Book trailer

Con đường thủy vào Trung Hoa: Thước phim sống động về dòng Mê Kông quyến rũ

Published

on

Con đường thủy vào Trung Hoa của sử gia Milton Osborne – tác phẩm vừa được Phương Nam Book phát hành – là một bản tường thuật được nghiên cứu kỹ lưỡng từ chuyến đi của đoàn thám hiểm sông Mê Kông vào thế kỷ 19. 

Khi đặt mình vào vai trò độc giả, Milton Osborne cảm thấy các tài liệu đồ sộ của đoàn thám hiểm gồm sáu người Pháp khởi hành từ Sài Gòn lên thượng nguồn, khảo sát về dòng sông Mê Kông rất khó đọc “không chỉ vì ngôn ngữ mà còn ở cách viết, cách đặt vấn đề chưa được rõ ràng”. 

Chính vì thế, ông đã lược dẫn lại nhiều thông tin báo cáo, cộng thêm việc tự nghiên cứu, du khảo trong khoảng thời gian gần 10 năm. Từ đó, quyển sách Con đường thủy vào Trung Hoa đã ra đời nhằm giúp độc giả hiểu rõ mối quan tâm từ sớm của người Pháp về dòng sông Mê Kông với tham vọng tìm ra tuyến đường thủy nối liền Nam Kỳ và miền Nam Trung Hoa. Đồng thời, tác phẩm còn tái hiện một lát cắt sinh động về đời sống Đông Dương trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. 

Dòng Mê Kông vĩ đại – một ẩn số quyến rũ người phương Tây

Ở giai đoạn đầu lịch sử, những họa sư đã sử dụng bản đồ của người Bồ Đào Nha để ghi tên con sông bằng tiếng Thái: “Mecon, hay Mecom”, đôi khi là “Mekong”. Nếu dịch thoáng qua đầy lãng mạn thì nó mang hàm ý “mẹ của các dòng nước”. Thế nhưng, người dân Campuchia gọi nó là “Tonle Thom”, người Việt gọi nó là “sông Lớn”. Cả hai tên gọi đều mang ý nghĩa –  “Dòng sông vĩ đại”.

Mê Kông thực sự là một con sông vĩ đại. Dòng chảy của nó kéo dài khoảng 4350km với xuất phát từ cao nguyên Tibet (Tây Tạng), đi qua Trung Quốc, Lào, Campuchia, Việt Nam rồi đổ ra biển Đông. Giữa thế kỷ 19, dòng Mê Kông phân chia thành nhiều phân nhánh nhỏ, là tuyến đường thủy quan trọng trong việc đi lại và buôn bán của người dân xứ Đông Dương. Tuy vậy, sông Mê Kông vẫn là một ẩn số chưa tìm được lời giải. Từ xa xưa, ý tưởng con đường thủy vào Trung Hoa đã được các đế quốc Pháp, Anh, Bồ Đào Nha… bàn luận với mục đích tìm kiếm điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu thương mại trên dòng Mê Kông.

Năm 1837, Đại úy McLeod một sĩ quan quân đội Anh tại Myanmar đã thám hiểm sông Salween đế đến biên giới Trung Hoa. Tuy nhiên, chính quyền Trung Quốc không cho phép đoàn thám hiểm đi qua lãnh thổ nước này, nên sứ mệnh của McLeod đã kết thúc sớm… Những năm 1860, giới thương nhân Pháp lẫn Anh luôn nghĩ rằng, hàng triệu người Trung Hoa đang chờ đợi cơ hội được mua hàng hóa nhập khẩu từ châu Âu. Nguồn tài nguyên trên mảnh đất màu mỡ này sẽ được các nhà công nghiệp nước ngoài khai thác. Sau năm 1863, một người Pháp ở Sài Gòn đã ghi lại trong tư liệu rằng: “Cuộc thám hiểm dòng sông Mê Kông nằm trong đầu tất cả mọi người. Nhưng vấn đề trước mắt là làm sao để biến ý tưởng này thành hiện thực”. 

