Trích đăng

Chương 1 “Tà dương” – Dazai Osamu

Published

on

Tà dương không chỉ là cuộc suy tàn của một gia đình quý tộc mà còn là cơn tan vỡ của một thời đại đầy ảo tưởng và một xã hội đầy nạn nhân. Đó là những ngày tháng phong ba và ám tối vào giữa thế kỷ hai mươi ở Nhật. Trong cái gia đình quý tộc đang dần dà trở nên khốn cùng ấy, mỗi người bám vào một thứ lương tri tự nguyện. Người mẹ sống nốt những ngày cuối cùng của cuộc chiến như một người quý tộc cuối cùng, hiền dịu, nhẹ nhàng, mang theo mình cái đẹp bi thiết của tà dương. Người con trai Naoji tan nát tâm hồn, không thể chịu đựng một sự giả dối nào, mang chủ nghĩa hư vô đi vào cái chết. Và cô con gái kỳ diệu Kazuko. Nàng không muốn làm nạn nhân của một lý tưởng nào, một luân thường nào. Không cần hôn nhân, nàng quyết định có con. Tự do, nàng cưu mang sự sống, đối mặt với những tan nát phũ phàng. Dẫu biết là bất định, nàng vẫn sống như nàng muốn. Cho ngày mới.

Trích từ: Tà dương

Tác giả: Dazai Osamu

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

*

CHƯƠNG 1
RẮN

Buổi sáng, trong phòng ăn, mẹ lặng lẽ húp một thìa súp và thốt ra tiếng kêu khe khẽ:

– Ah!

– Là tóc sao? – Tôi nghĩ trong bát canh súp có thứ gì ghê ghê lẫn vào chăng.

– Không phải.

Mẹ lại đưa một thìa súp lên miệng nuốt vào, làm như chẳng có chuyện gì xảy ra, rồi mẹ nghiêng mặt về phía cửa sổ nhà bếp, nhìn ra những cành hoa anh đào núi đang độ mãn khai. Cứ nghiêng mặt như thế, mẹ lại đưa một thìa súp lên miệng, cho vào khoảng hẹp giữa hai môi nhẹ nhàng trút xuống. Cái tính từ “nhẹ nhàng” dùng trong trường hợp của mẹ hoàn toàn không mang tính khoa trương một chút nào. Cách ăn uống đó quả thật hoàn toàn khác biệt với cách ăn uống thường thấy trên những tạp chí phụ nữ. Naoji, em trai tôi, có lần vừa uống rượu vừa nói với tôi như thế này:

– Không phải cứ có tước vị là trở thành quý tộc cả đâu. Có những người dù không có tước vị gì cũng là một quý tộc cao sang như thể trời ban cho một thiên tước vậy. Như chị em mình đây, cho dù có tước vị thì cũng chẳng ra vẻ quý tộc gì cả, mà gần với thứ tiện dân hơn. Như Iwashima ấy (tên một bá tước1 học chung lớp với Naoji), chị có cảm thấy hắn đối xử với chị còn tệ bạc hơn kẻ ma cô dắt gái ở chốn lầu xanh không? Hay Yanai (tên một tử tước chung trường với Naoji) trong đám cưới anh trai lại mặc bộ vét tông đen. Thì cứ cho là cần phải mặc bộ vét đen đi nhưng em thật muốn nôn mửa khi nghe cái giọng khoa trương kệch cỡm như đọc diễn văn của gã ngu đó. Cái sự kiểu cách chẳng liên quan một chút gì đến sự cao sang quý phái cả. Mặc dù cái bảng hiệu “nhà nghỉ cao cấp” thường thấy ở quận Hongo này nhưng hầu hết những đám quý tộc trong đó đều là một lũ “ăn mày cao cấp” cả. Quý tộc thực sự ấy nhé, hoàn toàn không phải là những thứ kiểu cách theo kiểu thằng Iwashima đâu. Ngay cả trong gia đình mình đây, chỉ có mẹ mới là quý tộc thật sự.

Có gì đó cao sang nơi bà mà chúng tôi không thể nào sánh nổi.

Như trong cách ăn súp chẳng hạn. Chúng tôi hay nghiêng nhẹ đĩa rồi dùng muỗng múc súp đưa ngang lên miệng. Nhưng mẹ tôi thì dùng các ngón của bàn tay trái tì nhẹ lên mép bàn, thẳng người, ngẩng mặt lên, đưa muỗng múc súp mà hầu như không nhìn vào đĩa. Rồi bà nhẹ nhàng và khinh khoái đưa đầu muỗng súp vào giữa hai môi theo một góc vuông khiến ta có thể hình dung tư thế ấy như một con chim én vậy. Rồi vừa như vô tình nhìn xung quanh, bà vừa nhẹ nhàng đưa muỗng súp lên xuống như vẫy đôi cánh nhỏ, không bao giờ để rơi một giọt súp cũng không bao giờ phát ra tiếng động nào cả khi chạm vào đĩa lẫn khi đưa lên miệng. Có lẽ đó không phải là kiểu cách ăn uống được quy định chính thức lễ nghi, nhưng trong mắt tôi nó lại vô cùng khả ái, và tôi cho đó mới chính là cái cốt cách của quý tộc chân chính. Hơn thế nữa, sự thực là cách uống súp theo kiểu thẳng người lên, đưa đầu muỗng súp vào miệng thì ngon hơn rất nhiều so với cách cúi đầu xuống và húp súp từ muỗng theo chiều ngang. Tuy nhiên, tôi cũng chỉ là thứ hành khất quý tộc đúng như Naoji nói nên chẳng thể nào sử dụng muỗng một cách khinh khoái và thuần khiết như mẹ tôi được. Thành ra chẳng còn cách nào hơn, tôi đành cúi đầu xuống và húp súp một cách buồn bã theo kiểu “lễ thức chính quy”.

Không chỉ có món súp, cách ăn uống của mẹ tôi hầu hết đều đi lệch ra ngoài khuôn khổ. Chẳng hạn như khi ăn bít tết, bà nhanh chóng dùng dao và nĩa cắt thịt ra từng miếng nhỏ rồi bỏ dao đi, chuyển cái nĩa sang tay phải rồi cứ thế xiên từng miếng một khoan khoái đưa lên thưởng thức.

Hơn thế, mỗi khi ăn một miếng thịt gà có xương, trong khi chúng tôi khổ sở tách xương ra cố không gây tiếng động nào nơi đĩa thì mẹ tôi lại nhẹ nhàng dùng đầu ngón tay cầm chỗ xương ấy đưa lên miệng rồi tách phần thịt và xương. Cái hành động thô lậu ấy khi mẹ tôi trình diễn lại vô cùng dễ thương, thậm chí còn có đôi chút gợi tình nữa. Đúng là quý tộc tinh hoa có khác. Không chỉ xương gà mà trong bữa trưa, khi ăn những món như đùi lợn muối hay xúc xích mẹ tôi cũng hay dùng tay cầm lên để ăn.

– Các con có biết tại sao món cơm nắm ngon như vậy không? Vì nó được nắm chặt bằng bàn tay người đấy.

Có lần mẹ nói như thế.

Thực ra cũng có lúc tôi nghĩ ăn bằng tay như thế chắc ngon lắm, nhưng lũ khất thực cao cấp như chúng tôi nếu bắt chước một cách tệ hại thì chẳng phải đã trở thành một kẻ ăn mày thực sự hay sao, nên tôi đành gắng chịu đựng vậy.

Ngay cả thằng em tôi Naoji cũng đã nói mẹ chúng ta là số một, còn tôi sau nhiều lần chật vật bắt chước bà thì cảm thấy vô cùng tuyệt vọng.

Có một lần, vào đêm trăng sáng đầu thu, trong vườn sau nhà, tôi và mẹ ngồi dưới bóng cây bên bờ ao ngắm trăng, vừa nói chuyện trời sao mây gió vừa cười đùa. Chợt mẹ tôi đứng dậy đi sâu vào bụi hoa hagi kế bên rồi từ giữa đám hoa màu trắng ấy, mẹ ló gương mặt trắng ngần đẹp hơn cả hoa cười ra hỏi tôi rằng:

– Kazuko à, con xem mẹ đang làm gì này?

– Hái hoa chứ gì?

– Không, mẹ đi tiểu đấy.

Mẹ tôi cất giọng cười tươi trả lời.

Quả thật nơi mẹ tôi có một vẻ gì cao quý vô cùng mà tôi không tài nào bắt chước được.

Bắt đầu từ câu chuyện món súp sáng nay mà lan man đến như vậy thì có lẽ đi hơi quá xa, nhưng vì gần đây tôi có đọc một quyển sách nói rằng những quý phu nhân vương triều Louis thường bình thản tiểu tiện ở những góc hành lang hay trong các khu vườn ở cung điện. Sự ngây thơ đáng yêu ấy mới thật dễ thương làm sao và tôi nghĩ rằng không chừng người như mẹ tôi là một phu nhân quý tộc chân chính cuối cùng còn lại?

Trở lại chuyện sáng nay, khi húp một thìa súp, mẹ tôi kêu lên khe khẽ. Và khi tôi hỏi rằng có phải tóc không thì mẹ đáp rằng không.

– Có lẽ vì quá mặn chăng?

Món súp sáng nay được tôi chế biến từ đậu bina đóng hộp do Mỹ cấp và ngay từ đầu tôi đã không tự tin chút nào nên dù mẹ nói không tôi cũng lo lắng hỏi như vậy.

