Book trailer

Con đường thủy vào Trung Hoa: Thước phim sống động về dòng Mê Kông quyến rũ

Published

on

Con đường thủy vào Trung Hoa của sử gia Milton Osborne – tác phẩm vừa được Phương Nam Book phát hành – là một bản tường thuật được nghiên cứu kỹ lưỡng từ chuyến đi của đoàn thám hiểm sông Mê Kông vào thế kỷ 19. 

Khi đặt mình vào vai trò độc giả, Milton Osborne cảm thấy các tài liệu đồ sộ của đoàn thám hiểm gồm sáu người Pháp khởi hành từ Sài Gòn lên thượng nguồn, khảo sát về dòng sông Mê Kông rất khó đọc “không chỉ vì ngôn ngữ mà còn ở cách viết, cách đặt vấn đề chưa được rõ ràng”. 

Chính vì thế, ông đã lược dẫn lại nhiều thông tin báo cáo, cộng thêm việc tự nghiên cứu, du khảo trong khoảng thời gian gần 10 năm. Từ đó, quyển sách Con đường thủy vào Trung Hoa đã ra đời nhằm giúp độc giả hiểu rõ mối quan tâm từ sớm của người Pháp về dòng sông Mê Kông với tham vọng tìm ra tuyến đường thủy nối liền Nam Kỳ và miền Nam Trung Hoa. Đồng thời, tác phẩm còn tái hiện một lát cắt sinh động về đời sống Đông Dương trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. 

Dòng Mê Kông vĩ đại – một ẩn số quyến rũ người phương Tây

Ở giai đoạn đầu lịch sử, những họa sư đã sử dụng bản đồ của người Bồ Đào Nha để ghi tên con sông bằng tiếng Thái: “Mecon, hay Mecom”, đôi khi là “Mekong”. Nếu dịch thoáng qua đầy lãng mạn thì nó mang hàm ý “mẹ của các dòng nước”. Thế nhưng, người dân Campuchia gọi nó là “Tonle Thom”, người Việt gọi nó là “sông Lớn”. Cả hai tên gọi đều mang ý nghĩa –  “Dòng sông vĩ đại”.

Mê Kông thực sự là một con sông vĩ đại. Dòng chảy của nó kéo dài khoảng 4350km với xuất phát từ cao nguyên Tibet (Tây Tạng), đi qua Trung Quốc, Lào, Campuchia, Việt Nam rồi đổ ra biển Đông. Giữa thế kỷ 19, dòng Mê Kông phân chia thành nhiều phân nhánh nhỏ, là tuyến đường thủy quan trọng trong việc đi lại và buôn bán của người dân xứ Đông Dương. Tuy vậy, sông Mê Kông vẫn là một ẩn số chưa tìm được lời giải. Từ xa xưa, ý tưởng con đường thủy vào Trung Hoa đã được các đế quốc Pháp, Anh, Bồ Đào Nha… bàn luận với mục đích tìm kiếm điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu thương mại trên dòng Mê Kông.

Năm 1837, Đại úy McLeod một sĩ quan quân đội Anh tại Myanmar đã thám hiểm sông Salween đế đến biên giới Trung Hoa. Tuy nhiên, chính quyền Trung Quốc không cho phép đoàn thám hiểm đi qua lãnh thổ nước này, nên sứ mệnh của McLeod đã kết thúc sớm… Những năm 1860, giới thương nhân Pháp lẫn Anh luôn nghĩ rằng, hàng triệu người Trung Hoa đang chờ đợi cơ hội được mua hàng hóa nhập khẩu từ châu Âu. Nguồn tài nguyên trên mảnh đất màu mỡ này sẽ được các nhà công nghiệp nước ngoài khai thác. Sau năm 1863, một người Pháp ở Sài Gòn đã ghi lại trong tư liệu rằng: “Cuộc thám hiểm dòng sông Mê Kông nằm trong đầu tất cả mọi người. Nhưng vấn đề trước mắt là làm sao để biến ý tưởng này thành hiện thực”. 

