Phía sau trang sách

Khát vọng đổi đời: Kết quả của tưởng tượng hay là dự báo tương lai

Published

on

Stefan Zweig – nhà văn nổi tiếng người Áo, từ trước đến nay luôn được biết đến là một tác gia có sự phân tích tâm lý nhân vật sâu sắc ở mảng truyện ngắn. Người ta biết nhiều đến ông qua hai tác phẩm tiêu biểu: 24 giờ trong đời người đàn bàBức thư của người đàn bà không quen; thế nhưng, không chỉ ở mảng truyện ngắn, với tiểu thuyết mặc cho một số lượng khiêm tốn (chỉ hai tác phẩm cho đến khi cơn bĩ cực trào đến) Stefan Zweig cũng kịp ghi tên mình vào danh sách những tác gia viết tiếng Đức có ảnh hưởng vô cùng lớn đến thế hệ người đọc, bên cạnh những Thomas Mann, Frank Kafka hay Thomas Bernhard,… Khát vọng đổi đời là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của ông, được xuất bản sau 40 năm từ khi cái chết ngỡ ngàng ập đến, nhưng dư âm của nó vẫn mãi còn đó, thâm nhập len lỏi vào từng ngóc ngách đời sống, trở thành những giá trị tuy không mới nhưng chưa bao giờ cũ.

Khát vọng đổi đời là một cuốn tiểu thuyết lạ, bởi nhẽ, nó được viết ngắt quãng hai phần. Phần đầu, cuộc đời chính của nhân vật Christina Hoflehner, như một vở kịch dang dở phê phán thế giới phù hoa, nơi mọi chân giá trị bị đảo ngược. Thế nhưng sau khi câu chuyện phôi thai thành hình, Stefan Zweig lại gác bút để đó, vì như ông chia sẻ trong những bức thư còn lại “tôi rơi vào một vực thẳm sâu hoắm không sao vượt qua nổi”. Và chính sự trỗi dậy của đế chế thứ 3 khi dáng hình Hitler bao trùm lên toàn thể châu Âu, đã như cú thúc vào trong tâm trí khiến cây bút lại một lần nữa phải được cầm lên. Phần sau, trong nỗi ngậm ngùi thế nhưng lại can đảm nhất, thật thà nhất và cũng đau đớn nhất; được ông viết sau khi đã lưu vong sang London. Ở đó Ferdinand được ông xây dựng như hình tượng chính mình: một con người đã mất tất cả: quê hương, xứ sở, nguồn gốc, tên tuổi, … Tựa Sylvia Path hay Szabo Magda khi dùng thế giới quan cá nhân để viết nên Quả chuông ác mộng hay Cánh cửa, Stefan Zweig ở đây cũng bằng một sự dũng cảm tự thân khoét sâu vào nỗi đau mình, hy sinh một phần thân thể để viết nên cái vết thương đã mưng mủ của rất nhiều người mà chỉ sau một đêm cơn bão thời cuộc đã quét sạch gọn ghẽ chính họ ra khỏi mảnh sân của mình.

Nửa đầu tiểu thuyết, ông tập trung viết về thói phù phiếm của những tên đạo đức giả hưởng lợi từ cuộc chiến. Được viết vào những năm 30 khi Thế chiến thứ nhất vừa mới đi qua, trong một khung cảnh nghèo nàn của Áo thời hậu chiến, có lẽ, đói nghèo là thứ tác động nhiều đến ông bên cạnh đất nước đang từ từ đứng dậy sau cơn suy kiệt. Ở đó, Christina Hoflehner sống vật vờ như được lập trình sẵn, sở hữu trong mình cơ may khi nhờ quan hệ của ông bác mà kiếm được việc làm ở bưu điện, tuy công việc nhàm chán nhưng ít ra mỗi tháng vẫn kiếm được vài siling để gom góp vào khoản tiền lo cho người mẹ nằm liệt giường. Thế nhưng, thứ công việc ấy cũng chật vật như chính bữa ăn ngày có ngày không ở vùng nông thôn hẻo lánh. Vật vờ như một cái bóng từ 8 giờ sáng đến 12 giờ trưa, rồi từ 2 giờ trưa đến 6 giờ chiều; cuộc sống của cô vẫn cứ lặp đi lặp lại đều đều như thế. Cho đến một ngày, cô được một người họ hàng mời đến chơi như cách nối lại sợi dậy ruột rà từ lâu đã đứt, và cũng chính từ đây, cô được biết thế giới thực chất là như thế nào, đáng sống ra thể làm sao.