– Con nấu ăn ngon lắm.

Mẹ tôi nói nghiêm túc như vậy và sau khi dùng hết chén súp mẹ còn ăn thêm một vắt cơm nắm cuộn rong biển.

Từ nhỏ, phải sau 10 giờ sáng tôi mới ăn điểm tâm thấy ngon miệng vì không cảm thấy đói. Lúc đó tôi chỉ húp qua loa chén súp cho xong chuyện, rồi đặt vắt cơm nắm lên đĩa dùng đũa dẽ vụn ra, sau đó lấy đũa gắp từng miếng y như khi mẹ tôi dùng muỗng húp súp vậy. Tôi đưa đũa vuông góc với miệng như thể đang đút mồi cho một con chim sẻ nhỏ và ăn một cách lề mề chậm chạp. Trong khi đó mẹ tôi đã dùng xong bữa sáng, lặng lẽ đứng dậy, dựa lưng vào bức tường đang hứng ánh sáng buổi mai, nhìn cách tôi ăn và nói:

– Kazuko à, vẫn chưa được đâu con. Phải tập làm sao để có thể ăn sáng một cách ngon lành nhất mới được.

– Còn mẹ thì sao? Có thấy ngon không ạ?

– Đương nhiên rồi, mẹ đâu còn là bệnh nhân nữa.

– Vậy thì Kazuko cũng chẳng phải bệnh nhân đâu.

– Không được, không được – Mẹ vừa lắc đầu vừa cười với vẻ cô đơn vô hạn.

Năm năm trước, tôi từng bị bệnh phổi và phải nằm miệt mài trên giường nhưng tôi biết đó chỉ là thứ bệnh ích kỷ của tôi mà thôi. Tuy nhiên điều làm tôi lo lắng lại chính là chứng bệnh u sầu của mẹ dạo gần đây. Vậy mà mẹ lại chỉ toàn lo lắng cho tôi.

– Ah! – Tôi nói.

– Gì vậy con? – Lần này đến mẹ lên tiếng.

Hai mẹ con nhìn nhau và tôi có cảm giác dường như chúng tôi thấu hiểu tâm tư nhau nên tôi cười khúc khích còn mẹ thì khẽ mỉm cười.

Những lúc cảm thấy ngượng ngùng với điều gì đó, tự nhiên tôi thường khe khẽ thốt ra tiếng “ah” kỳ diệu ấy. Bây giờ đột nhiên nhớ đến chuyện ly hôn sáu năm về trước, buồn bã nên tôi bất chợt thốt ra tiếng kêu “ah” như thế, nhưng còn mẹ thì sao? Không lẽ mẹ cũng giống như tôi đang nhớ về kỷ niệm đau lòng nào? Không phải. Vậy thì có chuyện gì đây?

– Mẹ à, lúc nãy hình như mẹ vừa nhớ ra chuyện gì phải không? Chuyện gì vậy mẹ?

– Mẹ quên rồi.

– Chuyện của con hả?

– Không phải.

– Vậy thì chuyện của Naoji?

– Ừ – Mẹ nghiêng nghiêng đầu nói – Hình như là vậy.

Thằng em tôi khi đang học đại học thì bị triệu tập nhập ngũ đến vùng đảo phía Nam, từ đó bặt vô âm tín. Chiến tranh kết thúc nhưng vẫn không rõ tung tích, mẹ nói đã chuẩn bị tinh thần là không thể gặp lại nó rồi nhưng tôi biết mẹ chưa một lần chấp nhận suy nghĩ đó mà lúc nào cũng nuôi hy vọng sẽ gặp lại Naoji.

– Mẹ định từ bỏ hy vọng về Naoji rồi nhưng ăn canh súp con nấu ngon quá làm mẹ nhớ em không chịu nổi. Phải chi mẹ làm được nhiều điều cho em nó hơn.

Thằng Naoji từ khi vào trường trung học, đã chọn ngành văn chương và bắt đầu cuộc sống ăn chơi quậy phá như một thiếu niên hư hỏng, không hiểu rằng mình đã gây cho mẹ bao nỗi buồn phiền khổ sở. Vậy mà mẹ tôi ngay cả khi ăn súp vẫn nghĩ đến Naoji. Tôi nuốt cơm và cảm thấy nóng máu.

– Không sao đâu mẹ. Naoji không sao đâu. Thằng hư hỏng như Naoji dễ gì mà chết. Người chết thường là những người hiền lành, dịu dàng và đẹp đẽ thôi. Chứ còn thằng Naoji ấy có lấy cây đập nó cũng không chịu chết cho đâu.

Mẹ mỉm cười trêu tôi:

– Vậy thì người chết sớm sẽ là Kazuko rồi.

– Sao vậy được chứ? Con là chị của thằng du côn đó mà, nên đến tám mươi tuổi vẫn còn khỏe đấy.

– Vậy sao? Vậy thì chắc đến chín mươi tuổi mẹ vẫn còn minh mẫn nhỉ?

– Đúng đấy – Tôi nói và bất chợt cảm thấy ngại ngùng. Kẻ ác thì thường sống lâu, người đẹp lại thường yểu mệnh. Mẹ tôi rất đẹp, nhưng tôi lại muốn bà được sống lâu. Tôi cảm thấy mình thật khó hiểu.

– Mình thật tệ – Tôi nói, đôi môi run lên và nước mắt khẽ ứa tràn.

Có lẽ giờ nên chuyển sang chuyện những con rắn. Một buổi chiều của chừng bốn năm ngày trước, bọn trẻ trong làng tìm thấy khoảng mười cái trứng rắn ở góc hàng rào tre trong vườn.

– Đây là trứng rắn độc mamushi đó. – Bọn trẻ khăng khăng.

Tôi nghĩ nếu trứng nở ra chừng mười con rắn thì mình làm sao còn có thể đi dạo quanh quẩn trong vườn được nữa nên mới bảo bọn trẻ:

– Mình hãy đốt nó đi!

Bọn nhỏ vui mừng nhảy cẫng lên và chạy theo tôi. Chúng tôi thu gom lá cây, cành khô ở gần hàng rào lại, châm lửa và ném từng cái trứng vào trong đám cháy. Những cái trứng mãi vẫn không chịu cháy. Bọn trẻ chất thêm củi, lá khô làm cho lửa bùng mạnh hơn nhưng mấy cái trứng vẫn không hề hấn gì.

Cô bé nhà làm nông ở cuối làng đứng bên ngoài hàng rào vừa cười vừa hỏi:

– Chị đang làm gì đấy ạ?

– Bọn chị đang đốt trứng rắn độc mamushi. Nếu để nó nở thành con thì ghê lắm.

– Trứng đó to cỡ nào chị?

– To cỡ như trứng cút và màu trắng.

– Vậy thì đó chỉ là trứng rắn bình thường chứ không phải là trứng rắn độc mamushi đâu. Trứng sống thì làm sao đốt cháy được!

Cô bé cười tinh quái rồi bỏ đi.

Đốt mãi chừng ba phút nhưng mấy cái trứng vẫn không cháy, bọn trẻ mới khều ra và đem chôn dưới gốc cây mơ. Tôi gom mấy viên sỏi và đắp thành mộ bia cho chúng.

– Nào các em, mình cùng khấn vái nhé!

Khi tôi ngồi xổm xuống và chắp hai tay vái thì bọn trẻ phía sau tôi dường như cũng ngoan ngoãn chắp tay theo.

Sau đó tôi và bọn trẻ chia tay nhau. Tôi chậm rãi bước lên thềm đá và thấy mẹ đang đứng đó, dưới bóng của tàn cây cát đằng.

– Con vừa làm một việc thật tội lỗi đó. – Mẹ tôi nói.

– Vì con tưởng đó là rắn độc nhưng hóa ra chỉ là rắn bình thường. Nhưng con đã chôn cất chúng tử tế, nên chắc không sao đâu.

Mặc dù nói vậy nhưng tôi nghĩ chuyện như thế mà để mẹ nhìn thấy thì thật không hay chút nào.

Đương nhiên mẹ không phải là người mê tín nhưng mười năm trước, sau khi cha tôi qua đời tại tư gia ở thành phố Nishikata mẹ trở nên rất sợ rắn. Ngay trước khi cha mất, mẹ nhìn thấy có sợi dây đen đen dài dài bên gối nằm của cha, mẹ định nhặt lên thì mới hay ra đó là con rắn. Nó trườn đi, ra tới hành lang rồi mất hút. Chứng kiến cảnh tượng ấy chỉ có mẹ và chú Wada, hai người nhìn nhau nhưng vì không muốn làm kinh động đến phút ra đi của cha nên đều im lặng. Lúc đó, tôi cũng có mặt tại phòng khách nhưng không hề hay biết gì.