Trong nỗ lực khai mở bí mật của dòng sông, sáu công dân Pháp đã lao vào một cuộc thám hiểm với niềm tin rằng tuyến đường thủy mà họ phát hiện sẽ dẫn vào lộ giới Trung Hoa, giúp việc buôn bán hàng hóa phát triển, gia tăng thêm sự giàu có từ đất nước đông dân này. Sau nhiều tháng ròng rã trôi qua, dù phải đối mặt với những cơn sốt rét, bệnh kiết lỵ, những nhà thám hiểm vẫn chậm chạp tiến bước. Tuy vậy, còn rất nhiều thử thách đang chờ họ phía trước trong hành trình truy tìm tuyến đường thủy thực tế dẫn vào Trung Hoa. 

Công trình khảo cứu đồ sộ về dòng Mê Kông trong bối cảnh văn hóa Đông Dương

Một cuộc phiêu lưu đầy mạo hiểm đã bắt đầu với 6 thành viên chính và 16 nhân sự phụ giúp: Doudart de Lagrée (trưởng đoàn), La Grandière (phó đoàn), Clovis Thorel (bác sĩ trong đoàn), Lucien Joubert (bác sĩ trong đoàn), Louis Delaporte (họa sĩ), Louis de Carné (thành viên nhỏ tuổi nhất trong đoàn)… Tất cả đều lên đường với sự hiếu kỳ cùng niềm tin rằng họ sẽ có lòng dũng cảm để đón nhận những tai họa trải dài suốt hành trình. 

Con đường thủy vào Trung Hoa mô phỏng lại toàn cảnh lưu vực sông Mê Kông cùng vùng nội địa Đông Dương và Nam Trung Hoa của hơn 150 năm về trước. Không gian và đời sống văn hóa của cộng đồng dân cư trong lưu vực sông Mê Kông đã được ghi chép lại sống động. Từ đây, độc giả sẽ có cái nhìn bao quát về dòng Mê Kông qua những sinh hoạt của từng cụm dân cư, và cách họ duy trì tập quán tổ chức các lễ hội dân gian, phong tục, tín ngưỡng đến văn hóa sinh hoạt, trang phục, ứng xử. Trong đó, có một số phong tục văn hóa bản địa được tác giả ghi chép kỹ lưỡng như: lễ hội đua ghe ngo, lễ hội té nước, lễ hội mùa ở Lào và Campuchia; khu chợ vải bản xứ ở Myanmar (Miến Điện); tập tục bó chân ở Trung Hoa… Ngoài ra, tác phẩm còn đề cập chi tiết buổi yến tiệc cùng vua Norodom tại cung điện hoàng gia Campuchia mà đoàn thám hiểm được tham dự, hay một đêm nghe nhạc xứ Lào, hay nghi lễ trong một ngôi nhà thuộc thị trấn ven sông Nong Khay… 

Ngoài việc chắt lọc thông tin từ những báo cáo chính của La Grandière, tác giả Milton Osborne còn kết hợp với nền tảng kiến thức sẵn có, tham khảo, đối chiếu từ nhiều nguồn khác nhau nhằm mang đến cho độc giả cái nhìn rõ nét về những nguy hiểm, những mâu thuẫn, những chán nản… của đoàn thám hiểm khi khảo sát dòng sông Mê Kông. 

Milton Osborne dẫn lược lại ghi chép của La Grandière rằng: “Tình trạng sức khỏe của đoàn tồi tệ. Những chặng cuối, chúng ta phải băng qua những cánh rừng, đồng ruộng, bị ướt đẫm bởi các cơn mưa đầu mùa. Điều đó khiến chúng tôi bị sốt rét, lở loét bàn chân khiến phân nửa đoàn nhiều ngày không thể nhấc mình khỏi chỗ nằm.” 