Ở khu nghỉ dưỡng trên núi cao thuộc vùng Thụy Sỹ ấy, Christina lần đầu tiên biết thế nào là đáng sống. Ở đó cô được gặp bè lũ những người làm giàu từ cuộc chiến: có người Mỹ giàu lên nhờ buôn vũ khí, có người Pháp bỗng dưng phất lên chỉ sau một đợt đầu cơ. Ở đó cô cũng chứng kiến những cuộc vũ hội hăng say, hay khoản tiền cá cược chỉ sau 10 phút là lấy được trong khi cô phải mài lưng 4 tháng trong chính vương quốc bé tí là bưu điện của mình. Christina cũng là con người, cô ào vào thế giới ấy nhanh chóng, tận hưởng từng giây từng phút những khoảnh khắc ấy, và bỏ quên đi con người của mình ở nước Áo xa xôi cách đấy 2 lần đổi tàu. Bằng những so sánh giữa hai thế giới tưởng như không giao nhau, Stefan Zweig một cách tài tình bóc trần cái nghèo của đất nước mình, đất nước của những con người thèm thuồng. Như những bi kịch trong Đỏ và đen hay Chỉ ngu ngơ mới biết cười, thói phù hoa ở đây cũng khiến con người ta thức tỉnh, và sự thức tỉnh ấy đã không đến muộn.

Không chỉ khắc họa thói đạo đức giả của những con người ngoại quốc, Stefan Zweig cũng đồng thời khéo léo phơi trần bộ mặt của những người-con-ưu-tú của đất nước mình, mà dì Clare của Christina là một ví dụ. Sợ quá khứ trác táng của mình lại một lần nữa được đào bới lên, con người ấy nhẫn tâm cắt đứt mọi mối quan hệ. Christina từ một bình minh thiên đường bị đẩy xuống bóng tối địa ngục, như thể: “Tâm hồn tan nát, nàng chỉ cảm thấy rằng người ta đã cướp đoạt mất của nàng một cái gì đó, rằng đang từ một cô gái hạnh phúc, được niềm vui chắp cánh nàng phải trở lại thành con sâu mù lòa bò trên mặt đất”. Cũng chính từ đó, nàng trở nên khinh bỉ cái thế giới giả tạo ấy, thế giới không thật ấy. Nhưng biết làm sao, khi đó lại là một sang chấn tâm lý quá lớn. Một lần nhìn thấy để rồi nhớ nhung cả đời, Christina mang theo giấc mộng vương giả ấy vào tận đời thực, và vì đã đứng trên bước ngưỡng vọng, đâm ra cô thấy thế giới này thật đáng chán và không còn gì để sống: “Sống làm gì khi sẽ phải chết dần, chết mòn, ngày này qua ngày khác, trong khi vẫn biết rằng còn có một thế giới khác, một thế giới thực sự, rằng trong con người nàng vẫn sống một con người khác và con người ấy đang chết ngạt vì ngộ độc bởi cái thế giới đã làm cho mê mẩn tâm thần ấy”.

Phần đầu của tiểu thuyết có lẽ được Stefan Zweig kết thúc tại đây, bởi nhẽ, có viết thêm một điều gì nữa thì đó cũng là cái hiện thực tàn khốc, cái thật thà tái tê, không sao thay đổi được. Và cũng có thể chỉ từ khi làn sóng phát xít nhen nhóm thao túng toàn bộ châu Âu, chính sự kiện ấy khiến ông phải tránh sang Anh, và cũng từ đây thai nghén một nhân vật mới, Ferdinand. Một cách dễ nhận ra, ông dùng Ferdinand như chính một cách viết về bản thân, về những nỗi đau và cơn sốt thế hệ giày xéo lên mình. Nếu Christina chỉ nhận thấy những mất mát về mặt vật chất, về những công bằng mặt ngoài không trùng khớp nhau, thì Ferdinand lại đi sâu vào ngọn nguồn, về khoảng thời gian thanh niên đã mất, cuộc chiến đã mãi mang đi. Ở đó Ferdinand như một người tình cách mạng, khơi nên những nỗi đọa đầy của thời cuộc. Một mặt anh chấp nhận vì đó là những hiển nhiên, nhưng nhen nhóm ở  đó vẫn mãi là những bất lực bản thân, bởi cứ mỗi cố gắng nhô mình lên trên mặt nước hoàn cảnh, thì thời cuộc lại như thứ hắc ín đen ngòm trói chặt bước chân, kéo mãi con người xuống vực thẳm buồn sâu.