Nhưng chính tôi đã chứng kiến cảnh rắn bò lóp ngóp trên bờ ao, trên ngọn cây ở ngoài vườn vào buổi tối ngay ngày cha tôi qua đời. Bây giờ tôi là bà cô hai mươi chín tuổi nhưng khi cha mất vào mười năm trước, tôi cũng đã mười chín tuổi rồi. Không còn là trẻ con nữa nên cho dù mười năm đã trôi qua ký ức đó vẫn còn rõ ràng, không hề sai trật. Khi đi cắt hoa cúng, tôi bước dọc về phía bờ ao, đến bên cây đỗ quyên, ngước mắt nhìn thì thấy trên đầu cành cây có một con rắn nhỏ đang quấn mình. Khi định ngắt cành hoa cúc yamabuki tiếp theo cũng thấy trên cành hoa có rắn, tôi hơi ngạc nhiên. Trên cành cây ô liu, rồi cây phong, cây hoa đậu, dây cát đằng, cây hoa anh đào kế bên cũng có…, nói chung nơi nào có cây là nơi đó thấy rắn. Tuy nhiên tôi lại không thấy sợ hãi lắm. Tôi chỉ cảm thấy rắn cũng giống như tôi, buồn thương về sự ra đi của cha, nên chúng mới rời hang bò ra ngoài vái lạy vong linh của cha tôi. Khi tôi lặng lẽ báo cho mẹ biết về chuyện có rắn trong vườn, mẹ nghiêng đầu như đang suy nghĩ điều gì đấy nhưng không nói ra.

Nhưng sự thật là sau lần thứ hai thấy rắn đó, mẹ tôi đâm ra vô cùng ghét rắn. Có lẽ hơn cả ghét nữa mà là kính rắn, sợ rắn, như một cảm giác kinh sợ nên kính nhi viễn chi vậy.

Tôi nghĩ việc đốt trứng rắn mẹ nhìn thấy khi nãy chắc chắn đã khiến mẹ có cảm giác đó là việc vô cùng bất thường, còn tôi cũng thấy rất sợ vì mình đã đốt trứng rắn và cứ lo lắng không biết đó có phải là lời nguyền ác nghiệt nào lên mẹ hay không? Đến ngày hôm sau, hôm sau nữa tôi vẫn không thể quên nhưng sáng nay nơi nhà ăn, tôi đã lỡ miệng nói xằng bậy thiếu suy nghĩ rằng người đẹp sẽ chết, không thể nào rút lại lời nói được nữa, tôi chỉ đành khóc; vừa dọn dẹp bữa sáng tôi vừa cảm thấy sâu thẳm trong ngực mình, có cái gì đó như một con rắn đang trườn vào âm mưu rút ngắn sinh mệnh của mẹ, một cảm giác bức bối không tài nào chịu nổi.

Rồi ngày hôm đó, tôi lại nhìn thấy rắn trong vườn. Đó là một ngày đẹp trời và vô cùng yên tĩnh nên sau khi làm xong việc ở nhà bếp, tôi mang một chiếc ghế mây ra bãi cỏ sau vườn để ngồi đan len. Nhưng khi vừa đặt chiếc ghế xuống bãi cỏ, tôi nhìn thấy ở bụi cây chỗ tảng đá nơi góc vườn có một con rắn. “Á, thật là đáng ghét!” Lúc đó tôi chỉ nghĩ vậy thôi chớ không suy nghĩ gì sâu xa hơn rồi mang ghế đặt ngay chỗ lối đi, ngồi xuống và đan len. Cho đến chiều, tôi muốn xem tập tranh của Marie Laurencin2 ở trong thư viện nhà tôi, vốn là một cái chòi nơi góc vườn nên đã cất bước và lại thấy trên bãi cỏ một con rắn đang chậm chạp trườn đi. Nó giống y như con rắn ban sáng. Một con rắn dài thanh mảnh quý phái. Tôi nghĩ nó là rắn cái. Nàng ta từ từ băng qua bãi cỏ, đến dưới bụi hoa hồng thì ngừng lại ngẩng đầu lên, thè lưỡi đung đưa như ngọn lửa. Làm ra vẻ nhìn ngắm xung quanh một hồi lâu, nàng gục đầu, rũ xuống đất một cách uể oải. Lúc đó, tôi chỉ nghĩ đây là một con rắn thật đẹp rồi đi đến thư viện góc vườn lấy tập tranh. Khi quay trở lại, tôi thử tìm con rắn lúc nãy nhưng nàng không còn ở đó nữa.

Đến gần chiều, tôi cùng mẹ uống trà trong căn phòng bài trí kiểu Trung Hoa, nhìn ra vườn tôi lại thấy nàng rắn ban sáng đang nằm trên bậc thang đá thứ ba. Mẹ cũng nhận ra.

– Con rắn kia là…?

Mẹ đi đến chỗ tôi, nắm tay tôi và cứ đứng yên như thế. Nghe mẹ hỏi, tôi chợt nghĩ ra và nói:

– Con rắn mẹ của những cái trứng đó đúng không?

– Đúng, đúng đấy con à – Mẹ thì thầm.

Chúng tôi nắm chặt tay nhau, nghẹt thở, im lặng quan sát con rắn. Nó ngóc đầu uể oải rồi bắt đầu trườn đi như thể đang run rẩy, băng ngang qua bậc thang đá về phía bụi hoa diên vĩ.

– Nó cứ đi vòng quanh vườn từ sáng nay đấy mẹ ạ – Tôi khe khẽ nói.

Mẹ thở dài rồi ngồi xuống ghế:

– Vậy sao? Nó đi tìm trứng đấy mà. Thật tội nghiệp – Mẹ trầm giọng.

Tôi chỉ đành cười trừ trong căng thẳng.

Ánh chiều soi sáng gương mặt mẹ, mắt mẹ sáng lấp lánh gần như một màu xanh, gương mặt dường như mang một chút gì giận dữ đẹp vô cùng, khiến người khác phải động lòng. Tôi chợt nghĩ gương mặt mẹ và con rắn đẹp đẽ khi nãy có một cái gì đó giống nhau. Tôi cũng không hiểu tại sao lại có cảm giác con rắn xấu xí như con rắn độc mamushi đang uốn éo trong ngực tôi như muốn ăn tươi nuốt sống con rắn mẹ đẹp đẽ vô chừng và buồn rầu sang trọng đó.

Tôi đặt tay lên bờ vai mềm mại và mảnh mai của mẹ, cảm nhận được một nỗi muộn phiền không rõ lý do.

Chúng tôi đã rời bỏ căn nhà nơi khu phố Nishikata, Tokyo để chuyển về một sơn trang xây theo kiểu Trung Hoa ở Izu này từ tháng mười hai năm Nhật Bản phải đầu hàng vô điều kiện. Sau khi cha tôi mất, việc kinh tế của gia đình đều do một tay chú Wada, em trai và là người thân duy nhất của mẹ lo liệu. Nhưng thế cuộc đổi thay từ khi chiến tranh kết thúc, chú Wada cũng chẳng còn cách nào khác là phải bán nhà, giải tán hết người làm rồi bàn với mẹ tôi rằng cách tốt nhất bây giờ là mua một căn nhà nhỏ đâu đó ở miền quê để sống qua những tháng ngày yên ổn. Mà mẹ tôi thì chuyện tiền nong còn kém hiểu biết hơn cả một đứa trẻ con, khi nghe chú Wada nói thế chỉ gật đầu mà rằng “vậy chú làm sao được thì làm” rồi thôi.

Vào cuối tháng mười một, chú tôi gửi điện báo nói rằng “ngôi biệt thự của tử tước Kawada trên tuyến đường sắt Sunzu3đang rao bán, ngôi nhà nằm trên nền cao bằng phẳng, tầm nhìn khoáng đạt và có vườn rộng chừng một trăm tsubo4; vùng này cũng nổi tiếng là một chốn để ngắm hoa mơ, mùa đông ấm áp, mùa hè mát mẻ, em nghĩ chị sống nơi đó sẽ rất thích hợp nhưng vì cần phải gặp và nói chuyện trực tiếp với chủ biệt thự nên nếu được ngày mai chị có thể ghé văn phòng em ở khu Ginza một chút”.

– Vậy mẹ có đi không? – Tôi hỏi.

– Đi chứ, vì chú ấy đã yêu cầu như vậy còn gì – Mẹ nói với một nụ cười cô đơn vô hạn.

Ngày hôm sau, mẹ nhờ chú Matsuyama, người tài xế cũ, đưa đi từ quá trưa đến khoảng 8 giờ tối mới cùng chú Matsuyama trở về nhà.

Mẹ vào phòng của tôi, chống tay lên bàn, ngồi xuống với vẻ rã rời và buông một câu.

– Mẹ quyết định rồi.

– Quyết định cái gì vậy mẹ?

– Tất cả.

– Nhưng mà…

Tôi kinh ngạc:  

– Nhà cửa như thế nào mẹ còn chưa xem qua mà.

Mẹ tựa khuỷu tay lên bàn, sờ trán và khẽ thở dài:

– Bởi vì chú Wada nói đó là một nơi rất tốt. Mẹ cảm thấy chúng ta cứ nhắm mắt mà dọn đến ngôi nhà đó thì cũng đượcchứ sao.

Mẹ ngẩng mặt lên cười yếu ớt. Gương mặt ấy hơi tiều tụy nhưng đẹp vô cùng.

– Đúng vậy.  

Tôi gật đầu biết mình đã thua niềm tin đẹp đẽ của mẹ đối với chú Wada và cũng tán đồng.

– Vậy thì con cũng nhắm mắt mà dọn đi.

Hai mẹ con cùng cất tiếng cười nhưng sau đó là một nỗi rầu buồn vô hạn.

Sau đó, mỗi ngày đều có phu khuân vác đến thu xếp hành lý và chuyển đi. Chú Wada cũng đã đến giúp cắt đặt mọi việc. Tôi cùng cô hầu Okimi bận rộn với bao nhiêu việc, nào là sắp xếp quần áo, rồi mang những thứ linh tinh ra vườn đốt, vậy mà mẹ không phụ giúp gì dù chỉ là đụng đến một ngón tay, cứ suốt ngày chôn mình trong phòng thờ thẫn.