Trong nỗ lực khai mở bí mật của dòng sông, sáu công dân Pháp đã lao vào một cuộc thám hiểm với niềm tin rằng tuyến đường thủy mà họ phát hiện sẽ dẫn vào lộ giới Trung Hoa, giúp việc buôn bán hàng hóa phát triển, gia tăng thêm sự giàu có từ đất nước đông dân này. Sau nhiều tháng ròng rã trôi qua, dù phải đối mặt với những cơn sốt rét, bệnh kiết lỵ, những nhà thám hiểm vẫn chậm chạp tiến bước. Tuy vậy, còn rất nhiều thử thách đang chờ họ phía trước trong hành trình truy tìm tuyến đường thủy thực tế dẫn vào Trung Hoa. 

Công trình khảo cứu đồ sộ về dòng Mê Kông trong bối cảnh văn hóa Đông Dương

Một cuộc phiêu lưu đầy mạo hiểm đã bắt đầu với 6 thành viên chính và 16 nhân sự phụ giúp: Doudart de Lagrée (trưởng đoàn), La Grandière (phó đoàn), Clovis Thorel (bác sĩ trong đoàn), Lucien Joubert (bác sĩ trong đoàn), Louis Delaporte (họa sĩ), Louis de Carné (thành viên nhỏ tuổi nhất trong đoàn)… Tất cả đều lên đường với sự hiếu kỳ cùng niềm tin rằng họ sẽ có lòng dũng cảm để đón nhận những tai họa trải dài suốt hành trình. 

Con đường thủy vào Trung Hoa mô phỏng lại toàn cảnh lưu vực sông Mê Kông cùng vùng nội địa Đông Dương và Nam Trung Hoa của hơn 150 năm về trước. Không gian và đời sống văn hóa của cộng đồng dân cư trong lưu vực sông Mê Kông đã được ghi chép lại sống động. Từ đây, độc giả sẽ có cái nhìn bao quát về dòng Mê Kông qua những sinh hoạt của từng cụm dân cư, và cách họ duy trì tập quán tổ chức các lễ hội dân gian, phong tục, tín ngưỡng đến văn hóa sinh hoạt, trang phục, ứng xử. Trong đó, có một số phong tục văn hóa bản địa được tác giả ghi chép kỹ lưỡng như: lễ hội đua ghe ngo, lễ hội té nước, lễ hội mùa ở Lào và Campuchia; khu chợ vải bản xứ ở Myanmar (Miến Điện); tập tục bó chân ở Trung Hoa… Ngoài ra, tác phẩm còn đề cập chi tiết buổi yến tiệc cùng vua Norodom tại cung điện hoàng gia Campuchia mà đoàn thám hiểm được tham dự, hay một đêm nghe nhạc xứ Lào, hay nghi lễ trong một ngôi nhà thuộc thị trấn ven sông Nong Khay… 

Ngoài việc chắt lọc thông tin từ những báo cáo chính của La Grandière, tác giả Milton Osborne còn kết hợp với nền tảng kiến thức sẵn có, tham khảo, đối chiếu từ nhiều nguồn khác nhau nhằm mang đến cho độc giả cái nhìn rõ nét về những nguy hiểm, những mâu thuẫn, những chán nản… của đoàn thám hiểm khi khảo sát dòng sông Mê Kông. 

Milton Osborne dẫn lược lại ghi chép của La Grandière rằng: “Tình trạng sức khỏe của đoàn tồi tệ. Những chặng cuối, chúng ta phải băng qua những cánh rừng, đồng ruộng, bị ướt đẫm bởi các cơn mưa đầu mùa. Điều đó khiến chúng tôi bị sốt rét, lở loét bàn chân khiến phân nửa đoàn nhiều ngày không thể nhấc mình khỏi chỗ nằm.” 