Khi đoàn vượt qua những rắc rối về giấy thông hành, thời tiết, dịch bệnh… thì họ đến được cửa ngõ Tư Mao (một quận nội thành thuộc địa cấp thị Phổ Nhĩ, tỉnh Vân Nam ngày nay). Vừa vào Trung Quốc, các nhà thám hiểm liền nhận ra, họ gây sự tò mò cho những ai chưa từng thấy người da trắng, “lũ trẻ con quan sát và bắt chước dáng đi của quân nhân và những cử chỉ lạ lùng của các nhà thám hiểm”. 

Dù có nhiều vất vả, khó khăn trong suốt chặng đường dài; thậm chí, đôi khi phải đối mặt với những thất bại cay đắng, các nhà thám hiểm vẫn kiên trì chịu đựng và nhanh chóng phục hồi. Quả ngọt cuối cùng mà họ nhận được là những phát hiện lịch sử mang tính khoa học về dòng sông vĩ đại mang tên Mê Kông. 

Con đường thủy vào Trung Hoa là một công trình khảo cứu đồ sộ, tóm lược toàn bộ thành quả mà phù sa sông Mê Kông kiến tạo trong suốt nhiều thế kỷ. Tác giả Milton Osborne đã trả lời các câu hỏi lịch sử thông qua việc nghiên cứu những văn bản báo cáo của Léon Garnier, với những hình ảnh minh họa in kèm. Ngoài ra, phần trích dẫn cuối sách còn bổ sung thêm một số tư liệu về cuộc thám hiểm dòng sông Mê Kông có liên hệ đến Việt Nam, nhằm giúp bạn đọc thuận tiện trong việc tra cứu. 

Tác phẩm Con đường thủy vào Trung Hoa của sử gia Milton Osborne giúp người đọc phần nào hình dung rõ hơn bức tranh toàn cảnh có tính đối sánh giữa các xứ Đông Dương trong tiến trình thuộc địa hóa đầy ảo vọng của người Pháp. Có thể nói, đây là một bản tường thuật được nghiên cứu kỹ lưỡng về chuyến đi vĩ đại của đoàn thám hiểm người Pháp với tham vọng tìm ra tuyến đường thủy nối liền Nam Kỳ và miền Nam Trung Hoa.

Trích đoạn

“Sau nhiều năm tranh luận, đoàn thám hiểm sông Mê Kông của Pháp rời Sài Gòn ngày 5/6/1866. Để trang trải trên đường, đoàn có các thỏi vàng, tiền đô la Mexico, tiền xu Thái, tổng giá trị tới 25.000 franc. Lương thực được đóng trong 150 thùng với hơn 500 kg khẩu phần dự trữ, bánh quy, bánh mì sấy, 300 kg bột mì, 700 lít rượu vang và 300 lít rượu brandy. Ngoài ra, 15 thùng hàng để trao đổi dọc đường đi và 1 thùng dụng cụ khoa học.”

***

“Giữ vai trò trung tâm của mọi cuộc tranh luận, sau khi tất cả các yếu tố khác đã được xem xét, Mê Kông vẫn là một con sông vĩ đại, lớn thứ mười hai trên thế giới về chiều dài, lớn thứ sáu về lượng nước đổ ra biển. Nó vẫn cầm giữ những bí ẩn.”

***

“Người ta tổ chức cuộc đua ghe ngo để đánh dấu việc kết thúc mùa mưa và mực nước sông hạ nhanh. Các con thuyền độc mộc cỡ lớn, dài tới 30 mét, có đến sáu mươi tay chèo. Họ cùng đua trước sự chứng kiến của những người đứng đầu địa phương và toàn thể cư dân.”

Nhận xét của báo chí thế giới

Con đường thủy dẫn Trung Hoa một bản tường thuật hấp dẫn được nghiên cứu kỹ lưỡng, khắc họa cuộc phiêu lưu được ca ngợi là một trong những chuyến thám hiểm vĩ đại nhất thế kỷ 19.”

