông Cô Ba được ưa chuộng khắp miền Nam lúc bấy giờ nhờ chất lượng tốt, giá thành phải chăng. Theo lời học giả Vương Hồng Sển, xà bông "bán chạy vo vo", sản xuất đến đâu hết đến đó. Thương hiệu này có giai đoạn đánh bật sự độc quyền của Hãng xà bông Marseille (Pháp).

Đất nước thống nhất, công ty của ông Trương Văn Bền hoạt động theo mô hình doanh nghiệp nhà nước với tên gọi Nhà máy công tư hợp doanh xà bông Việt Nam, sau đó đổi tên thành Công ty Sản xuất và Thương mại Phương Đông. Sản phẩm xà bông Cô Ba dần vắng bóng khỏi thị trường. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Cuối năm 2017, Công ty Bất động sản An Dương Thảo Điền mua 48,68% cổ phần Công ty Phương Đông. Lãnh đạo công ty nói rằng Xà bông Cô Ba vẫn có chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng nên sẽ khôi phục dây chuyền sản xuất với sản lượng ước tính vài chục tấn mỗi năm, chủ yếu để bảo tồn thương hiệu gần trăm tuổi.

Chia sẻ với VnExpress, lãnh đạo An Dương Thảo Điền từng nói: "Tham gia ngành hàng tiêu dùng nhanh là cuộc chơi đòi hỏi vốn lớn và nhiều rủi ro, trong khi đây không phải thế mạnh của chúng tôi nên phương án được ưu tiên là hợp tác với các nhà sản xuất, phân phối có kinh nghiệm. Chúng tôi sẽ đóng góp công thức, bản quyền thương hiệu... để thành lập một liên doanh khôi phục Xà bông Cô Ba".

Trong ảnh là tòa nhà từng là trụ sở của xà bông Cô Ba nằm ở số 20 đường Kim Biên, bên hông chợ Kim Biên.

Nước ngọt Con Cọp có mặt ở hầu hết hàng quán ăn uống trước năm 1975 do tập trung vào phân khúc tiêu dùng bình dân, trong khi Coca-Cola thời đó ở phân khúc cao hơn. Đây là sản phẩm của Usine Belgique, nhà máy sản xuất nước giải khát lớn nhất miền Nam, thuộc tập đoàn BGI (Pháp). Nhà máy này cũng là nơi ra đời của bia Lade trái thơm và bia 33 Export.

Tờ áp phích có dòng chữ "nước ngọt Con Cọp mỗi chai, là nguồn vui mạnh kéo dài tuổi xuân" quen thuộc với người tiêu dùng. Ảnh tư liệu

Hai năm sau ngày đất nước thống nhất, Tập đoàn BGI chuyển quyền sở hữu và bàn giao toàn bộ nhà máy cho nhà nước với tên gọi Nhà máy nước ngọt Chương Dương. Nhãn hiệu Con Cọp biến mất từ đó, thay bằng các dòng sản phẩm xá xị mang thương hiệu Chương Dương. Ảnh lật sau là vị trí Công ty nước ngọt BIG nay là trụ sở công ty nước giải khát Chương Dương, 606 Võ Văn Kiệt.

Máy may Sinco ban đầu được nhập khẩu nguyên chiếc từ Nhật Bản, sau đó có nhà máy lắp ráp và đặt trụ sở chính trên đường Trần Hưng Đạo (quận 1 ngày nay). Nơi đây từng là biểu tượng quen thuộc của người dân Sài Gòn với biểu tượng máy may bàn đạp trên nóc tòa nhà. Hiện nay, tòa nhà đang được sử dụng làm cơ sở cho một phòng khám. Ảnh: Lynn Roylance

Trước ngày đất nước thống nhất, Sinco có đại lý phân phối khắp nội thành Sài Gòn và các tỉnh. Trong các tờ rơi quảng cáo, thương hiệu này giới thiệu ưu điểm chính là "may khéo, thêu đẹp, sửa chữa miễn phí" và cam kết bảo hành 20 năm. Sinco nổi tiếng với độ bền cao, thao tác đơn giản nên được nhiều gia đình và xưởng dạy nghề may ưa dùng.

Sau giải phóng, Sinco được quốc hữu hóa và trở thành Xí nghiệp liên hiệp Máy may Sinco. Doanh nghiệp này được cổ phần hóa những năm đầu 2000 và chuyển hướng sản xuất máy móc phục vụ công nghiệp và nông nghiệp như dây chuyền giết mổ gia cầm, chế biến lúa gạo, tiêu… Trụ sở công ty cũng được dời về huyện Bến Lức, Long An. Ảnh tư liệu

Hynos là hãng kem đánh răng do một người Mỹ gốc Do Thái thành lập và chuyển giao cho ông Huỳnh Đạo Nghĩa sau khi về nước.