“Trong khi anh đang ngủ thì đổng tiền lại mất giá, trong khi anh đang thay đôi giày há mõm bằng đôi guốc gỗ để chạy vội ra cửa hàng thì nắm giấy bạc đã chẳng còn giá trị gì nữa, lúc nào cũng thấy người ta chạy ngược chạy xuôi, nhưng hình như chẳng kịp làm một việc gì”. Đó là hình ảnh của xã hội đương thời, là cuộc sống của những thanh niên dành cả quãng đời sôi nổi để quăng mình vào Thế chiến để rồi đau xót nhận ra đổi lại họ chẳng được thứ gì. Họ ước mơ, rồi tan biến. Họ khao khát, rồi tuyệt vọng. Họ trồi lên, nhưng đạp đổ. Tất cả kéo con người ta duy nhất vào một con đường, chết, vì sống làm gì nữa khi không còn gì có thể cứu vãn, khi cứ phải sống vật vờ như những bóng ma đợi ngày hành quyết. Như câu buông xuôi đầy bất lực của Ferdinand, rằng: “Không đâu, chúng ta đã đầu thai nhầm thế kỷ rồi”.

Bằng cuộc gặp gỡ tình cờ ở thành Vien, Christina và Ferdinand như tìm thấy nhau trong cơn khốn khổ. Một người vì những ảo danh làm cho mê mải, một người vì những khắc nghiệt đâm ra khinh thường, cả hai người họ sáp vào với nhau như cơn an ủi bản thân, như một cách sống qua ngày đoạn tháng. Cũng kể từ đây, Stefan Zweig chuyển từ công kích riêng một tầng lớp, sang cả xã hội đầy những nhiễu nhương. Ở đó là bộ máy nhà nước quan liêu, là chế độ mới vô cùng thực dụng, là những con người chấp nhận đầu hàng số phận vô cùng đáng khinh. Trong khi Stefan Zweig hay Ferdinand mãi luôn tìm một con đường vùng vẫy; thì nhà nước ấy, xã hội ấy, những người ấy, lại như chiếc tàu lướt êm đi vào chỗ chết: “Cô thử nghe mà xem, họ cười hô hố vẻ rất hài lòng, nhưng họ chỉ là những chiếc máy đang nghỉ ngơi ngày chủ nhật, những kẻ nô lệ làm mướn, không, cô cứ thử nghe mà xem, tiếng cười của họ ướt đẫm mồ hôi, sặc mùi mỡ béo và hoàn toàn bất hạnh”.

Ở đó xã hội làm bần cùng con người ta, biến họ thành tầng lớp thoái hóa, chôn chặt chính những chân rết xuống đáy xã hội. Họ vạ vật kêu van nhưng vô ích. Có ích gì đâu khi bầu không khí trùm kín đất nước đang dần thối rữa, khi cơn mưa hóa chất rơi xuống làm cháy tan tành tâm tính của mỗi người họ. Ở đó, mỗi một phản ứng diễn ra hòa vào làn sóng của những thối rửa, bốc mùi và ám vào da thịt cá thể. Như bộ phim Parasite, mỗi một người họ đều mang trong mình thứ mùi nghèo khổ, thứ mùi đọa đầy mà có thay đổi quần áo, phục sức nước hoa hay tắm gội hàng giờ cũng không gột sạch được. Vì đó là mùi hương của đất nước, của đói nghèo, của tuyệt vọng, của ngã quỵ, của chết gục: “Phải, sự nghèo đói ấy toát ra từ căn phòng nằm dưới tầng hầm, cửa mở sân sau; toát ra từ bộ quần áo không được thay đổi thường xuyên. Cái mùi ấy không thể đánh tan đi được […] Không có cách nào có thể thoát ra được, cho dù nó có được che đậy bằng chiếc mũ mới, cho dù suốt ngày có đánh rang cũng vậy – cái mùi ấy vẫn cứ bốc ra từ dạ dày”.