Washington Post

“Milton Osborne đã hoàn tất một công việc nghiên cứu tuyệt vời.”

Spectator

“Ngoài những chi tiết thú vị, cuốn sách còn có đầy đủ những sự kiện quá khứ cần thiết của một tác phẩm lịch sử: Tầm quan trọng, sự thú vị và tính chân thật.”

Sử gia Robin W. Winks,
Đại học Yale

Về tác giả

Milton Osborne là sử gia nổi tiếng, chuyên nghiên cứu về khu vực Đông Nam Á. Sau khi tốt nghiệp Đại học Sydney (Úc), ông làm việc cho Đại sứ quán Úc tại Phnom Penh (Campuchia) trong khoảng thời gian từ năm 1959 1961. Từ những kinh nghiệm trong công việc, ông tiếp tục lấy bằng Tiến sĩ Lịch sử Đông Nam Á tại Đại học Cornell (New York, Mỹ).

Sau khi đảm nhiệm nhiều chức vị hàn lâm tại Úc, Anh và Hoa Kỳ, Tiến sĩ Osborne trở thành Giám đốc Viện Nghiên cứu Anh quốc ở Đông Nam Á tại Singapore. Năm 1980 1981, ông tham gia cố vấn cho Liên Hợp Quốc về vấn đề người tỵ nạn Campuchia. Trong năm 1982, ông quay về Úc làm Giám đốc Chi nhánh châu Á của Văn phòng Thẩm định Quốc gia.

Tiến sĩ Osborne là tác giả của nhiều cuốn sách lịch sử về đề tài châu Á, kể từ 1993, ông là tác giả toàn thời gian kiêm người cố vấn về khu vực này.

Năm 2021, Milton Osborne được trao tặng Huân chương nước Úc vì những đóng góp và cống hiến của ông trong lĩnh vực nghiên cứu lịch sử.

Book trailer

Bi cảm cái đẹp và cái chết trong tiểu thuyết Người đẹp ngủ mê của văn hào Kawabata Yasunari

Published

on

Người đẹp ngủ mê – tiểu thuyết kinh điển của cố nhà văn Nhật Bản Kawabata Yasunari vừa được Phương Nam Book tái bản phát hành – khắc họa thái độ phản tỉnh của một người thực hành thiền định để đi đến giác ngộ về dục tính của chính mình và ý nghĩa của nhân sinh.

Người đẹp ngủ mê được Kawabata Yasunari viết và xuất bản vào năm 1961 khi ông 62 tuổi. Tác phẩm này dựa trên một kịch bản sân khấu kabuki với nhan đề Những mỹ nữ của Eguchi, công diễn khoảng thế kỷ 17 ở Nhật Bản.

Ông lão Eguchi 67 tuổi và nỗi lòng cô đơn trống trải

Tác phẩm kể về những lần ghé thăm của ông lão Eguchi, 67 tuổi, đến ngôi nhà đặc biệt với những trinh nữ xinh đẹp, tuổi chưa đến hai mươi, được gây mê bằng thuốc ngủ liều cao, hoàn toàn khỏa thân trong tình trạng ngủ say. “Nếu chỉ cần lay nhẹ mà cô gái đã thức dậy thì ngôi nhà này đâu còn gì bí ẩn nữa. Các vị khách đến đây ‘giống như ngủ với một ông Bụt vô hình’. Đối với các ông già, ngủ với một người đẹp không khi nào tỉnh thức là một mối cám dỗ, một cuộc phiêu lưu, một niềm vui thú mà họ tin mình còn thực hiện được.”