Khi đoàn vượt qua những rắc rối về giấy thông hành, thời tiết, dịch bệnh… thì họ đến được cửa ngõ Tư Mao (một quận nội thành thuộc địa cấp thị Phổ Nhĩ, tỉnh Vân Nam ngày nay). Vừa vào Trung Quốc, các nhà thám hiểm liền nhận ra, họ gây sự tò mò cho những ai chưa từng thấy người da trắng, “lũ trẻ con quan sát và bắt chước dáng đi của quân nhân và những cử chỉ lạ lùng của các nhà thám hiểm”. 

Dù có nhiều vất vả, khó khăn trong suốt chặng đường dài; thậm chí, đôi khi phải đối mặt với những thất bại cay đắng, các nhà thám hiểm vẫn kiên trì chịu đựng và nhanh chóng phục hồi. Quả ngọt cuối cùng mà họ nhận được là những phát hiện lịch sử mang tính khoa học về dòng sông vĩ đại mang tên Mê Kông. 

Con đường thủy vào Trung Hoa là một công trình khảo cứu đồ sộ, tóm lược toàn bộ thành quả mà phù sa sông Mê Kông kiến tạo trong suốt nhiều thế kỷ. Tác giả Milton Osborne đã trả lời các câu hỏi lịch sử thông qua việc nghiên cứu những văn bản báo cáo của Léon Garnier, với những hình ảnh minh họa in kèm. Ngoài ra, phần trích dẫn cuối sách còn bổ sung thêm một số tư liệu về cuộc thám hiểm dòng sông Mê Kông có liên hệ đến Việt Nam, nhằm giúp bạn đọc thuận tiện trong việc tra cứu. 

Tác phẩm Con đường thủy vào Trung Hoa của sử gia Milton Osborne giúp người đọc phần nào hình dung rõ hơn bức tranh toàn cảnh có tính đối sánh giữa các xứ Đông Dương trong tiến trình thuộc địa hóa đầy ảo vọng của người Pháp. Có thể nói, đây là một bản tường thuật được nghiên cứu kỹ lưỡng về chuyến đi vĩ đại của đoàn thám hiểm người Pháp với tham vọng tìm ra tuyến đường thủy nối liền Nam Kỳ và miền Nam Trung Hoa.

Trích đoạn

“Sau nhiều năm tranh luận, đoàn thám hiểm sông Mê Kông của Pháp rời Sài Gòn ngày 5/6/1866. Để trang trải trên đường, đoàn có các thỏi vàng, tiền đô la Mexico, tiền xu Thái, tổng giá trị tới 25.000 franc. Lương thực được đóng trong 150 thùng với hơn 500 kg khẩu phần dự trữ, bánh quy, bánh mì sấy, 300 kg bột mì, 700 lít rượu vang và 300 lít rượu brandy. Ngoài ra, 15 thùng hàng để trao đổi dọc đường đi và 1 thùng dụng cụ khoa học.”

***

“Giữ vai trò trung tâm của mọi cuộc tranh luận, sau khi tất cả các yếu tố khác đã được xem xét, Mê Kông vẫn là một con sông vĩ đại, lớn thứ mười hai trên thế giới về chiều dài, lớn thứ sáu về lượng nước đổ ra biển. Nó vẫn cầm giữ những bí ẩn.”

***

“Người ta tổ chức cuộc đua ghe ngo để đánh dấu việc kết thúc mùa mưa và mực nước sông hạ nhanh. Các con thuyền độc mộc cỡ lớn, dài tới 30 mét, có đến sáu mươi tay chèo. Họ cùng đua trước sự chứng kiến của những người đứng đầu địa phương và toàn thể cư dân.”

Nhận xét của báo chí thế giới

Con đường thủy dẫn Trung Hoa một bản tường thuật hấp dẫn được nghiên cứu kỹ lưỡng, khắc họa cuộc phiêu lưu được ca ngợi là một trong những chuyến thám hiểm vĩ đại nhất thế kỷ 19.”