– Sao vậy ạ? Mẹ lại không muốn chuyển đến Izu nữa à? – Tôi lấy can đảm hỏi mẹ.

– Không phải vậy đâu – Mẹ mơ màng đáp.

Mười ngày sau, chuyện thu dọn hành lý cũng hoàn tất. Buổi tối khi tôi cùng Okimi đốt giấy vụn và rơm khô ngoài vườn, mẹ cũng từ trong phòng bước ra, đứng ở lối đi và lặng lẽ nhìn những tàn lửa cháy. Cơn gió tây lạnh lẽo như màu tro xám thổi qua, làn khói bay là đà sát mặt đất, tôi vô tình ngước lên nhìn gương mặt của mẹ, thấy thần sắc vô cùng nhợt nhạt, nét mặt này tôi chưa nhìn thấy bao giờ.

– Mẹ à, sắc mặt mẹ xanh xao quá!

Khi tôi hoảng hốt la lên như vậy thì mẹ cười nhẹ đáp lời:

– Không có gì đâu con.

Rồi lặng lẽ quay về phòng.

Tối hôm đó, vì chăn chiếu đã đóng hành lý nên Okimi ngủ ở trường kỷ trên tầng hai, còn tôi và mẹ nghỉ trong phòng của mẹ, hai người nằm chung trên một tấm futon mượn của nhà kế bên.

Khi tôi vừa định chúc mẹ ngon giấc thì bất ngờ mẹ nói với giọng run run yếu ớt:

– Vì có Kazuko nên mẹ mới đến Izu. Chính vì có Kazuko đi cùng mẹ đấy.

Tôi giật mình hỏi lại:

– Nếu không có Kazuko thì sao?

Đột nhiên mẹ bật khóc.

– Mẹ thà chết đi còn hơn. Mẹ muốn chết trong ngôi nhà mà cha con đã qua đời.

Mẹ nghẹn ngào và khóc thổn thức.

Từ trước đến giờ chưa lần nào mẹ tỏ ra yếu đuối trước mặt tôi, cũng chưa khi nào để tôi nhìn thấy mẹ khóc đau khổ như vậy. Cho dù là lúc cha tôi mất, lúc tôi đi lấy chồng, lúc tôi bụng mang dạ chửa quay về nhà, rồi đứa bé bị chết non trong bệnh viện, hay lúc tôi bệnh nằm liệt giường, rồi ngay cả khi Naoji quậy phá nữa, mẹ cũng tuyệt đối không cho ai thấy thái độ yếu ớt như thế.

Mười năm kể từ ngày cha tôi mất, mẹ không thay đổi một chút nào, vẫn lạc quan và hiền dịu. Chúng tôi cứ thế tha hồ làm nũng với mẹ. Tuy nhiên, giờ thì mẹ đã hết sạch tiền. Vì tôi và Naoji, mẹ trang trải tiêu pha hết chẳng tiếc nuối một chút gì. Và giờ đây mẹ phải rời ngôi nhà thân thương này để dọn đến một sơn trang nhỏ ở Izu, cùng tôi bắt đầu cuộc sống mới, lủi thủi chỉ có hai người.

Phải chi mẹ là người hẹp lòng, la mắng chúng tôi, lặng lẽ tiết kiệm một chút cho riêng mình thì dù cuộc thế đổi thay thế nào cũng không đến mức cùng quẫn chỉ muốn chết như thế này. Mà cái chuyện không có tiền đúng là một địa ngục đáng sợ và thê thảm vô vọng nhất mà tôi lần đầu tiên từ lúc sinh ra đến giờ mới nhận thấy. Ngực tôi nghẹn thắt lại, muốn khóc nhưng không thể nào khóc được. Không biết cái cảm giác lúc này có phải thứ mà nhân gian thường hay nói là “sự nghiêm túc của cuộc đời” hay không? Tôi cứ ngửa mặt nhìn lên trần nhà, cảm thấy người mình như một tảng đá, không tài nào nhúc nhích nổi.

Ngày hôm sau, quả thật sắc mặt mẹ rất xanh xám, có vẻ dùng dằng muốn ở lại căn nhà này lâu hơn chút nữa, không muốn rời đi. Chú Wada nhìn thấy được điều này nên nói rằng hành lý đã gửi đi hết rồi, hôm nay phải khởi hành đi Izu. Lúc này, mẹ mới miễn cưỡng mặc áo khoác, khẽ cúi chào cô hầu Okimi cùng những người làm khác cũng đang nói lời tạm biệt, rồi cùng chú và tôi ba người rời khỏi căn nhà ở Nishikata.

Chuyến xe lửa khá vắng vẻ nên cả ba chúng tôi đều tìm được chỗ ngồi. Trong xe, chú tôi cao hứng ngâm nga vài đoạn kịch No còn mẹ thì sắc diện rất xấu, ủ rũ gục đầu và như co ro vì lạnh. Đến Mishima, chúng tôi đổi qua chuyến tàu đi Sunzu, đến Izu Nagaoka thì xuống tàu đi xe buýt chừng 15 phút là tới nơi. Chúng tôi từ từ leo lên con dốc hướng về phía núi và thấy một ngôi làng nhỏ, ở rìa làng có một sơn trang xây theo kiểu Trung Hoa khá kỳ công.

– Mẹ ơi, nơi này tuyệt hơn nhiều so với hình dung của mình nhỉ? – Tôi nói hổn hển.

– Đúng vậy đấy.

Mẹ đứng trước cổng sơn trang với một thoáng vui hiện lên trong mắt.

– Thứ nhất là không khí trong lành. Thật tinh khiết biết bao!

Chú nói đầy vẻ tự hào:

– Đúng như thế.

Mẹ mỉm cười đáp lại:

– Thật tuyệt! Không khí ở đây thật tuyệt!

Và cả ba chúng tôi mỉm cười.

Chúng tôi thử bước vào bên trong thì thấy hành lý từ Tokyo đã được chuyển đến chất đầy từ hành lang cho đến tận trong phòng.

– Thứ hai là phong cảnh từ phòng khách nhìn ra rất đẹp.

Chú cao hứng kéo hai mẹ con tôi vào phòng khách và bắt chúng tôi ngồi xuống.

Lúc này khoảng ba giờ chiều, khí trời mùa đông dịu nhẹ lan tỏa trên bãi cỏ trong vườn. Dưới chân bậc thềm đá nơi bãi cỏ là một cái ao nhỏ với rất nhiều cây hoa mơ, ở phía cuối vườn là một mảng vườn cam trải dài, ở đó có con đường làng, theo đó là ruộng lúa nước, xa xa là rừng thông và tít bên kia rừng thông là biển. Nếu ngồi ở phòng khách như thế này thì mực nước biển cao ngang ngực tôi.

– Cảnh vật thật yên bình – Mẹ nói đầy vẻ ưu tư.

– Chắc tại bầu không khí. Ánh nắng dường như khác hẳn với Tokyo, đúng không mẹ? Những tia nắng trông giống như tơ lụa.

Tôi phấn khởi lên tiếng.

Căn nhà có một phòng mười chiếu, một phòng sáu chiếu, một phòng khách kiểu Trung Hoa, hành lang rộng khoảng ba chiếu, phòng tắm cũng oảng chừng ba chiếu, rồi phòng ăn và phòng sinh hoạt chung, rồi một phòng trên tầng hai thiết kế theo kiểu Tây bên trong kê một cái giường lớn dành cho khách. Chỉ có bấy nhiêu phòng thôi nhưng với hai mẹ con tôi, à không, cho dù Naoji trở về nữa thì đối với ba người, căn nhà cũng không chật chội chút nào.

Chú đến cửa hàng duy nhất trong sơn thôn này để đặt mua thức ăn. Khi cơm hộp được mang tới, chúng tôi bày ra trong phòng khách, chú lấy rượu whisky đem theo ra thưởng thức. Chú vui vẻ kể chuyện về chuyến đi du lịch Trung Quốc với tử tước Kawada, người chủ trước của sơn trang này. Mẹ chỉ cầm đũa chấm mút chút ít và khi trời vừa chạng vạng tối, mẹ cất giọng khe khẽ.

– Để cho mẹ ngủ một chút.

Tôi soạn hành lý lấy chăn đệm trải cho mẹ nằm nghỉ. Nhưng có điều gì đó nơi mẹ khiến tôi lo lắng. Tôi tìm cái nhiệt kế và thử đo thân nhiệt cho mẹ thì thấy lên đến ba mươi chín độ.

Chú tôi cũng hoảng hốt và vội vàng đi đến cuối làng tìm bác sĩ.

– Mẹ ơi!

Tôi gọi nhưng mẹ chỉ nằm thiêm thiếp. Tôi nắm chặt bàn tay nhỏ nhắn của mẹ và nức nở khóc. Mẹ thật tội nghiệp biết bao, mà không, cả hai mẹ con mình thật là đáng thương. Tôi vừa khóc vừa nghĩ đến việc chết đi cùng mẹ. Thôi, chúng tôi không cần bất cứ thứ gì nữa. Cuộc sống của mẹ con tôi đã kết thúc kể từ khi bước chân ra khỏi ngôi nhà ở Nishikata.

Khoảng hai tiếng sau chú đưa một vị bác sĩ trong làng về, ông có vẻ khá già, mặc áo hakama thượng phẩm và chân mang tất trắng.