Mỗi chương truyện là những lần ông lão Eguchi ghé thăm ngôi nhà đặc biệt này. Mỗi lần, ông lại ngủ với những cô gái khác nhau. Màn đêm tối buông xuống, hơi thở êm dịu của những cô gái, gió thỉnh thoảng thổi qua mái nhà, tiếng sóng biển ầm ầm đập vào vách đá, Eguchi có những hồi tưởng, những hoài niệm khắc khoải khác nhau về những người đàn bà đã đi qua đời ông. Một ẩn dụ rõ ràng về sự tiếc nuối những văn hóa, những vẻ đẹp xưa kia ở Nhật Bản chỉ có thể gợi nhớ lại qua những khung cảnh, những hình ảnh tương tự, gần giống như thế.

Việc ngủ cạnh những cô gái trong ngôi nhà đặc biệt đã khiến tâm tưởng ông lão Eguchi tìm ra những cung bậc cảm xúc hết sức khác thường trong khi vẫn tôn trọng quy định của ngôi nhà. “Nàng ngủ, nàng không nói, nàng chẳng thấy khuôn mặt ông, chẳng nghe giọng nói ông... Và số phận ông nàng cũng chẳng mảy may biết đến”. Hơn hết, nhân vật chính cô đơn trong chính tâm thức của mình. “Một nỗi cô đơn buồn bã trào lên. Nhưng hơn cả nỗi cô đơn hay nỗi buồn rầu, chính là nỗi cô chiếc tuyệt vọng của tuổi già như thể đông lạnh hẳn trong ông”.

Điểm cốt lõi của tiểu thuyết Người đẹp ngủ mê bắt nguồn từ nhân vật chính tự chiêm nghiệm về chính con người thực sự của mình. Ở hành trình đó, tác giả Kawabata Yasunari đã tạo ra các cuộc gặp gỡ, sự quan sát của ông lão Eguchi về vẻ đẹp thể xác của các cô gái. Tác phẩm không chỉ đơn thuần tràn ngập những mỹ từ như “bàn tay mịn và đẹp, mái tóc trinh trắng, đôi má ửng đỏ, cổ và vai trông tươi và trẻ…”, mà là sự suy tưởng về quy luật của thời gian, sự sống và cái chết, nỗi hoài niệm quá khứ, khao khát tương lai, lãng quên cuộc sống hiện tại. Phải chăng, hình ảnh của một đời sống xã hội đầy tổn thương khiến con người ta dễ rơi vào tâm trạng cô đơn, nỗi tiếc nhớ xót xa những tháng ngày chưa sống mà đã qua đi.

Bi cảm cái đẹp và cái chết

Càng về sau, tác giả Kawabata Yasunari đi sâu vào bản thể và ký ức xa xăm nhất của nhân vật chính, Eguchi tìm lại được những cảm xúc tinh thần thuần túy. Ông lão tin rằng, ở trong ngôi nhà đặc biệt này, chắc có những lão già không những buồn rầu nhìn lại thời trai trẻ nay đã xa xưa mà còn tìm cách lãng quên những điều xấu xa, những việc độc ác đã làm dọc theo chiều dài cuộc đời họ. Nhìn từ khía cạnh này, Eguchi nhiều lần xuất hiện cảm giác rằng những người đẹp ngủ mê phải chăng là sự hiện thân của một vị Bụt nào đó, trong các truyền thuyết xưa cũ.

Cũng trong tác phẩm này, Kawabata nhận định: “Trên thế gian không có gì cao quý bằng con người. Trong loài người không có gì vinh dự bằng thân thể trong trắng của người nữ. Tuy nhiên, để chiếm đoạt, sở hữu nó người ta phải phá hủy sự trinh khiết đó”Người đẹp ngủ mê chính là thứ cảm giác không thể nhầm lẫn mách bảo ta rằng Kawabata đã khéo léo sử dụng vẻ đẹp của ngôn từ cần thiết cho tác phẩm. Đỉnh điểm, ông đã khắc họa thành công cái đẹp của tấm thân trần – nó dường như trở thành biểu tượng cao quý của tính nữ vĩnh hằng, dù có được sở hữu trong tay thì vẫn muôn đời là bí mật.