Washington Post

“Milton Osborne đã hoàn tất một công việc nghiên cứu tuyệt vời.”

Spectator

“Ngoài những chi tiết thú vị, cuốn sách còn có đầy đủ những sự kiện quá khứ cần thiết của một tác phẩm lịch sử: Tầm quan trọng, sự thú vị và tính chân thật.”

Sử gia Robin W. Winks,
Đại học Yale

Về tác giả

Milton Osborne là sử gia nổi tiếng, chuyên nghiên cứu về khu vực Đông Nam Á. Sau khi tốt nghiệp Đại học Sydney (Úc), ông làm việc cho Đại sứ quán Úc tại Phnom Penh (Campuchia) trong khoảng thời gian từ năm 1959 1961. Từ những kinh nghiệm trong công việc, ông tiếp tục lấy bằng Tiến sĩ Lịch sử Đông Nam Á tại Đại học Cornell (New York, Mỹ).

Sau khi đảm nhiệm nhiều chức vị hàn lâm tại Úc, Anh và Hoa Kỳ, Tiến sĩ Osborne trở thành Giám đốc Viện Nghiên cứu Anh quốc ở Đông Nam Á tại Singapore. Năm 1980 1981, ông tham gia cố vấn cho Liên Hợp Quốc về vấn đề người tỵ nạn Campuchia. Trong năm 1982, ông quay về Úc làm Giám đốc Chi nhánh châu Á của Văn phòng Thẩm định Quốc gia.

Tiến sĩ Osborne là tác giả của nhiều cuốn sách lịch sử về đề tài châu Á, kể từ 1993, ông là tác giả toàn thời gian kiêm người cố vấn về khu vực này.

Năm 2021, Milton Osborne được trao tặng Huân chương nước Úc vì những đóng góp và cống hiến của ông trong lĩnh vực nghiên cứu lịch sử.

Book trailer

Niên lịch miền gió cát bàn cách sống hòa hợp thiên nhiên

Published

on

Sách Niên lịch miền gió cát là ghi chép của Aldo Leopold - nhà sinh thái học hoang dã - về các con người tôn trọng thiên nhiên.

Aldo Leopold là nhà địa chất học, nhà môi trường học. Năm 1935, gia đình ông mua một trang trại cũ gần sông Wisconsin (Mỹ), trồng cây và cứu sống cánh đồng đã chết. Ông ghi nhận những thay đổi của sinh, thực vật trong quá trình phục hồi. Các bản thảo sau đó được tập hợp thành quyển Niên lịch miền gió cátxuất bản tháng 4/1948, một tuần sau khi tác giả mất do đau tim.

Niên lịch miền gió cát do Dương Mạnh Hùng chuyển ngữ. Sách Phương Nam phát hành. Ảnh: Phương Nam Book.

Sách gồm ba phần. Phần một là quan sát sinh vật thay đổi theo từng tháng tại trang trại ở Wisconsin. Phần hai là ghi chép hành trình khám phá đời sống hoang dã của ông trong 40 năm. Phần cuối là nhận định về việc bảo tồn thiên nhiên. Thông qua thể văn xuôi đậm chất hóm hỉnh kết hợp yếu tố lịch sử, khoa học, Leopold truyền tải ý nghĩa về mối liên hệ giữa con người với môi trường, hy vọng độc giả yêu, tôn trọng thiên nhiên.

Ông đề ra đạo đức môi trường tự nhiên (land ethic): "Một hành động là đúng đắn là khi hướng tới bảo tồn tính toàn vẹn, ổn định của cộng đồng sinh vật". Leopold viết: "Con người sẽ có ý thức bảo tồn khi tiếp xúc, hiểu, cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên". Khi sống gần các sinh, thực vật, mỗi người sẽ hình thành đạo đức - cơ chế tự kiểm duyệt trước khi hành động tổn hại môi trường. Con người cần khám phá, kết nối với tự nhiên để có lòng yêu thương, quan tâm thế giới tạo hóa ban tặng.