– Không chừng bị viêm phổi đấy. Tuy nhiên, dù bị viêm phổi đi nữa cũng không cần lo lắng gì đâu.

Sau khi chẩn bệnh, bác sĩ nói một cách mập mờ như vậy rồi chích thuốc cho mẹ xong thì ra về.

Ngày hôm sau mẹ vẫn không hạ sốt.

Chú Wada đưa cho tôi hai ngàn yên và căn dặn nếu phải nhập viện thì hãy gửi điện báo về Tokyo cho chú, rồi quay về trong ngày hôm đó.

Tôi lấy trong hành lý ra một số vật dụng nấu ăn cần thiết, nấu cháo mời mẹ ăn. Mẹ vẫn nằm như thế và húp đến muỗng cháo thứ ba thì lắc đầu.

Vào buổi trưa hôm ấy, vị bác sĩ làng lại ghé thăm bệnh. Lần này ông không mặc áo hakama nhưng chân vẫn đi tất trắng.

– Có nên đưa vào bệnh viện không ạ? – Tôi hỏi.

– Không cần thiết đâu. Hôm nay tôi sẽ tiêm một mũi thuốc liều cao và phu nhân có lẽ sẽ hạ sốt đấy.

Câu trả lời của bác sĩ cũng mơ hồ như hôm trước. Sau đó ông tiêm thuốc cho mẹ rồi ra về.

Dường như mũi thuốc đó có hiệu quả, quá trưa hôm đó sắc mặt mẹ trở nên hồng hào, mồ hôi ra đầm đìa và cười nói khi tôi thay áo ngủ cho mẹ.

– Có lẽ đây là danh y chăng?

Sốt đã hạ xuống còn 37 độ. Tôi vui mừng không tả xiết, vội chạy đến quán trọ cuối làng nhờ bà chủ mua giùm mười quả trứng gà mang về luộc lòng đào mời mẹ ăn. Mẹ ăn được ba quả và chừng nửa chén cháo.

Hôm sau, vị bác sĩ, lại mang tất trắng, đến thăm bệnh. Khi tôi bày tỏ lòng cảm ơn về liều thuốc hiệu nghiệm ngày hôm qua thì ông cúi đầu đáp lễ với vẻ mặt như muốn nói “đương nhiên phải có hiệu quả rồi”. Ông khám bệnh cho mẹ một cách cẩn thận và quay sang nói với tôi:

– Phu nhân đã khỏi bệnh. Vì vậy, từ bây giờ có thể ăn bất cứ thứ gì và làm gì cũng được hết đấy.

Đúng là cách nói chuyện lạ lùng, tôi kiềm chế lắm mới không bật cười.

Tôi tiễn vị bác sĩ ra tận cổng, khi quay lại phòng khách thì thấy mẹ đã ngồi dậy được.

– Đúng là danh y. Mẹ đã khỏi rồi.

Mẹ trông rất vui tươi, thì thầm như nói với chính mình.

– Mẹ à, con mở cửa ra nhé? Bên ngoài tuyết đang rơi đấy.

Tuyết nhẹ nhàng rơi rơi từng phiến mỏng như những cánh hoa mẫu đơn. Tôi kéo cánh cửa và ngồi bên cạnh mẹ, ngắm tuyết Izu qua lớp kính.

– Khỏi bệnh rồi.

Mẹ lại thì thầm một mình.

– Ngồi như thế này, mẹ có cảm giác những chuyện trước đây thoáng qua như một giấc mơ thôi. Nói thật, lúc sắp chuyển nhà đến Izu trong lòng mẹ cứ chán nản thế nào ấy. Mẹ chỉ muốn ở thêm dù chỉ một ngày, thậm chí nửa ngày trong ngôi nhà ở Nishikata. Khi lên xe điện là lúc mẹ nhận ra lòng mình đã chết đi một nửa và khi đặt chân đến đây, lúc đầu mẹ cảm thấy tâm trạng vui lên một chút nhưng khi trời chập choạng tối mẹ như kiệt sức vì da diết nhớ Tokyo.

Đây không phải là căn bệnh bình thường đâu. Thần linh đã cho mẹ tái sinh thành một người khác hoàn toàn với ngày hôm qua đấy.

Rồi từ đó đến nay, cuộc sống nơi sơn trang chỉ hai mẹ con tôi cứ lặng lẽ và yên bình trôi qua. Những người ở đây đối xử rất tử tế với chúng tôi. Chúng tôi chuyển đến đây từ tháng mười hai năm ngoái, vậy tính đến hôm nay là đã bốn tháng trôi qua rồi. Ngoài việc chuẩn bị cơm nước ra chúng tôi đan len ở ngoài sân vườn, đọc sách trong phòng bày trí kiểu Trung Hoa hay lặng lẽ thưởng trà, sống một cuộc sống hầu như biệt lập với thế gian. Vào tháng hai hoa mơ nở rộ, cả sơn thôn ngập chìm trong sắc hoa. Tháng ba nhiều ngày bình yên lặng gió nên những cánh hoa mơ độ mãn khai càng tươi tắn, khoe sắc cho đến cuối tháng. Dù sáng trưa chiều hay tối, những cánh hoa mơ vẫn đẹp đến nao lòng. Lần nào tôi mở cửa, hương hoa cũng lan tỏa khắp gian phòng.

Vào cuối tháng ba, buổi chiều thường hay có gió, khi tôi thưởng thức trà chiều trong phòng ăn, những cánh hoa mơ ngoài cửa sổ theo gió bay vào trong tách trà. Sang tháng tư, tôi và mẹ đan len ngoài sân và thường nói về kế hoạch làm vườn sắp tới. Mẹ nói là muốn giúp tôi.

Ah, dù cho chúng tôi – như lời mẹ nói – đã chết đi để tái sinh thành hai con người hoàn toàn khác nhưng phải chăng sự phục sinh như chúa Jesu đối với người phàm là không thể được? Mặc dù mẹ nói đã quên đi chuyện đã qua nhưng rõ ràng khi húp muỗng súp mẹ lại nhớ đến Naoji và thở dài. Và vết thương trong lòng tôi, thực ra cũng chưa bao giờ lành lại.

À, tôi muốn kể mọi chuyện rõ ràng không che đậy tí gì cả. Thỉnh thoảng tôi thầm nghĩ sự bình yên ở sơn trang này chỉ là giả dối ngụy tạo mà thôi.

Cho dù đây có là khoảng thời gian nghỉ ngơi ngắn ngủi mà thần linh đã ban cho mẹ con tôi đi nữa, thì tôi cũng không ngừng nhận thấy rằng trong sự yên bình này có một bóng đen tăm tối và bất thường đang tiến lại gần chúng tôi. Mẹ tỏ ra hạnh phúc nhưng mỗi ngày lại cứ tiều tụy đi. Trong ngực tôi, con rắn độc mamushi đang trú ngụ, dù gắng đè nén đến đâu nó cũng đang lớn dần lên bằng sự hy sinh của mẹ. Ah, giá như đây chỉ là do thời tiết mà thôi thì hay biết mấy. Nhưng gần đây tôi cứ cảm thấy cuộc sống này thật chán chường không chịu nổi. Chắc hẳn là việc đốt trứng rắn là một trong những điều dại dột làm tôi cứ lo lắng bồn chồn như vậy. Nếu cứ thế này mãi thì sẽ làm cho mẹ ngày càng chìm sâu vào nỗi buồn phiền và suy nhược hơn thôi. Còn nếu viết về tình yêu thì tôi đã không thể nào viết gì được nữa.

-Còn tiếp-

Chú thích:

  1. Giai cấp quý tộc được quy định bởi Hiến Pháp Minh Trị xếp theo thứ tự lần lượt là Hoàng tộc 皇族, Hoa tộc 華族 (gồm công tước 公爵, hầu tước 侯爵, bá tước 伯爵, tử tước 子爵, nam tước 男爵), Sĩ tộc 士族 và bình dân 平民 – ND.
  2. Marie Laurencin (1885-1956): nữ họa sĩ Pháp, chuyên vẽ tranh chân dung – ND.
  3. Sunzu 駿豆: viết tắt của hai vùng Suruga 駿河 và Izu 伊豆 – ND.
  4. Tsubo (坪): đơn vị đo diện tích ở Nhật. Một tsubo chừng 3,306 mét vuông – ND.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Click to comment

Viết bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Trích đăng

Nếp trên bản đồ ẩm thực dân gian Việt Nam

Nếp là một nguyên liệu chính làm nên vô vàn món xôi, bánh, chè ở khắp các vùng miền, tăng thêm sự phong phú cho ẩm thực dân gian Việt Nam.

Published

on

By

Trích từ: Thơm thảo xôi chè
Tác giả: Trần Thị Hiền Minh
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 4.2023

Là đất nước nông nghiệp, ngoài hai vựa lúa lớn là đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam còn có những vùng canh tác lúa ở Đông Bắc, Tây Bắc, Trung bộ, Đông Nam bộ. Gạo góp cho kho tàng ẩm thực Việt Nam rất nhiều món ăn hằng ngày và hàng trăm món bánh làm từ bột gạo. Nếp là một nguyên liệu chính làm nên vô vàn món xôi, bánh, chè ở khắp các vùng miền, tăng thêm sự phong phú cho ẩm thực dân gian Việt Nam.

Không ít tỉnh, thành đã tạo ra những loại gạo, nếp đặc trưng cho vùng miền. Riêng về nếp, có thể nói đặc tính nếp của từng vùng miền đôi khi buộc người chế biến phải lựa chọn đúng mới tạo ra hương vị chuẩn cho món ăn.