Tác phẩm Người đẹp ngủ mê đã giúp cho tác giả Kawabata Yasunari trở thành tiểu thuyết gia người Nhật đầu tiên và người châu Á thứ ba đoạt giải Nobel Văn học năm 1968 với lời ca ngợi của Viện Hàn Lâm Thụy Điển rằng: “Ông là người tôn vinh cái đẹp hư ảo và hình ảnh u uất của hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và trong định mệnh con người”.

Một điểm đặc biệt, ở chương cuối, ông lão Eguchi trong cơn mộng mị nửa tỉnh nửa mê đã gợi nhớ về hình ảnh người mẹ của mình. Người đàn bà đầu tiên: “Mẹ”. Ý nghĩ này bất ngờ xẹt qua đầu ông như tia chớp. “Không phải mẹ thì ai vào đấy nữa”. Ý thức và lý trí ông đã tê liệt, và hình như nước mắt ứa ra từ khóe mắt già nua. Ông chỉ còn nhớ được đã mò mẫm tìm vú mẹ rồi lăn ra ngủ những ngày thơ ấu. Cũng giống như ông lão Eguchi nhớ về mẹ, đứa con dù lớn vẫn là con của mẹ. Có lẽ, cảm thức cô đơn trong chính tác phẩm văn chương của Kawabata thường phản ánh từ chính cuộc sống thời thơ ấu mồ côi từ năm 2 tuổi và cái tuổi trẻ thấm đẫm nước mắt của chính tác giả.

Sau tất cả, tiểu thuyết Người đẹp ngủ mê đem lại những cảm xúc thẩm mỹ độc đáo, đồng thời để lại nhiều khoảng trống, nhiều băn khoăn để độc giả tự khám phá bằng trình độ thưởng thức của mình. Người đẹp ngủ mê chứa đựng nhiều đối cực: tuổi già – tuổi trẻ, cái đẹp – cái chết, tội lỗi – trong sạch, tha hoá – nguyên sơ… Vì vậy, Kawabata Yasunari dẫn dắt độc giả qua tầng tầng lớp lớp ngữ nghĩa vận động không ngừng, tạo nên sự khác biệt trong cảm nhận khi đọc tác phẩm.

Nếu một vài độc giả cảm thức tác phẩm thanh hay tục đều xuất phát từ hình tượng nghệ thuật phức tạp, ngôn từ đa nghĩa. Đôi khi, độc giả sẽ có những cảm xúc kinh hãi vì những suy nghĩ xấu xa của ông già Eguchi. Hay bạn sẽ thương xót cho vẻ đẹp của thân xác những người đẹp ngủ mê đang bị làm ô uế… Song dù sao, người đọc cần một trí tuệ sáng suốt, thấy đúng, thấy rõ những sai lầm của nhân vật chính để từ đấy lĩnh hội được các giá trị đích thực chân – thiện – mỹ của tác phẩm.

Trích đoạn

“Ngay vào thời điểm này trong năm, hai hay ba hoa mẫu đơn mùa đông nở dưới mặt trời ấm áp bên chân hàng rào cao bằng đá của một tu viện cổ ở Yamato. Những đóa trà hoa trắng nở trong vườn gần mái hiên ngôi nhà Shisendo. Vào mùa xuân, ra đời những chùm hoa đậu tía, những đóa đỗ quyên trắng ở thành phố Nara và ở Đền Trà Hoa ở Kyoto, những cánh hoa trà rụng đầy vườn.”