Theo Buddy Huffaker, chủ tịch của Aldo Leopold Foundation (tổ chức nâng cao ý thức bảo vệ môi trường dựa trên lý luận của Leopold): "Nhờ lập luận về đạo đức môi trường tự nhiên nên Niên lịch miền gió cát được săn đón vào năm 1970 - lần đầu tiên tổ chức Ngày Trái đất. Các ghi chép về đạo đức của tác giả được áp dụng rộng rãi và vô tình trở thành chuẩn mực ứng xử với thiên nhiên". The Boston Globe nhận định sách là "một trong những tác phẩm có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào môi trường".

Aldo Leopold là nhà khoa học, nhà địa chất học, nhà triết học, nhà môi trường học người Mỹ. Ảnh: aldoleopold.

Aldo Leopold (1887-1948) trải qua thời thơ ấu tại Burlington, gần dòng sông Mississippi - nơi dấu chân của ông trải khắp các khu rừng, đồng cỏ. Leopold học lâm nghiệp tại trường dạy về rừng của Yale. Sau khi tốt nghiêp năm 1909, ông làm việc tại Cục Kiểm lâm Mỹ, đồng thời nghiên cứu sinh thái học, đề ra đạo đức môi trường tự nhiên. Năm 1933, tập sách về quản lý động vật hoang dã Game Management được xuất bản. Năm 1982, vợ và năm người con thành lập The Aldo Leopold Foundation nhằm nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường hoang dã dựa trên di sản trí tuệ tác giả để lại.

Theo VNexpress

Đọc bài viết

Book trailer

Người đẹp ngủ mê – tiểu thuyết kinh điển về nỗi buồn

Published

on

Người đẹp ngủ mê của nhà văn Nhật Kawabata Yasunari khắc họa nỗi buồn qua những suy nghĩ về sự sống và hoài niệm.

Người đẹp ngủ mê do dịch giả Quế Sơn chuyển ngữ, tái bản trong nước cuối tháng 11. Tác phẩm xuất bản lần đầu năm 1961, dựa trên kịch bản sân khấu kabuki Những mỹ nữ, công diễn vào khoảng thế kỷ 17 ở Nhật Bản.

Bìa sách Người đẹp ngủ mê. Tác phẩm dày 160 trang, tái bản trong nước cuối tháng 11. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa sách Người đẹp ngủ mê. Tác phẩm dày 160 trang, tái bản trong nước. Ảnh: Phương Nam Book

Tác phẩm xoay quanh năm lần ông lão Eguchi ghé thăm ngôi nhà của những trinh nữ xinh đẹp tuổi chưa đầy 20. Họ bị gây mê bằng thuốc ngủ liều cao, khỏa thân trong tình trạng ngủ say. "Nếu chỉ cần lay nhẹ mà cô gái đã thức dậy thì ngôi nhà này đâu còn gì bí ẩn nữa. Các vị khách đến đây 'giống như ngủ với một ông Bụt vô hình'. Đối với các ông già, ngủ với một người đẹp không khi nào tỉnh thức là một mối cám dỗ, một cuộc phiêu lưu, một niềm vui thú mà họ tin mình còn thực hiện được", tác giả viết.

Mỗi chương là một lần Eguchi đến ngôi nhà ngủ cùng cô gái khác nhau. Khi màn đêm buông xuống, nhiều tiếng động kết hợp tạo nên bản nhạc của thiên nhiên, con người. Hơi thở của những cô gái, cộng với tiếng gió thổi qua mái nhà và âm thanh sóng biển đập vào vách đá. Từ đó, Eguchi hồi tưởng quá khứ, nhớ về những người đàn bà đi qua đời ông.