Bắc bộ

Nếp cái hoa vàng

Đến Hà Nội mà được mời dùng xôi hay bánh chưng, bà con miền Nam thường được nghe kèm lời giới thiệu “xôi này được nấu, bánh chưng này được gói bằng nếp cái hoa vàng đấy” như để đảm bảo độ ngon của xôi, của bánh, dù có để 4 - 5 ngày vẫn dẻo mềm, không bị “lại gạo”.

Tên “nếp cái hoa vàng” (còn gọi là nếp ả hay nếp hoa vàng) được người làm nông đặt dựa trên đặc tính của giống nếp này khi lúa trổ đòng thì phấn hoa có màu vàng. Đây là gạo nếp ngon được trồng nhiều ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng. Hạt nếp cái hoa vàng tròn đầy, màu trắng đục nhưng khi đồ xôi, làm bánh thì hạt nếp trở nên trong, dẻo, vị nếp ngọt, hương thơm lâu nên từ các bà nội trợ gia đình đến người làm hàng bán đều thích chọn sử dụng. Nếp cái hoa vàng đã được một số địa phương chọn làm giống nếp đặc sản, tạo thành vùng chuyên canh và xây dựng thương hiệu như nếp cái hoa vàng Kinh Môn (Hải Dương), nếp cái hoa vàng Gia Miêu ngoại trang tại xã Hà Long, huyện Hà Trung (Thanh Hóa).

Bên cạnh nếp cái hoa vàng, ở đồng bằng Bắc bộ còn có nếp nhung và nếp bắc. Nếp nhung hạt tròn đều cũng được chuộng để nấu xôi, làm bánh bởi nếp có độ dẻo, mùi thơm dịu tỏa ra ngay khi đang nấu xôi, bánh. Gạo nếp nhung xay thành bột còn được chuộng làm bánh dày, bánh đúc bởi tính hơi nở nhưng dẻo bột, làm cho bánh khi nguội vẫn giữ được độ mềm. Nếu như nếp cái hoa vàng và nếp nhung chủ yếu dùng nấu xôi, làm bánh; thì nếp bắc còn được dùng để nấu chè, đặc biệt là chè con ong cần hạt nếp thật dẻo nhưng không bị dính nát khi nấu.

Nói đến nếp trong ẩm thực dân gian ở Bắc bộ, không thể bỏ qua một số loại nếp nổi tiếng ở các vùng Tây Bắc và Đông Bắc.

Những thửa ruộng bậc thang trải khắp Tây Bắc và Đông Bắc trông như những bức tranh phong cảnh tuyệt mỹ khiến khách du lịch ngất ngây, nhất là vào mùa lúa chín. Chính trên những thửa ruộng tuyệt mỹ ấy, bà con vùng cao đã bỏ công khó nhọc trồng những loại gạo nếp dẻo thơm, ngọt bùi. Có những nơi bà con chỉ dùng nếp nấu cơm, khách du lịch đến ăn cơm nếp vài ngày cũng không thấy ngán nên hỏi han, rồi mua về nấu thử hoặc làm quà.

Nếp Tú Lệ

Nếp ở Tây Bắc nổi tiếng sớm là nếp Tú Lệ được trồng ở thung lũng xã Tú Lệ, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái, xếp vào một trong những loại nếp ngon nhất nước ta. Nếp Tú Lệ tròn mẩy hạt, khi đồ chín cho hạt xôi trắng bóng trông hấp dẫn, xôi rất dẻo nhưng tơi hạt. Bà con Yên Bái bảo đồ xôi bằng nếp Tú Lệ không cần phải thêm đỗ (đậu), thêm dừa gì cả, ăn xôi nếp thôi để cảm nhận đúng vị ngọt tự nhiên, mùi thơm mát như thể tinh túy núi rừng hòa vào trong từng hạt nếp. Ăn rồi còn muốn mang theo, thế là bà con gói cho nắm xôi, để từ sáng đến tối mà xôi vẫn dẻo.

Nếp nương

Nếp nương là đặc sản của Điện Biên. Nếu như các loại nếp ở Bắc bộ có đặc trưng hạt ngắn, tròn thì nếp nương Điện Biên lại là hạt thon dài, chắc. Nếp nương Điện Biên chưa nấu đã có mùi thơm thoang thoảng. Bà con Điện Biên bảo do được trồng trên nương, uống nước núi rừng mà lớn, có bao nhiêu hương thơm rừng núi thì hạt gạo ôm hết bấy nhiêu, nên nếp nương Điện Biên cũng là đặc sản nổi tiếng của vùng Tây Bắc. Người dân ở đây thường dùng nếp nương đồ xôi ngũ sắc ăn kèm với thịt nướng, cá nướng chấm chẩm chéo. Nếp nương nấu xôi trông như xôi khô nhưng khi ăn mới cảm được hết vị ngọt, độ dẻo, thơm của hạt nếp.

Nếp cẩm

Loại nếp đặc sản nữa của vùng Tây Bắc phải kể là nếp cẩm, hạt nếp to tròn có màu tím thẫm, pha chút màu vàng nhạt ở bụng hạt. Không phải nơi nào cũng có thể trồng được gạo nếp cẩm. Lai Châu, Điện Biên được cho là nơi có thể trồng ra loại nếp cẩm chất lượng nhất. So với các loại gạo nếp khác ở Tây Bắc thì gạo nếp cẩm nổi trội hơn về mặt dinh dưỡng nên được dùng như một loại thực phẩm bồi bổ, tăng cường sức đề kháng và kích thích tiêu hóa. Khi nấu thành xôi, nếp cẩm có màu tím thẫm, mùi thơm ngào ngạt đặc trưng. Những năm gần đây, xôi nếp cẩm được kết hợp với sữa chua nguyên chất đã tạo nên món ăn thơm ngon được nhiều người ưa chuộng.

Nếp Pì Pất

Tuy không nổi tiếng và phổ biến bằng, nhưng các loại nếp vùng Đông Bắc đang góp mặt trong danh mục nếp để làm các món xôi, chè, bánh Việt Nam là nếp Gà gáy Mỹ Lung và nếp Pì Pất. Nếp Gà gáy Mỹ Lung của người Mường ở huyện Yên Lập (Phú Thọ) có màu nửa trắng, nửa trong đồ xôi dẻo mà lại không dính tay. hương thơm ngọt bùi. Người nào từng ăn qua nếp Gà gáy sẽ không quên được vị ngọt mộc mạc ấy. Nếp Pì Pất được người dân huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng trồng. Nếp Pì Pất có mùi thơm từ khi còn là hạt thóc, đến khi xát thành gạo, mùi thơm động trong từng hạt trắng. Nếp Pì Pất đồ xôi mềm nhưng không nát hạt, bột nếp thơm, làm được nhiều loại bánh.

Nam bộ

Ở Nam bộ, lúa nếp được trồng nhiều ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nếp cũng được các bà nội trợ dùng nấu xôi, gói bánh tét, bánh ú, làm nhiều loại bánh dân gian, còn dùng nấu nhiều loại chè. Những loại nếp được biết, được chuộng nhất ở Nam bộ phải kể đến là nếp ngỗng, nếp sáp, nếp than.

Nếp ngỗng

Nếp ngỗng thường được dùng để nấu xôi. Hạt nếp ngỗng dài, thuôn tròn, màu trắng sữa; khi nấu chín, hạt nếp nở vừa, dẻo mềm, thơm dịu, để nguội xôi vẫn dẻo thơm. Nếp ngỗng mà làm xôi vị, nấu chè khoai môn, chè đậu trắng, chè hạt me... thì ngon hết biết, có thể ăn quên thôi.

Nếp sáp

Nếp sáp được trồng trên vùng đất màu mỡ, giàu phù sa của vùng Đồng Tháp Mười, tạo nên nếp mẩy hạt, thon dài, đầy tròn với màu trắng sữa, mặt nếp mịn với hương thơm tự nhiên. Tính chất hạt nếp đúng như tên gọi, khi nấu chín tới, nếp dẻo vừa phải như sáp, tỏa ngát hương thơm, vị ngọt hậu, đặc biệt ngon khi nấu xôi, chè, gói bánh tét, bánh chưng, bánh ủ. Nếp sáp dường như hợp với các loại đậu xanh, đậu phộng nên các món xôi đậu xanh, xôi đậu phộng nấu bằng nếp sáp đều làm nên vị bùi, với mùi thơm đặc biệt.

Xôi nếp than nhân đậu xanh nước cốt dừa

Xôi nếp than nhân đậu xanh nước cốt dừa là một món ăn dân dã thơm ngon khó tả, cách chế biến nhiều công đoạn nhưng không quá khó làm. Nguyên liệu chính làm nên món ngon này là nếp than, loại nếp được trồng ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nếp than ở Nam bộ và nếp cẩm Tây Bắc đều có màu sắc đặc biệt hơn các loại nếp khác. Nhưng ở hai vùng địa lý khác nhau rất nhiều về địa hình, điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng,... dẫn đến sự khác nhau về sinh trưởng của mỗi loại lúa nếp, hình dáng và màu sắc hạt nếp cũng khác nhau đôi chút. Hạt gạo nếp cẩm có màu tím thẫm, bụng màu vàng nhạt, hình dáng to tròn trong khi gạo nếp than có hạt nhỏ dài và màu đen gần như kín cả hạt.