“Cô gái ngủ mê man như chết nhưng thời gian sinh tồn của nàng đâu có ngưng chảy, vậy nàng có giữ được thời gian đó không hay là nó chảy tuột vào một vực sâu không đáy? Nàng không phải là một búp bê sống, vì không thể có búp bê sống trên thế gian này; nàng được biến thành một đồ chơi sống, để các cụ già đã mất năng lực đàn ông không bị cảm thấy xấu hổ. Không, không phải một đồ chơi: đối với các cụ, nàng chính là cuộc sống. Một cuộc sống người ta có thể sờ mó được, một cách tự tin”.

“Dù say ngủ, nàng vẫn sống, nói cách khác, ý thức nàng bị vùi sâu trong giấc ngủ đậm đặc nhưng thân xác nàng vẫn sinh động trong nữ tính của mình.”

Về tác giả

Chân dung văn hào Nhật Bản Kawabata Yasunari năm 1969

Kawabata Yasunari (1899–1972) sinh ra ở Osaka, mồ côi năm lên 2 tuổi. Từ đó, ông và chị sống lần lượt cùng ông bà ngoại và gia đình người dì. Kawabata Yasunari là tiểu thuyết gia người Nhật đầu tiên và người châu Á thứ ba đoạt giải Nobel Văn học (năm 1968).

Những sáng tác văn chương, những tiểu luận mỹ học và phê bình văn học của Kawabata Yasunari, qua thời gian vẫn luôn đem lại hấp lực mạnh mẽ đối với nhiều nhà phương Đông học trên khắp các châu lục, có sức lôi cuốn rộng rãi độc giả trên thế giới, phản ánh nhiều phương diện của văn hóa Nhật cũng như những rung cảm đầy đam mê mà tinh tế của tâm hồn Nhật.

Đọc bài viết

Giới thiệu sách

Lớn lên trên đảo vắng – Cuộc phiêu lưu kịch tính của gia đình Robinson

Published

on

Lớn lên trên đảo vắng

Trên đường sang châu Mỹ lập nghiệp, gia đình Robinson không may bị đắm tàu và trôi dạt vào một hoang đảo. Tại đây, họ đã phải bắt đầu một cuộc sống mới đầy gian khó, khi phải tự làm nhà, săn bắn, trồng trọt, thuần hóa thú hoang… Mỗi ngày với họ đều là một chuyến phiêu lưu kỳ thú nhưng cũng không kém phần nguy hiểm. Với sự ưu đãi của thiên nhiên và tinh thần kiên cường vượt qua nghịch cảnh, gia đình Robinson không chỉ sống sót mà sau nhiều năm lưu lạc trên đảo vắng, họ còn xây dựng được cho mình một cơ ngơi đáng kể.

Dưới ngòi bút miêu tả chân thực của tác giả Johann David Wyss, Lớn lên trên đảo vắng không chỉ bày ra trước mắt độc giả vẻ đẹp của một thế giới tự nhiên hoang sơ, trù phú mà còn là lời ca ngợi những đức tính tuyệt vời của con người. Đó là tinh thần phiêu lưu dũng cảm, sự thông minh tài trí, tính cần cù chăm chỉ và lòng tốt, sự quan tâm giữa các thành viên trong gia đình với nhau. Nhờ vậy mà đây đã trở thành một trong những tác phẩm được yêu thích nhất của trẻ em trên toàn thế giới, còn nhiều lần được dựng thành phim cũng như chuyển thể thành truyện tranh và trò chơi điện tử.

Johann David Wyss (28/5/1743 - 11/1/1818) sinh ra ở Bern, Thụy Sĩ. Ông vốn là mục sư nhưng sau này đã trở thành một tác giả nổi tiếng. Được truyền cảm hứng từ tác phẩm Robinson Crusoe của Daniel Defoe, nhưng Wyss muốn viết một câu chuyện chứa đựng những bài học thú vị, bổ ích về cuộc sống thiên nhiên hoang dã dành riêng cho trẻ em, nên đã cho ra đời tiểu thuyết Lớn lên trên đảo vắng. Tác phẩm được xuất bản lần đầu tiên bằng tiếng Đức năm 1812, và sau đó hai năm, đã được dịch sang tiếng Anh, rồi lần lượt là nhiều thứ tiếng khác.