Tác giả lấy những hoài niệm để ẩn dụ cho sự tiếc nuối vẻ đẹp văn hóa Nhật Bản. Kỷ niệm tái hiện qua không gian, hình ảnh thiên nhiên xung quanh ngôi nhà của các mỹ nữ. Việc ngủ cạnh những cô gái khiến Eguchi khám phá nhiều cung bậc cảm xúc, đồng thời nhận ra sự cô đơn của mình. "Một nỗi cô đơn buồn bã trào lên. Nhưng hơn cả nỗi cô đơn hay nỗi buồn rầu, chính là nỗi cô chiếc tuyệt vọng của tuổi già như thể đông lạnh hẳn trong ông", Kawabata viết.

Tác phẩm không chỉ tràn ngập những mỹ từ, như "bàn tay mịn và đẹp, mái tóc trinh trắng, đôi má ửng đỏ, cổ và vai trông tươi và trẻ", mà còn suy tưởng về quy luật của thời gian, sự sống và cái chết, nỗi hoài niệm quá khứ, khao khát tương lai. Đời sống xã hội mang nhiều tổn thương, khiến con người dễ rơi vào tâm trạng cô đơn, tiếc nhớ những tháng ngày quá khứ.

Bìa trong của tác phẩm Người đẹp ngủ mê năm 2023. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa trong của tác phẩm Người đẹp ngủ mê năm 2023. Ảnh: Phương Nam Book

Càng về cuối, Kawabata càng đào sâu ký ức của nhân vật chính, nhằm giúp Eguchi tìm lại được cảm xúc thuần túy nhất. Eguchi tin những lão già như mình, khi có dịp trú ngụ tại ngôi nhà của các mỹ nữ, không chỉ nhìn lại thời trai trẻ mà cố quên đi những việc tiêu cực xảy ra trong cuộc đời. Từ khía cạnh này, Eguchi liên tưởng những người đẹp ngủ mê là hiện thân của thần tiên trong các truyền thuyết.

"Cô gái ngủ mê man như chết nhưng thời gian sinh tồn của nàng đâu có ngưng chảy, vậy nàng có giữ được thời gian đó không hay là nó chảy tuột vào một vực sâu không đáy? Nàng không phải là một búp bê sống, vì không thể có búp bê sống trên thế gian này; nàng được biến thành một đồ chơi sống, để các cụ già đã mất năng lực đàn ông không bị cảm thấy xấu hổ. Không, không phải một đồ chơi: đối với các cụ, nàng chính là cuộc sống. Một cuộc sống người ta có thể sờ mó được, một cách tự tin", Kawabata nhận định.

Trong một số tác phẩm, Kawabata thường lồng ghép quan điểm của mình để gợi nhớ cuộc sống mồ côi và những khó khăn thời trẻ tuổi trẻ. Đồng thời, nhà văn để lại nhiều khoảng trống để độc giả tự khám phá. Bằng sự khéo léo biến hóa ngôn từ, Kawabata dẫn dắt người đọc qua nhiều tình huống, tạo nên cảm nhận khác nhau khi đọc tác phẩm.

Tác phẩm được giới chuyên môn và nhiều độc giả đánh giá cao. Năm 1968, Người đẹp ngủ mê giúp Kawabata Yasunari trở thành tiểu thuyết gia người Nhật đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học. Đại diện Viện Hàn lâm Thụy Điển nhận xét: "Tác giả tôn vinh cái đẹp hư ảo, đồng thời khắc họa nỗi buồn hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và định mệnh con người".

Trên trang đánh giá sách Goodreads, độc giả Jim Fonseca viết: "Những dòng văn mở đầu câu chuyện góp phần che đậy nỗi khao khát và ký ức tình yêu trong quá khứ của nhân vật. Tác phẩm có chút kinh dị nhưng hấp dẫn, khắc sâu vào tâm trí tôi".