Chỉa mũi dùi sang một nhà nước đã quá tàn tạ, ta thấy một giọng văn hào sảng của Thomas Bernhard trong những phê phán đầy mỉa mai của Stefan Zweig: “Nhưng, bạn thân mến ạ, ở nước Áo của chúng ta mọi con đường đều cong cả”. Và đứng trước những hoàn cảnh ấy, còn lại gì ngoài cái chết vì nỗi ham thích tự do? Đến cuối, cả 2 con người họ yêu nhau, tìm đến tự do, khát khao hạnh phúc, bằng một cách hết sức thơ mộng, khẩu súng và cyanua. Như vận cuộc đời của mình vào trong tiểu thuyết, đến phút cuối đời, Stefan Zweig và người bạn gái của mình cũng chọn cái tự do như thế trong một căn phòng ở Brazil. Nhưng khác ở đây, như Erich Maria Remaque viết trong Bóng ở thiên đường: “Nếu trong buổi tối ấy ở Brazil, khi Stefan Zweig và vợ ông cùng tự vẫn, họ có thể trút bầu tâm sự với ai đó dù chỉ qua điện thoại thì thảm họa đã không xảy ra. Nhưng Zweig đã rơi vào cảnh tứ cố vô thân nơi đất khách quê người”, Christina và Ferdinand vẫn còn một con đường khác. Họ lấy lại những gì đã mất, những gì đáng lẽ từng thuộc về mình, những gì là của mình, nhất định của mình. Stefan Zweig viết trong thế đối đầu giữa lý trí vả tình cảm, giữa hình dung thực và cái ảo tưởng. Thế nhưng, ông đã không đủ can đảm để lèo lái cuộc đời mình như nhân vật chính ông đã viết ra, hoặc, ông dùng chính cái chết ấy, như cách ẩn dụ cho cái kết của tiểu thuyết này. Nói gì chăng nữa, chính số phận ông và Khát vọng đổi đời có một thứ gì đó gắn bó chặt chẽ, ông quyết định cuốn tiểu thuyết này, hay ngược lại, nó quyết định ông? Khó mà biết được, nhưng chắc một điều, cả ông và tiểu thuyết này đều là nô lệ của chính thời cuộc đang mang trên lưng.

“Nhà nước đã chỉ cho chúng ta thấy rằng chỉ trong vòng hai tuần lễ, toàn bộ số tiền của dành dụm suốt ba đời của một gia đình có thể biến thành những tờ giấy lộn […]. Thậm chí nếu như anh có giết một người nào đó, thì thử hỏi ai đã đẩy anh đến hành động ấy, ai đã huấn luyện anh để làm việc ấy? [..] Nếu chúng ta bắt buộc phải lường gạt thì ai là người chúng ta phải chịu ơn vì cái nghệ thuật ấy? Chính nhà nước – đó chính là ông thầy của chúng ta”. Những triết lý sau rốt của Stefan Zweig như lời hồi đáp mạnh bạo quăng vào thời cuộc, tương tự như Gabriel Garcia Marquez một lần từng viết trong Ngài đại tá chờ thư: “Hãy nói cho tôi nghe: trong lúc ấy chúng ta ăn bằng cái gì?’ – Ngài đại tá phải trải qua bảy mươi nhăm năm của cuộc đời ngài từng phút một để đi tới cái thời khắc nghiệt ngã này. Ngài cảm thấy nghiệt ngã, lâng lâng, kiêu ngạo khi trả lời: ‘Cứt’ “. Dù khác biệt những vùng địa lý hay khác xa những hệ tư tưởng, cả Marquez và Stefan Zweig cuối cùng cũng đã nói ra đúng thứ chủ chốt của một vấn đề, và với Khát vọng đổi đời, nó không còn đơn thuần là một khát vọng, mà nó chỉ cho ta thấy khát vọng có thể hủy hoại con người ta dữ dội đến mức độ nào, nó dìm họ xuống, không thể trồi lên.

Hết.

minh.

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng