Book trailer

Đốn hạ: Nét quyến rũ từ sự hiểm độc của Thomas Bernhard

“…tôi có thể đưa tất cả bạn bè cũ của tôi vào không gian trong trang sách và nhốt giữ họ ở đó.”

Published

on

Chi tiết tác phẩm

Ngày 28 tháng 8 năm 1984, có một tiểu thuyết mang tên Đốn hạ mới chỉ phát hành được bốn ngày đã bị cảnh sát thu hồi toàn bộ trên thị trường dưới án lệnh của thẩm phán, xuất phát từ một vụ kiện tụng dân sự do nhạc sĩ tên gọi Gerhard Lampersberg đâm đơn. Lý do là cách tiểu thuyết này “bôi nhọ, phỉ báng, sỉ nhục” một nhân vật trong truyện được cho là khá giống với Lambersberg đã làm hư hại đến danh tiếng của nhạc sĩ này ở ngoài đời. Cha đẻ của tiểu thuyết này không ai khác chính là Thomas Bernhard – nhà văn, nhà thơ, nhà soạn kịch tai tiếng thế kỷ 20 – kẻ được mệnh danh “chuyên vạch áo cho người xem lưng” của nước Áo.

Đây không phải là lần đầu tiên các tác phẩm của Thomas Bernhard vướng vào kiện tụng. Một giáo viên cũ của Bernhard, hay một gia đình thẩm phán bị lấy tên để đặt cho nhân vật hư cấu trong truyện, đã từng đâm đơn kiện nhà văn vì lý do các tác phẩm này đã “xuyên tạc, bóp méo” con người họ. Lần này, tiểu thuyết mang tên Đốn hạ của ông tiếp tục “gây thù chuốc oán” với cánh trí thức thượng lưu cùng đám “bù nhìn nghệ sĩ” của thành Vienna, khi ông “giương rìu” đốn thẳng vào thiết chế nghệ thuật hèn hạ giả trá bắt tay thỏa hiệp cùng những nhà cầm quyền.

Nhân vật kể chuyện của Đốn hạ là một nhà văn quay trở lại Vienna sau khi sống ở London 20 năm và nhận lời mời tham dự một buổi “dạ tiệc nghệ sĩ”. Ngồi lừng lững trên ghế bành, với ly sâm panh trên tay, ông phóng tia nhìn từ bóng tối và lặng lẽ quan sát những người xưa kia từng là bạn bè thân thiết trong giới nghệ thuật mà ông đã hoàn toàn quay lưng. Theo tiến trình của buổi tiệc, những ký ức về mối quan hệ với từng người khách ùa về và theo đó diễn biến tâm trạng của người kể cũng trở nên càng lúc càng kích động. Đỉnh điểm kích động là khi bữa tiệc khép lại và cuốn sách này được mở ra: “tôi sẽ viết ngay về cái gọi là buổi dạ tiệc nghệ sĩ này, bất kể là viết về cái gì, miễn là phải viết ngay, viết ngay lập tức, kẻo muộn…” Sáng tác năm 1984, Đốn hạ như tập hợp những ghi chép của Thomas Bernhard về chính quá khứ của ông ba thập kỷ trước. Ông chia sẻ: “Đôi khi ta muốn cầm bút viết lại để tóm bắt những phân đoạn mang tính quyết định của cuộc đời ta. Và Đốn hạ là tác phẩm tóm bắt những năm 50 của tôi. Lúc này chúng ta ở những năm 80, tức là 30 năm sau, và tôi có thể đưa tất cả bạn bè cũ của tôi vào không gian trong trang sách và nhốt giữ họ ở đó.”

Say sưa trong những tràng công kích liên tu bất tận, Thomas Bernhard vận dụng thủ pháp độc thoại tự sự miên man mà sau này đã để lại ảnh hưởng sâu sắc đến những cây bút đương thời như Laszlo Krasznahorkai, Antonio Lobo Antuñes hay W.G. Sebald. Chương, hồi và ngắt đoạn nhìn chung hoàn toàn thiếu vắng, câu cú đôi khi tuôn từ trang này qua trang khác, tạo nên dòng suy tưởng vừa gấp gáp dữ dội lại vừa uyển chuyến và có nhạc điệu nhờ biện pháp điệp ngữ điêu luyện.

Được sáng tác vào cuối đời trong tình trạng sức khỏe kiệt quệ, vật lộn với các chứng bệnh liên quan đến tim phổi, nhưng tiểu thuyết như Đốn hạ cùng với Diệt vong hay Kẻ thất bại (Der Untergeher) lại được đánh giá nằm trong số những tiểu thuyết xuất sắc nhất của nhà văn. Thiếu vắng những chất liệu xốc nổi hay phong cách Gothic cường điệu trước đây, trước tác cuối đời của ông tập trung diễn tả tài tình thứ nghịch lý trọng tâm trong tư duy sáng tác: đó là khao khát bộc lộ nội tâm mạnh mẽ đối địch với thôi thúc đi đến tình trạng cô lập tuyệt đối. Sự thâm hiểm được lắng lại và đi vào chiều sâu, những mũi lao phóng ra ít nhưng bén ngót và trúng đích. Như chính Thomas Bernhard tự nhận: “Càng già tôi càng hiểm độc, cũng như những cuốn sách của tôi vậy, đó cũng là một trong những nét quyến rũ của các tác phẩm của tôi.”

Với Đốn hạ, ông chĩa mũi dùi vào giới ngụy nghệ sĩ cùng thói tham danh hám mẽ và lối sống giả trá từ sân khấu xuống đời thực của chúng. Bernhard miêu tả thành phố Vienna là “cái cối xay nghệ thuật lớn nhất thế giới, trong đó các bộ môn nghệ thuật cùng các nghệ sĩ sẽ bị xay nhuyễn, bị nghiền nát, hết năm này sang năm khác” ấy thế nhưng “bọn chúng suốt đời không theo đuổi mục tiêu nào mãnh liệt hơn là được nhảy vào cối xay nghệ thuật đó, chen lấn xô đẩy, tranh nhau nhảy vào xối xay nghệ thuật sẽ xay nghiền họ thành cám ấy.” Ông miệt thị nhà hát danh giá nhất nước Áo – Nhà hát kịch Burgtheater là “phá sản về mặt nghệ thuật,” còn diễn viên Nhà hát kịch Burgtheater “thật ra chỉ là một lũ bù nhìn tiểu tư sản, không chút hiểu biết gì về nghệ thuật sân khấu, và từ lâu, đã biến Nhà hát kịch Burgtheater thành một thứ nhà thương chứa chấp căn bệnh mê kịch nghệ hời hợt”. Trước những lời lẽ cáo buộc bôi nhọ, phỉ báng, ông chỉ nói: “Những thái độ này hoàn toàn không gượng ép. Nếu bạn sống ở đây và đi bộ xung quanh thành phố, nếu bạn làm quen với con người ở đây, kiểu gì bạn cũng sản sinh ra những suy nghĩ trên”. Ông tuyên bố mình viết bằng bút, không phải bằng súng: “Nếu có người cảm thấy bị đụng chạm thì đó là vấn đề của anh ta, hay vấn đề của cả đất nước hay của cả nền văn hóa này. Những ai cảm thấy tôi đang khai hỏa là những người cho rằng mọi từ ngữ trong sách, hay mọi từ ngữ nói chung, đều là những viên đạn.”

Nghệ thuật cần phải tự thân vận động và nuôi sống chính nó – đó là kim chỉ nam cho cuộc đời hoạt động nghệ thuật của Thomas Bernhard được thể hiện tường minh trong tác phẩm Đốn hạ. Đặc biệt thông qua hai nhân vật là nữ nhà văn Jeannie Billroth và Anna Schrecker, những kẻ “từ bỏ triệt để các giấc mơ hay các dự định cũng như niềm say mê ban đầu chúng dành cho văn học để đi vào thứ nghệ thuật tầm thường và đáng ghét, chuyên nịnh bợ nhà nước cầm quyền”, Bernhard kết án sự thỏa hiệp giữa cường quyền và nghệ thuật làm vấy bẩn nghệ thuật chân chính và “treo cổ” những nghệ sĩ thiên tài. Theo ông, bất kỳ ai nhận trợ cấp dù chỉ một đồng đều không chỉ sản sinh ra thứ văn chương “sặc mùi phụ thuộc”, mà còn “phản bội toàn bộ nền văn chương”, “hủy hoại đời sống văn hóa”. Ông tự nhận chưa từng bao giờ nhận bất kỳ trợ cấp nào của chính phủ và cũng sẽ không cho bất kỳ nghệ sĩ trẻ nào dù chỉ một đồng, bởi thành hay bại phải do tự anh ta bươn chải mà nên.

Sau khi vụ kiện tụng được dàn xếp ổn thỏa và tác phẩm được lưu hành trở lại thị trường, doanh thu Đốn hạ tăng vọt và Thomas Bernhard hẳn là người hân hưởng hơn ai hết. Tuy vậy, tác phẩm có được thành công vang dội không chỉ nhờ một vụ bê bối. Như báo Washington Post đã dành tặng lời khen: không một cuốn sách nào khác có thể giới thiệu về Bernhard toàn diện hơn Đốn hạ; đây có lẽ chính là tác phẩm kết hợp giữa yếu tố hư cấu và tự truyện rõ nét hơn bao giờ hết trong toàn bộ trước tác của Thomas Bernhard.

Hết.

Vĩnh Ngân

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Book trailer

Bi cảm cái đẹp và cái chết trong tiểu thuyết Người đẹp ngủ mê của văn hào Kawabata Yasunari

Published

on

Người đẹp ngủ mê – tiểu thuyết kinh điển của cố nhà văn Nhật Bản Kawabata Yasunari vừa được Phương Nam Book tái bản phát hành – khắc họa thái độ phản tỉnh của một người thực hành thiền định để đi đến giác ngộ về dục tính của chính mình và ý nghĩa của nhân sinh.

Người đẹp ngủ mê được Kawabata Yasunari viết và xuất bản vào năm 1961 khi ông 62 tuổi. Tác phẩm này dựa trên một kịch bản sân khấu kabuki với nhan đề Những mỹ nữ của Eguchi, công diễn khoảng thế kỷ 17 ở Nhật Bản.

Ông lão Eguchi 67 tuổi và nỗi lòng cô đơn trống trải

Tác phẩm kể về những lần ghé thăm của ông lão Eguchi, 67 tuổi, đến ngôi nhà đặc biệt với những trinh nữ xinh đẹp, tuổi chưa đến hai mươi, được gây mê bằng thuốc ngủ liều cao, hoàn toàn khỏa thân trong tình trạng ngủ say. “Nếu chỉ cần lay nhẹ mà cô gái đã thức dậy thì ngôi nhà này đâu còn gì bí ẩn nữa. Các vị khách đến đây ‘giống như ngủ với một ông Bụt vô hình’. Đối với các ông già, ngủ với một người đẹp không khi nào tỉnh thức là một mối cám dỗ, một cuộc phiêu lưu, một niềm vui thú mà họ tin mình còn thực hiện được.”

Mỗi chương truyện là những lần ông lão Eguchi ghé thăm ngôi nhà đặc biệt này. Mỗi lần, ông lại ngủ với những cô gái khác nhau. Màn đêm tối buông xuống, hơi thở êm dịu của những cô gái, gió thỉnh thoảng thổi qua mái nhà, tiếng sóng biển ầm ầm đập vào vách đá, Eguchi có những hồi tưởng, những hoài niệm khắc khoải khác nhau về những người đàn bà đã đi qua đời ông. Một ẩn dụ rõ ràng về sự tiếc nuối những văn hóa, những vẻ đẹp xưa kia ở Nhật Bản chỉ có thể gợi nhớ lại qua những khung cảnh, những hình ảnh tương tự, gần giống như thế.

Việc ngủ cạnh những cô gái trong ngôi nhà đặc biệt đã khiến tâm tưởng ông lão Eguchi tìm ra những cung bậc cảm xúc hết sức khác thường trong khi vẫn tôn trọng quy định của ngôi nhà. “Nàng ngủ, nàng không nói, nàng chẳng thấy khuôn mặt ông, chẳng nghe giọng nói ông... Và số phận ông nàng cũng chẳng mảy may biết đến”. Hơn hết, nhân vật chính cô đơn trong chính tâm thức của mình. “Một nỗi cô đơn buồn bã trào lên. Nhưng hơn cả nỗi cô đơn hay nỗi buồn rầu, chính là nỗi cô chiếc tuyệt vọng của tuổi già như thể đông lạnh hẳn trong ông”.

Điểm cốt lõi của tiểu thuyết Người đẹp ngủ mê bắt nguồn từ nhân vật chính tự chiêm nghiệm về chính con người thực sự của mình. Ở hành trình đó, tác giả Kawabata Yasunari đã tạo ra các cuộc gặp gỡ, sự quan sát của ông lão Eguchi về vẻ đẹp thể xác của các cô gái. Tác phẩm không chỉ đơn thuần tràn ngập những mỹ từ như “bàn tay mịn và đẹp, mái tóc trinh trắng, đôi má ửng đỏ, cổ và vai trông tươi và trẻ…”, mà là sự suy tưởng về quy luật của thời gian, sự sống và cái chết, nỗi hoài niệm quá khứ, khao khát tương lai, lãng quên cuộc sống hiện tại. Phải chăng, hình ảnh của một đời sống xã hội đầy tổn thương khiến con người ta dễ rơi vào tâm trạng cô đơn, nỗi tiếc nhớ xót xa những tháng ngày chưa sống mà đã qua đi.

Bi cảm cái đẹp và cái chết

Càng về sau, tác giả Kawabata Yasunari đi sâu vào bản thể và ký ức xa xăm nhất của nhân vật chính, Eguchi tìm lại được những cảm xúc tinh thần thuần túy. Ông lão tin rằng, ở trong ngôi nhà đặc biệt này, chắc có những lão già không những buồn rầu nhìn lại thời trai trẻ nay đã xa xưa mà còn tìm cách lãng quên những điều xấu xa, những việc độc ác đã làm dọc theo chiều dài cuộc đời họ. Nhìn từ khía cạnh này, Eguchi nhiều lần xuất hiện cảm giác rằng những người đẹp ngủ mê phải chăng là sự hiện thân của một vị Bụt nào đó, trong các truyền thuyết xưa cũ.

Cũng trong tác phẩm này, Kawabata nhận định: “Trên thế gian không có gì cao quý bằng con người. Trong loài người không có gì vinh dự bằng thân thể trong trắng của người nữ. Tuy nhiên, để chiếm đoạt, sở hữu nó người ta phải phá hủy sự trinh khiết đó”Người đẹp ngủ mê chính là thứ cảm giác không thể nhầm lẫn mách bảo ta rằng Kawabata đã khéo léo sử dụng vẻ đẹp của ngôn từ cần thiết cho tác phẩm. Đỉnh điểm, ông đã khắc họa thành công cái đẹp của tấm thân trần – nó dường như trở thành biểu tượng cao quý của tính nữ vĩnh hằng, dù có được sở hữu trong tay thì vẫn muôn đời là bí mật.

Tác phẩm Người đẹp ngủ mê đã giúp cho tác giả Kawabata Yasunari trở thành tiểu thuyết gia người Nhật đầu tiên và người châu Á thứ ba đoạt giải Nobel Văn học năm 1968 với lời ca ngợi của Viện Hàn Lâm Thụy Điển rằng: “Ông là người tôn vinh cái đẹp hư ảo và hình ảnh u uất của hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và trong định mệnh con người”.

Một điểm đặc biệt, ở chương cuối, ông lão Eguchi trong cơn mộng mị nửa tỉnh nửa mê đã gợi nhớ về hình ảnh người mẹ của mình. Người đàn bà đầu tiên: “Mẹ”. Ý nghĩ này bất ngờ xẹt qua đầu ông như tia chớp. “Không phải mẹ thì ai vào đấy nữa”. Ý thức và lý trí ông đã tê liệt, và hình như nước mắt ứa ra từ khóe mắt già nua. Ông chỉ còn nhớ được đã mò mẫm tìm vú mẹ rồi lăn ra ngủ những ngày thơ ấu. Cũng giống như ông lão Eguchi nhớ về mẹ, đứa con dù lớn vẫn là con của mẹ. Có lẽ, cảm thức cô đơn trong chính tác phẩm văn chương của Kawabata thường phản ánh từ chính cuộc sống thời thơ ấu mồ côi từ năm 2 tuổi và cái tuổi trẻ thấm đẫm nước mắt của chính tác giả.

Sau tất cả, tiểu thuyết Người đẹp ngủ mê đem lại những cảm xúc thẩm mỹ độc đáo, đồng thời để lại nhiều khoảng trống, nhiều băn khoăn để độc giả tự khám phá bằng trình độ thưởng thức của mình. Người đẹp ngủ mê chứa đựng nhiều đối cực: tuổi già – tuổi trẻ, cái đẹp – cái chết, tội lỗi – trong sạch, tha hoá – nguyên sơ… Vì vậy, Kawabata Yasunari dẫn dắt độc giả qua tầng tầng lớp lớp ngữ nghĩa vận động không ngừng, tạo nên sự khác biệt trong cảm nhận khi đọc tác phẩm.