Nhà văn Kawabata Yasunari. Ảnh: Estate of Yousuf Karsh
Nhà văn Kawabata Yasunari. Ảnh: Estate of Yousuf Karsh

Kawabata Yasunari (1899-1972) sinh ra ở Osaka, mồ côi năm lên hai tuổi. Từ đó, ông và người chị ruột sống cùng ông bà ngoại và gia đình người dì. Qua thời gian, những sáng tác văn chương, tiểu luận mỹ học và phê bình văn học của Kawabata vẫn luôn hấp dẫn nhiều nhà nghiên cứu văn học khắp thế giới, do phản ánh nhiều phương diện văn hóa và đề cao tinh thần người Nhật. Nhiều tác phẩm của Kawabata từng xuất bản trong nước, gồm: Đẹp và buồnHồTiếng núiXứ tuyếtBồ công anh.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Book trailer

Quán thiền trong Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Đường xưa mây trắng là tác phẩm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Cuốn sách kể về cuộc đời Đức Phật, mà ai đọc vào cũng cảm nhận được điều hay lẽ phải. Giáo lý nhà Phật được tác giả phân tích dễ hiểu, dễ nắm bắt.

Thầy Thích Nhất Hạnh (tên khai sinh Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm 1926, tại Huế). Ông là Thiền sư nổi tiếng người Việt Nam. Ông hiện là nhà sư có ảnh hưởng lớn đến Phật giáo trên toàn thế giới. Không những là nhà tu hành, Thích Nhất Hạnh còn hiện diện là một nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu. Đến nay, ông đã viết được hơn 100 cuốn sách.

Hầu như tác phẩm nào của ông cũng gây được sự chú ý không chỉ ở những người theo Phật giáo, mà ở nhiều độc giả, ở mọi lứa tuổi, ngành nghề, tôn giáo khác. Tác phẩm Đường xưa mây trắng của Thầy Thích Nhất Hạnh có thể được coi như là một cuốn tiểu thuyết về cuộc đời Đức Phật, mà trong sách, tác giả gọi là Bụt. Bụt là phiên âm từ âm Buddha trong tiếng Phạn.

Quán thiền trong Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Tác phẩm Đường xưa mây trắng - Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Cuộc đời Đức Phật được kể qua con mắt của chú bé chăn trâu Svasti, sau xuất gia, trở thành một vị đệ tử của Phật. Svasti từng cúng dường cỏ bồ đề cho cho Đức Phật suốt 49 ngày trước khi thành đạo. Đây có thể là góc nhìn khác lạ của tác giả so với nhiều người kể về Đức Phật.

Qua đôi mắt đứa trẻ, mọi sự vật, sự việc sẽ được kể chân thật, hồn nhiên, không có gì phải giấu diếm. Đức Phật hiện diện lên trước hết, không phải là một thần linh, mà là một con người giản dị, có cuộc sống và mơ ước như bao người. Mơ ước của Đức Phật là làm lợi cho muôn loài.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Tác phẩm Đường xưa mây trắng được chia làm 81 chương, trong mỗi chương là những cảnh xưa, người xưa được hiện diện lên sống động. Giáo lý nhà Phật được nói dễ hiểu, gọn gàng. Những tập tục của người xuất gia xưa, hay cách quán thiền cũng được tác giả lồng ghép vào khéo léo.

Câu chuyện diễn ra tự nhiên, không có một gượng ép nào. Tác giả cho thấy sức tưởng tượng thiên tài của mình, người đọc có thể tưởng rằng, tác giả phải là người sống bên cạnh Đức Phật mới có thể viết tỉ mỉ, lý thú như vậy, nếu như không đọc tên người viết.

Tâm sự về cuốn sách này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng viết: “Tôi còn nhớ là tôi đã viết Đường xưa mây trắng ở trong cái quán của Xóm Thượng. Hồi đó chưa có lò sưởi trung ương, trong phòng chỉ có một cái lò sưởi đốt củi thôi và trời rất lạnh. Tay phải tôi viết còn tay trái thì đưa ra hơ trên lò sưởi. Tôi đã viết những chương của Đường xưa mây trắng với rất nhiều hạnh phúc.