Ông chủ mới nhanh chóng cải tiến mẫu mã và đưa Hynos tới gần người tiêu dùng bằng phương thức tiếp thị độc lạ thời đó: phát nhạc quảng cáo ra rả trên loa phóng thanh gần các cửa hàng bách hóa và đặt biển quảng cáo ở những vị trí đắc địa của Sài Gòn.

"Nụ cười anh Bảy Chà" và đoạn quảng cáo "trồng lúa mới có gạo mà ăn, thế mà có người đã phải trồng răng mới có răng mà ăn" làm nên thời kỳ hoàng kim của Hynos vào những năm cuối thập niên 60. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Không chỉ nổi tiếng trong nước, Hynos còn được bán sang các nước trong khu vực Đông Nam Á và Hong Kong, trở thành một trong những biểu tượng thương mại đương thời.

Thực hiện chính sách quốc hữu hóa sau ngày giải phóng, Hynos được nhà nước tiếp quản và sáp nhập với một công ty cùng lĩnh vực thành Xí nghiệp Kem đánh răng Phong Lan, sau đó đổi tên thành Công ty Hóa phẩm P/S. Công ty có giai đoạn chiếm tới 60% thị phần kem đánh răng ở miền Nam. Ảnh: Bill Mullin

Giữa năm 1997, Tập đoàn Unilever đề nghị lập liên doanh trên tinh thần "win-win" với tổng vốn đầu tư hơn 17 triệu USD.

Trong thời gian hợp tác, Hóa phẩm P/S chỉ đảm nhận việc gia công vỏ hộp bằng nhôm mà không được sản xuất kem đánh răng như trước. Sáu năm sau ngày bắt tay, công ty bị đánh bật khỏi liên doanh kèm cam kết về sau không được sử dụng thương hiệu nổi tiếng bậc nhất lúc bấy giờ trên bất kỳ sản phẩm nào.

Đầu năm 2007, những lãnh đạo cũ thành lập Công ty cổ phần P/S để gầy dựng lại hoạt động kinh doanh. Công ty ban đầu gia công vỏ nhôm cho các doanh nghiệp dược phẩm, sau đó sản xuất kem đánh răng mang dòng chữ Hynos cùng hình ảnh quen thuộc "nụ cười anh Bảy Chà". Hàng hóa được tiêu thụ trong các khách sạn, resort và cũng xuất hiện rải rác trên sàn thương mại điện tử. Ảnh: Tommy Japan/Flickr

Tương tự Hynos, kem đánh răng Dạ Lan cũng có một thời lừng lẫy đầu thập niên 90 khi chiếm tới 90% thị phần từ Đà Nẵng trở ra phía Bắc. Thương hiệu này từng có lợi nhuận vài lượng vàng mỗi ngày.

Ông Trịnh Thành Nhơn, người sáng lập Dạ Lan, tự nhận thương hiệu của mình thời đó "là con gái đang độ tuổi xuân sắc" nên được nhiều doanh nghiệp nước ngoài như Colgate, Unilever, P&G đặt vấn đề hợp tác.

Năm 1995, Dạ Lan ký hợp đồng liên doanh với Colgate - thương vụ mà ông Nhơn gọi là "sai lầm lớn nhất cuộc đời". Thương hiệu khi đó được định giá 3,2 triệu USD và ông nắm 30%, đồng thời giữ chức phó tổng giám đốc trong công ty liên doanh.

Chưa đầy một năm hợp tác, Colgate bảo Dạ Lan càng kinh doanh càng lỗ nên cần nhường chỗ cho sản phẩm mang nhãn hiệu của họ. Colgate sau đó thông báo đã dùng hết vốn góp và vay ngân hàng. Khi ông Nhơn đồng ý góp thêm 10 triệu USD với điều kiện được làm tổng giám đốc, có toàn quyền điều hành, đối tác bác bỏ và khơi mào việc phá sản. Ảnh: Ông Trịnh Thành Nhơn cung cấp

Sau vài lần đàm phán căng thẳng, Colgate mua lại cổ phần của ông Nhơn với giá 5 triệu USD kèm điều kiện ông không được tham gia ngành hàng này trong 5 năm tiếp theo.

Ông Nhơn nỗ lực vực dậy thương hiệu Dạ Lan từ khoảng 2016, nhưng tự thừa nhận khoảng cách với những đơn vị dẫn đầu như P/S hay Colgate còn rất xa.

Ông cho biết mỗi ngày đều cố gắng phát triển lại Dạ Lan để bàn giao cho thế hệ sau này. "Tôi không can tâm nhìn con cái tiếp quản một công ty thua lỗ triền miên do mình gây nên. Khi tiền bạc bây giờ không phải là ưu tiên hàng đầu, tôi có một điều bất di bất dịch là không được để mất thương hiệu Dạ Lan bằng bất cứ giá nào", ông nói. Ảnh: Anh Nguyên

Phương Đông - Quỳnh Trần (Theo VnExpress)

Đọc bài viết

Cafe sáng