Nếu một vài độc giả cảm thức tác phẩm thanh hay tục đều xuất phát từ hình tượng nghệ thuật phức tạp, ngôn từ đa nghĩa. Đôi khi, độc giả sẽ có những cảm xúc kinh hãi vì những suy nghĩ xấu xa của ông già Eguchi. Hay bạn sẽ thương xót cho vẻ đẹp của thân xác những người đẹp ngủ mê đang bị làm ô uế… Song dù sao, người đọc cần một trí tuệ sáng suốt, thấy đúng, thấy rõ những sai lầm của nhân vật chính để từ đấy lĩnh hội được các giá trị đích thực chân – thiện – mỹ của tác phẩm.

Trích đoạn

“Ngay vào thời điểm này trong năm, hai hay ba hoa mẫu đơn mùa đông nở dưới mặt trời ấm áp bên chân hàng rào cao bằng đá của một tu viện cổ ở Yamato. Những đóa trà hoa trắng nở trong vườn gần mái hiên ngôi nhà Shisendo. Vào mùa xuân, ra đời những chùm hoa đậu tía, những đóa đỗ quyên trắng ở thành phố Nara và ở Đền Trà Hoa ở Kyoto, những cánh hoa trà rụng đầy vườn.”

“Cô gái ngủ mê man như chết nhưng thời gian sinh tồn của nàng đâu có ngưng chảy, vậy nàng có giữ được thời gian đó không hay là nó chảy tuột vào một vực sâu không đáy? Nàng không phải là một búp bê sống, vì không thể có búp bê sống trên thế gian này; nàng được biến thành một đồ chơi sống, để các cụ già đã mất năng lực đàn ông không bị cảm thấy xấu hổ. Không, không phải một đồ chơi: đối với các cụ, nàng chính là cuộc sống. Một cuộc sống người ta có thể sờ mó được, một cách tự tin”.

“Dù say ngủ, nàng vẫn sống, nói cách khác, ý thức nàng bị vùi sâu trong giấc ngủ đậm đặc nhưng thân xác nàng vẫn sinh động trong nữ tính của mình.”

Về tác giả

Chân dung văn hào Nhật Bản Kawabata Yasunari năm 1969

Kawabata Yasunari (1899–1972) sinh ra ở Osaka, mồ côi năm lên 2 tuổi. Từ đó, ông và chị sống lần lượt cùng ông bà ngoại và gia đình người dì. Kawabata Yasunari là tiểu thuyết gia người Nhật đầu tiên và người châu Á thứ ba đoạt giải Nobel Văn học (năm 1968).

Những sáng tác văn chương, những tiểu luận mỹ học và phê bình văn học của Kawabata Yasunari, qua thời gian vẫn luôn đem lại hấp lực mạnh mẽ đối với nhiều nhà phương Đông học trên khắp các châu lục, có sức lôi cuốn rộng rãi độc giả trên thế giới, phản ánh nhiều phương diện của văn hóa Nhật cũng như những rung cảm đầy đam mê mà tinh tế của tâm hồn Nhật.

Đọc bài viết

Giới thiệu sách

Lớn lên trên đảo vắng – Cuộc phiêu lưu kịch tính của gia đình Robinson

Published

on

Lớn lên trên đảo vắng

Trên đường sang châu Mỹ lập nghiệp, gia đình Robinson không may bị đắm tàu và trôi dạt vào một hoang đảo. Tại đây, họ đã phải bắt đầu một cuộc sống mới đầy gian khó, khi phải tự làm nhà, săn bắn, trồng trọt, thuần hóa thú hoang… Mỗi ngày với họ đều là một chuyến phiêu lưu kỳ thú nhưng cũng không kém phần nguy hiểm. Với sự ưu đãi của thiên nhiên và tinh thần kiên cường vượt qua nghịch cảnh, gia đình Robinson không chỉ sống sót mà sau nhiều năm lưu lạc trên đảo vắng, họ còn xây dựng được cho mình một cơ ngơi đáng kể.

Dưới ngòi bút miêu tả chân thực của tác giả Johann David Wyss, Lớn lên trên đảo vắng không chỉ bày ra trước mắt độc giả vẻ đẹp của một thế giới tự nhiên hoang sơ, trù phú mà còn là lời ca ngợi những đức tính tuyệt vời của con người. Đó là tinh thần phiêu lưu dũng cảm, sự thông minh tài trí, tính cần cù chăm chỉ và lòng tốt, sự quan tâm giữa các thành viên trong gia đình với nhau. Nhờ vậy mà đây đã trở thành một trong những tác phẩm được yêu thích nhất của trẻ em trên toàn thế giới, còn nhiều lần được dựng thành phim cũng như chuyển thể thành truyện tranh và trò chơi điện tử.

Johann David Wyss (28/5/1743 - 11/1/1818) sinh ra ở Bern, Thụy Sĩ. Ông vốn là mục sư nhưng sau này đã trở thành một tác giả nổi tiếng. Được truyền cảm hứng từ tác phẩm Robinson Crusoe của Daniel Defoe, nhưng Wyss muốn viết một câu chuyện chứa đựng những bài học thú vị, bổ ích về cuộc sống thiên nhiên hoang dã dành riêng cho trẻ em, nên đã cho ra đời tiểu thuyết Lớn lên trên đảo vắng. Tác phẩm được xuất bản lần đầu tiên bằng tiếng Đức năm 1812, và sau đó hai năm, đã được dịch sang tiếng Anh, rồi lần lượt là nhiều thứ tiếng khác.

Đọc bài viết

Giới thiệu sách

Năm tuần trên khinh khí cầu – Chuyến du lịch độc đáo xuyên qua châu Phi hoang dã

Published

on

Năm tuần trên khinh khí cầu

Năm tuần trên khinh khí cầu kể câu chuyện về ba người Anh với tham vọng băng qua châu Phi, từ Đông sang Tây, trên một chiếc khinh khí cầu. Tiến sĩ Samuel Fergusson, nhà khoa học thông tuệ, là trưởng đoàn, đồng hành cùng ông có người hầu cận trung thành Joe và anh bạn thợ săn thiện xạ Dick Kennedy. Bộ ba dấn thân vào biết bao cuộc phiêu lưu hấp dẫn và không kém phần kỳ lạ: chạm trán với người bản địa và những loài động vật nguy hiểm, gặp sự cố với khinh khí cầu, đồng thời phải vật lộn với những bất lợi về thời tiết. 

Xuyên suốt cuốn sách Năm tuần trên khinh khí cầu, tác giả Jules Verne đã mô tả một cách sinh động những đặc điểm về hệ thực vật, động vật, địa lý và con người châu Phi qua con mắt của thế kỷ XIX. Được xuất bản lần đầu vào năm 1863, Năm tuần trên khinh khí cầu là sự kết hợp tuyệt vời của các yếu tố như nhân vật thông minh, sáng tạo, những kiến thức khoa học và công nghệ đi trước thời đại, đặc biệt là cốt truyện đầy hấp dẫn hé lộ viễn cảnh về một thế giới chưa được biết tới, tất cả đã làm nên chất phiêu lưu đặc trưng và tạo tiền đề cho những tác phẩm sau này của Jules Verne.

Tác phẩm văn học Năm tuần trên khinh khí cầu. Ảnh: Đinh Tị Books

Ngày 31/1/1863, Năm tuần trên khinh khí cầu chính thức ra mắt và ngay lập tức nổi tiếng khắp nước Pháp và sau đó là toàn thế giới. Mọi người đều hết sức kinh ngạc khi độc giả có cảm giác được trải nghiệm thực tế những điều trong sách. Một độc giả còn gửi thư tới nhà xuất bản để hỏi: “Tôi rất mong nhận được một câu trả lời từ ngài, Tiến sĩ Samuel Fergusson thật sự có thể ngồi trên khinh khí cầu để bay xuyên qua châu Phi ư…”

Năm tuần trên khinh khí cầu do Đinh Tị Books phát hành. Bản dịch đầy đủ từ dịch giả Ngụy Thanh Tuyên giúp truyền tải trọn vẹn tinh thần của bản gốc. Bởi, dịch giả Ngụy Thanh Tuyên đã có kinh nghiệm chuyển ngữ thành công rất nhiều tác phẩm cả kinh điển, trong số đó có thể kể đến Hai vạn dặm dưới đáy biển 80 ngày vòng quanh thế giới.

Trích đoạn

“Samuel thân mến ạ!” Người thợ săn nói. “Dự án gì đó của anh thật điên rồ! Nó không khả thi! Nó chẳng có vẻ gì là nghiêm túc hay thực tế hết!”

“Tại sao lại không?”

“Chà, vì rủi ro, vì trở ngại đủ kiểu.”

“Về chuyện trở ngại,” Fergusson nghiêm giọng nói. “Trở ngại tồn tại là để ta vượt qua. Còn rủi ro và nguy hiểm ư? Ai dám tự vỗ ngực tuyên bố ta đây chẳng bao giờ gặp nguy? Chúng ta chỉ nên thấy hiện tại qua tương lai mà thôi, vì tương lai chẳng qua chỉ là hiện tại xa hơn một chút.”

Đọc bài viết

Cafe sáng