Thỉnh thoảng tôi đứng dậy pha trà để uống. Mỗi ngày viết mấy giờ cũng như được ngồi uống trà với đức Thế Tôn. Và tôi biết trước người đọc sẽ rất có hạnh phúc vì khi viết mình cũng đang có rất nhiều hạnh phúc. Viết Đường Xưa Mây Trắng không phải là một lao động mệt nhọc mà là cả một niềm vui lớn. Đó là một quá trình khám phá. Có những đoạn tôi cho là khó viết, như đoạn Bụt độ cho ba anh em ông Ca Diếp.

Tài liệu thường nói là Bụt độ ba anh em đó nhờ thần thông của Ngài, nhưng khi viết thì tôi đã không để cho Bụt dùng thần thông mà cứ để Bụt sử dụng từ bi và trí tuệ của Ngài để độ ba ông ấy. Bụt có rất nhiều trí tuệ, rất nhiều từ bi, tại sao Bụt không dùng mà lại phải dùng thần thông? Và tôi có một niềm tin rất vững chắc là mình sẽ viết được chương đó. Chương này là một trong những chương khó nhất của Đường Xưa Mây Trắng nhưng cuối cùng tôi đã thành công. Chương khó thứ hai là chương nói về cuộc trở về của Bụt để thăm gia đình. Ngài đã thành Phật rồi, Ngài đã thành bậc toàn giác rồi, nhưng về thăm gia đình thì Ngài vẫn còn là một đứa con của cha, của mẹ, vẫn là một người anh của các em.

Viết như thế nào để Bụt vẫn còn giữ lại được tính người của Ngài. Cũng nhờ niềm tin đó mà tôi thành công. Quý vị đọc lại, sẽ thấy Bụt về thăm nhà rất tự nhiên. Cách Ngài nắm tay vua cha đi từ ngoài vào, cách Ngài đối xử với em gái, cách Ngài đối xử với Yasodhara và Rahula, rất tự nhiên. Tôi có cảm tưởng là có chư Tổ gia hộ nên tôi mới viết như vậy được. Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh”.

Một trích dẫn hay trong tác phẩm Đường xưa mây trắng - Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Đường xưa mây trắng được biết đến là cuốn sách đã bán được nhiều triệu bản, được dịch ra hơn 20 tiếng trên thế giới. Sau khi đọc được cuốn sách này, nhà tỉ phú Ấn Độ Bhupendra Kuman Modi đã quyết định tài trợ 120 triệu USD để các nhà làm sản xuất dựa theo Đường Xưa Mây Trắng dựng thành phim.

Qua cuốn sách Đường xưa mây trắng, thầy Thích Nhất Hạnh đã vẽ lại phần nào khung cảnh xưa: “Trong bóng me im mát vị khất sĩ Svastika đang thực tập phép quán niệm hơi thở. Chú ngồi trong tư thế hoa sen. Từ hơn một tiếng đồng hồ, chú đã ngồi thực tập như thế một cách chăm chú. Đó đây trong tu viện Trúc Lâm, hàng trăm vị khất sĩ cũng đang ngồi thực tập thiền quán, hoặc trong bóng tre, hoặc tron những chiếc am lá nhỏ đựng rải rác khắp nơi trong tu viện, xen lẫn giữa những bụi tre xanh tươi và khỏe mạnh”.

Đọc cuốn sách này, chúng ta học được nhiều điều hay của Đức Phật, đó là cách nói chuyện, cách hành động, cách lý giải cuộc sống. Và đặc biệt, là cách quán thiền, cách tĩnh tâm trước những biến động của đời người.

Theo báo Pháp luật

Đọc bài viết

Cafe sáng