Xôi xoài Thái Lan

Nông dân đồng bằng sông Cửu Long cũng trồng thêm giống nếp Thái đề làm phong phú nguồn nguyên liệu cho các bà nội trợ sử dụng, khi cần nguyên liệu đặc biệt để làm những món như xôi xoài Thái Lan thì nấu nếp Thái là “chuẩn bài”.

Trung bộ

Nếp ngự Sa Huỳnh

Bắc bộ, Nam bộ có lắm loại nếp ngon, nổi tiếng, Trung bộ có vẻ khó canh tác nên không nhiều lúa nếp. Tuy vậy, góp mặt trong danh mục nếp ngon Việt Nam thì Trung bộ có nếp ngự được trồng ở vùng ven biển Sa Huỳnh (huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi). Tương truyền loại nếp này khi xưa dẻo thơm nức tiếng, được mang tiến vua nên gọi là nếp ngự. Dẫu Trung bộ khí hậu khá khắc nghiệt, nhưng nông dân vùng Sa Huỳnh cũng trồng được giống nếp này vào vụ đông- xuân và vụ mùa, khoảng thời gian dịu mát trong năm. Tự tin với chất lượng hạt nếp kết tinh dinh dưỡng từ đất ven biển và nắng gió khơi xa tụ vào, địa phương đã giúp người dân xây dựng thương hiệu “nếp ngự Sa Huỳnh”.

Người dân ở đây bảo khi cây lúa vừa làm đòng, họ đã ngửi được hương thơm nếp ngự lan tỏa trong gió. Gặt về gánh nếp thơm, chà xát rồi vẫn còn thơm. Xôi nếp ngự vừa chín tới, mùi xôi dẻo thơm phức thật kích thích bao tử. Với đặc tính như vậy, nếp ngự thường được dùng để gói bánh tét, chế biến nhiều loại bánh thơm ngon; đặc biệt dùng nấu xôi đậu đen, làm bánh nổ, bánh rò vào dịp Tết. Tết ở Quảng Ngãi không thể thiếu các món xôi và bánh làm từ nếp ngự, trông mộc mạc nhưng hương thơm dân dã, thanh khiết như tấm lòng thành kính dâng lên tổ tiên.

– Còn tiếp –

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Con bướm mắc kẹt trong đĩa thủy tinh

Con bướm nằm bất động trong đĩa, giống như người đang giả chết hay một bậc thầy về khoa nín thở.

Published

on

By

Trích từ: Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm
Tác giả: Le Thi Diem Thuy
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 4.2023
Đoạn trích nằm trong chương 1 “Xì-tốp!”.
Tiêu đề đoạn trích do BTV Bookish tự đặt.

– – –

Trong nhiều năm ròng, ông bà Russell đã sưu tập những con thú nhỏ bằng thủy tinh, chủ yếu là ngựa. Những con vật với cẳng chân thủy tinh khẳng khiu mà bạn có thể nhìn xuyên qua như nhìn một ô cửa sổ sạch sẽ. Sau khi chồng qua đời, bà Russell quyết định rằng bác Melvin, con trai ông bà, nên giữ một số con vật thủy tinh này, cùng với những thứ khác từng thuộc về cha bác.

Một chiều Chủ nhật nọ, mẹ con bác Mel tấp xe qua nhà và bác Mel gọi Ba với các chú ra phụ một tay. Cốp xe để mở của bác đang lèn chặt một chiếc tủ kính trưng bày. Sau khi hướng dẫn hai chú nhấc tủ khỏi cốp sao cho cẩn thận, bác Mel bảo Ba và hai chú còn lại khiêng ba thùng cạc-tông đang nằm trên băng ghế sau, xong xuôi bác khoát tay ra hiệu mọi người đi theo. Bà Russell đang giữ cửa trước cho họ và bác Mel dẫn Ba với các chú lên năm bậc thang so le để đi vào nhà. Họ khiêng tủ và ba cái thùng dọc hành lang dài và vòng ra phía sau ngôi nhà để đến căn phòng nơi bác Mel làm việc. Tôi theo sau họ, hai tay đút trong túi sau quần jean.

Văn phòng bác Mel nhỏ xíu và chật ních. Những chiếc thùng rỗng một nửa nằm trên sàn, còn những cái giá thì oằn mình dưới sức nặng của sách và hồ sơ xếp dựa vào tường. Giữa phòng đặt một chiếc bàn vuông lớn, mặt bàn bị bao phủ trong cơ man nào là bút, giấy, tiền lẻ, sổ biên lai và một khay đựng chìa khóa. Đằng sau bàn có một chiếc ghế xoay bọc da.

Bác Mel hướng dẫn các chú đặt tủ kính ở một góc phòng phía xa, để khi ngồi tại bàn, bác có thể ngước lên và nhìn vào bên trong tủ.

Chúng tôi đứng xem mẹ con bác Mel dỡ những thứ bên trong ba thùng cạc-tông ra và cẩn thận đặt chúng vào tủ kính. Đầu tiên chúng tôi thấy năm món đồ sứ màu trắng và xanh dương, sau đó đến những cuốn sách bìa da màu đỏ. Bác Mel xoay các bánh xe của một chiếc xe cứu hỏa đồ chơi trước khi đặt nó vào tủ. Mẹ bác tháo ra một chiếc tẩu vẫn còn vương sợi thuốc lá đưa cho bác và bác sẽ sàng đặt nó nằm nghiêng. Thứ cuối cùng ra khỏi thùng là những con thú thủy tinh. Có khoảng hai mươi con và chúng được xếp thành từng cặp, giống như những con vật trong một buổi diễu hành.

Chúng tôi được mời nhìn vào bên trong tủ kính. Trong lúc chúng tôi đứng săm soi các đồ vật, bà lão bảo Mel nhờ Ba truyền đạt lại cho tôi và bốn người chú rằng những thứ bên trong không phải để đụng vào.

Ba không nói gì với chúng tôi, chỉ hỏi: “Mọi người hiểu không?”, bốn người chú và tôi đáp: “Có”. Tất cả chúng tôi đều cảm thấy những thứ bên trong chiếc tủ rất quý, không phải vì chúng trông có vẻ quý giá với chúng tôi, mà vì chúng tách biệt hẳn khỏi sự lộn xộn của phần còn lại căn phòng cũng như của ngôi nhà.

Khi chúng tôi rời khỏi văn phòng bác Mel, tôi để ý trên bàn bác có một con bướm màu nâu vàng nằm phía trên đầu một số giấy tờ. Tôi với người tới để chạm vào nó, nhưng thay vì lớp bột thường bay ra từ cánh bướm, những ngón tay tôi quét qua mặt kính lạnh. Tôi dừng lại chỗ ngưỡng cửa và liếc qua vai về phía cái bàn. Cái gì thế nhỉ?

Vào đầu và cuối mỗi ngày đến trường, hai học sinh lớp lớn sẽ đứng ở giữa đường đối diện cổng trường; họ cầm biển báo và bắt chéo chúng như những thanh kiếm trong chiến trận. Điều này có nghĩa là xe hơi - tất tần tật mọi chiếc - kể cả những chiếc buýt lớn màu vàng cũng phải dừng lại nhường cho bọn trẻ băng qua đường đến trường hay rời trường về nhà ở bất kỳ đâu.

Mỗi buổi chiều tôi đều chạy qua mấy tấm biển báo bắt chéo để gặp chú nào đó đến đón tôi về nhà bác Mel. Khi chúng tôi đi ngang tấm biển nền đỏ chữ trắng mà cha con tôi hay dừng lại trước mỗi buổi sáng, tôi sẽ chạm nhẹ những ngón tay vào thân cột và thầm thì: “Xin chào”.

Chú dẫn tôi vào nhà và tôi sẽ chạy ào dọc hành lang về phòng để thay bộ váy ngứa ngáy ra quần jean và áo phông. Thường tôi sẽ có một tiếng đồng hồ ở một mình trước khi Ba hoặc một trong số các chú về nhà và bắt đầu chuẩn bị bữa tối.

Lúc đầu tôi hay dành thời gian đó để tô màu hoặc nghiên cứu quyển sách tập đọc có hình hai cô cậu bé cùng con chó Spot của họ thích đuổi theo bóng nảy trên sàn. Nhưng sau hôm chúng tôi xem bác Mel cất đồ vào tủ kính, tôi lẻn vào văn phòng bác và dành thời gian đó trò chuyện với con bướm và bọn thú thủy tinh.

Tôi thấy con bướm màu nâu vàng vẫn nằm trên bàn bác Mel như trước, bên trong đĩa thủy tinh dày phía trên chồng thư và biên lai tiền thuê nhà. Khi nhấc đĩa lên, tôi thấy con bướm bị kẹt trong một vũng thạch màu vàng. Dù đã lật qua lật lại đĩa thủy tinh, tôi vẫn không tìm ra chỗ con bướm đã bay vào hay có thể thoát lại ra ngoài. 

Tôi giơ chiếc đĩa lên tai và lắng nghe. Thoạt tiên, tôi chỉ nghe thấy độc tiếng thở của chính mình, nhưng rồi tôi nghe một tiếng sột soạt mơ hồ, như tiếng đôi cánh chạm vào một ô kính cửa sổ. Tiếng sột soạt là một bài hát thầm thì. Đó là cách con bướm giao tiếp và tôi nghĩ mình hiểu được.