Đọc bài viết

Giới thiệu sách

Năm tuần trên khinh khí cầu – Chuyến du lịch độc đáo xuyên qua châu Phi hoang dã

Published

on

Năm tuần trên khinh khí cầu

Năm tuần trên khinh khí cầu kể câu chuyện về ba người Anh với tham vọng băng qua châu Phi, từ Đông sang Tây, trên một chiếc khinh khí cầu. Tiến sĩ Samuel Fergusson, nhà khoa học thông tuệ, là trưởng đoàn, đồng hành cùng ông có người hầu cận trung thành Joe và anh bạn thợ săn thiện xạ Dick Kennedy. Bộ ba dấn thân vào biết bao cuộc phiêu lưu hấp dẫn và không kém phần kỳ lạ: chạm trán với người bản địa và những loài động vật nguy hiểm, gặp sự cố với khinh khí cầu, đồng thời phải vật lộn với những bất lợi về thời tiết. 

Xuyên suốt cuốn sách Năm tuần trên khinh khí cầu, tác giả Jules Verne đã mô tả một cách sinh động những đặc điểm về hệ thực vật, động vật, địa lý và con người châu Phi qua con mắt của thế kỷ XIX. Được xuất bản lần đầu vào năm 1863, Năm tuần trên khinh khí cầu là sự kết hợp tuyệt vời của các yếu tố như nhân vật thông minh, sáng tạo, những kiến thức khoa học và công nghệ đi trước thời đại, đặc biệt là cốt truyện đầy hấp dẫn hé lộ viễn cảnh về một thế giới chưa được biết tới, tất cả đã làm nên chất phiêu lưu đặc trưng và tạo tiền đề cho những tác phẩm sau này của Jules Verne.

Tác phẩm văn học Năm tuần trên khinh khí cầu. Ảnh: Đinh Tị Books

Ngày 31/1/1863, Năm tuần trên khinh khí cầu chính thức ra mắt và ngay lập tức nổi tiếng khắp nước Pháp và sau đó là toàn thế giới. Mọi người đều hết sức kinh ngạc khi độc giả có cảm giác được trải nghiệm thực tế những điều trong sách. Một độc giả còn gửi thư tới nhà xuất bản để hỏi: “Tôi rất mong nhận được một câu trả lời từ ngài, Tiến sĩ Samuel Fergusson thật sự có thể ngồi trên khinh khí cầu để bay xuyên qua châu Phi ư…”

Năm tuần trên khinh khí cầu do Đinh Tị Books phát hành. Bản dịch đầy đủ từ dịch giả Ngụy Thanh Tuyên giúp truyền tải trọn vẹn tinh thần của bản gốc. Bởi, dịch giả Ngụy Thanh Tuyên đã có kinh nghiệm chuyển ngữ thành công rất nhiều tác phẩm cả kinh điển, trong số đó có thể kể đến Hai vạn dặm dưới đáy biển 80 ngày vòng quanh thế giới.

Trích đoạn

“Samuel thân mến ạ!” Người thợ săn nói. “Dự án gì đó của anh thật điên rồ! Nó không khả thi! Nó chẳng có vẻ gì là nghiêm túc hay thực tế hết!”

“Tại sao lại không?”

“Chà, vì rủi ro, vì trở ngại đủ kiểu.”

“Về chuyện trở ngại,” Fergusson nghiêm giọng nói. “Trở ngại tồn tại là để ta vượt qua. Còn rủi ro và nguy hiểm ư? Ai dám tự vỗ ngực tuyên bố ta đây chẳng bao giờ gặp nguy? Chúng ta chỉ nên thấy hiện tại qua tương lai mà thôi, vì tương lai chẳng qua chỉ là hiện tại xa hơn một chút.”

Đọc bài viết

Cafe sáng