Tôi giữ chiếc đĩa trong hai lòng bàn tay khum lại và nhìn xuống con bướm, sau đó mang nó lại chỗ cửa sổ trông ra khu vườn sau nhà. Khi tôi giơ chiếc đĩa lên chỗ ánh nắng, nó rực lên màu vàng loá mắt, và tại trung tâm khối màu là hình dáng con bướm màu nâu đất đậm đà.

Tôi mang đĩa về bàn và đặt nó lại phía bên trên chồng thư và biên lai tiền thuê nhà. Nó đè xuống đám giấy tờ như cách mái đầu nặng trĩu suy tư của Ba đè xuống gối mỗi đêm và kéo ông vào những cơn ác mộng, trong khi điều ông mong mỏi chỉ là một giấc mơ ngọt ngào và hạnh phúc như vị que kem mít.

Một đêm nọ khi hai cha con đang nằm ngủ, tôi thầm thì vào tai Ba: “Con tìm thấy một con bướm đang gặp rắc rối”.
“Rắc rối gì?” Ba hỏi.
“Con bướm còn sống…”
“Tốt”, Ba nói.
“Nhưng nó bị kẹt”.
“Ở đâu?”
“Bên trong một đĩa thủy tinh”.
Ba không nói gì.
“Nhưng nó muốn thoát ra ngoài”.
“Làm sao con biết?”
“Vì nó nói với con thế này: ‘xườ-xườ/xườ-xườ’ ”.

Ba ngồi dậy, lắc qua lắc lại mái đầu nặng nề và gõ vào một bên tai rồi đến bên kia.

“Ba đang làm gì vậy?” Tôi hỏi ông.
“Ba phải tống hết những lời bướm biếc này ra khỏi đầu trước khi chúng lớn lên”, Ba đáp và nghiêng đầu sang một bên để các từ ngữ có thể chảy ra như nước.
“Aaa…” ông thở dài, day day dái tai. “Sạch hết tất cả bướm với biếc. Giờ thì Ba ngủ được rồi”.

Sáng hôm sau, tôi đi ra góc vườn sau nhà nơi các chú làm việc. Họ đang tỉa cây, nhổ cỏ dại và đổ thức ăn vào máng cho chim. Khi một chú hỏi vì sao mặt tôi trông nghiêm trọng vậy, tôi bảo chú ấy rằng mình cần giúp đỡ. Tất cả các chú đồng loạt ngưng tay và muốn biết có gì không ổn.

Với những ngón tay uốn cong tạo thành một vòng tròn không đều, tôi giải thích rằng có một con bướm bị kẹt trong đĩa thủy tinh, và khi ta cầm chiếc đĩa giơ lên chỗ ánh sáng - bây giờ hai cánh tay tôi đang rướn về phía mặt trời - con bướm sẽ rực lên màu nâu vàng.

Tôi nhờ các chú giúp tôi giải thoát cho con bướm.

“Không thể nào được!”
“Con bướm đó tự chuốc lấy rắc rối khi bay vào một cái đĩa”.
“Nhưng đây là rắc rối mà bọn chú đành bó tay”.
“Đúng vậy, bọn chú có biết gì về bướm bị kẹt trong kính đâu. Chú chưa bao giờ thấy cái gì giống như thế ở Việt Nam”.
“Nhưng nghe không kinh khủng sao ạ?” tôi hỏi.
“Hẳn là giờ nó đã chết rồi, con bướm ấy”.
“Không thể làm gì nhiều với một con bướm chết”.
“Không ạ, cháu nghe nó sột soạt cánh. Nó muốn thoát ra ngoài!”
“Nghe này con gái, không con bướm nào có thể sống sót bên trong đĩa thủy tinh. Thậm chí nếu cơ thể nó còn sống, chú chắc là hồn nó đã bay đi từ đời tám hoánh”.
“Đúng vậy, chú cũng nghĩ thế. Không còn hồn vía nào bên trong đĩa thủy tinh đó”.
“Nếu không có hồn vía, sao con bướm có thể khóc lóc kêu cứu ạ?” tôi hỏi.
“Nhưng ở đất nước này việc khóc lóc đâu có nghĩa lý gì? Đêm nào Ba con cũng khóc trong vườn mà có ích lợi gì đâu”.
“Chỉ mất công tưới nước cho bãi cỏ của bác Mel”.
“Không có gì cả”.
Nói rồi họ quay trở lại làm việc.

Con bướm khóc nhè từng có thời bay lượn, nhưng bọn thú thủy tinh xếp cạnh nhau trên những ngăn tủ trưng bày của bác Mel chưa từng được chạy đi đâu cả. Chúng chưa từng có những móng guốc dày và nặng, loại có thể hất tung bụi và để lại vết hằn sâu hoắm trên những bờ sông ngập bùn. Chúng chưa từng đá bất cứ thứ gì hay cắn bất kỳ ai, dù chỉ để đùa vui. Chúng chưa từng cọ người vào thân cây hay lăn trên mặt đất với bốn chân quất vào không khí. Bọn chúng có những cái chân mà tôi có thể nhìn xuyên qua và những cái miệng thủy tinh nhỏ chưa từng hé ra để ăn hay uống. Bọn chúng chưa từng ngủ và chân chưa từng cong xuống. Bờm chúng cứng đờ. Một cơn gió nhẹ nhất cũng có thể xô chúng nghiêng ngả và trừ phi tôi sắp xếp lại, nếu không chúng vẫn sẽ nằm mãi như thế. Chúng là những con vật ngớ ngẩn nhất mà tôi từng gặp. Chúng thậm chí còn không biết mình đang bỏ lỡ những thứ gì.

Khi vào văn phòng bác Mel, tôi sẽ mở cửa tủ kính và giữ nguyên như vậy để bọn thú hít thở chút không khí. Tôi luôn chạm vào chúng. Tôi mang chúng đến bậu cửa sổ và để chúng ngồi trên gờ cửa đầy nắng, bên cạnh con bướm vàng óng của tôi. Tôi kể chuyện cho bọn chúng nghe. Tôi kể về đám bồ câu sống phía trên nhà Bà Sáu. Tôi ngồi xổm trên sàn phòng, bắt chước cách đám bồ câu đậu trên rìa mái nhà, chờ mổ những bụm cơm nguội mà Bà Sáu rải ra sân. Tôi đứng dậy và tạo thành tiếng chim bồ câu sà xuống những hạt cơm. Tôi kể về những con gà trống chạy cùng tôi dọc bãi biển và để lại những vết xước lạ lùng trên cát ướt. Tôi lấy bút và một mảnh giấy từ bàn bác Mel rồi vẽ bảng chữ cái hình gà trống cho bọn thú thủy tinh xem. Tôi kể chúng chuyện Má đã hứa rằng khi đủ lớn, tôi có thể đón tàu hoả vào thành phố với Má và bà sẽ dẫn tôi đi xem chợ lớn. Tôi giải thích rằng chợ thì lớn hơn cái tủ mà chúng đang sống, lớn hơn ngôi nhà bác Mel, lớn hơn cả khu vườn phía sau.

Tôi kể cho chúng nghe về bức ảnh con tàu đã đưa cha con tôi và bốn người chú đi tẩu thoát. Ai đó đứng trên boong chiếc tàu thủy đến đón chúng tôi đã chụp bức ảnh này. Tôi không biết tông tích người chụp hay làm thế nào mà một chú đã có được nó. Trong bức ảnh, tàu chúng tôi giống như chiếc tàu đồ chơi đang dập dềnh trong một bát nước lớn với đầy ắp những con người nhỏ tí xíu. Chúng tôi nằm trong số những người đó, nhưng tôi không phân biệt được ai với ai vì hết thảy mọi người đều bé tẹo. Những khuôn mặt nhỏ, những mái đầu nhỏ, những cánh tay nhỏ đang rướn tới để chạm vào những bàn tay nhỏ. Có lẽ những người Mỹ trên chiếc tàu thủy đã cười nhạo chúng tôi. Có lẽ đó là lý do mà họ mất khá nhiều thời gian để hạ thang xuống. Có lẽ trước hình ảnh bé tẹo của chúng tôi, họ đã cười ngặt nghẽo đến mức lăn quanh boong như những viên bi bị đổ. Họ phải đỡ nhau đứng dậy và nhớ lại tên của chính mình - Glen, Mike, Ron - và nơi họ đến - Abilene, Texas, Youngstown, Pennsylvania, Tacoma, Washington - trước khi để chúng tôi leo lên và giới thiệu tên mình - Lan, Cường, Hoàng - và nơi chúng tôi đến - Phan Thiết, Bình Thuận.

Tôi kể cho bọn chúng nghe những chuyện gì không quan trọng. Chuyện có thể diễn ra trong sân nhà chúng tôi ở Việt Nam hay trên boong tàu hải quân đã đón chúng tôi từ biển cả hay trên chiếc võng ở trại tị nạn Singapore hay trong bụng chiếc máy bay đã chở chúng tôi đến California; chuyện có thể diễn ra giữa trưa nóng nực hay buổi tối mát lạnh hay trong thời tiết lạ lùng từ một trong những cơn ác mộng của Ba; chuyện có thể thoảng mùi nước mắm hay mùi bánh hamburger hay mùi hoa nhài; chuyện có thể là lời mô tả về một giấc mơ của tôi hay một con chó tôi thấy hay một đứa con trai tôi nhớ; chuyện có thể nói về mái tóc của Má toả mùi ấm áp vào ban đêm hay cầu trượt sân chơi cảm giác lạnh lẽo vào buổi sáng hay cỏ trong khu vườn sau nhà cù vào mắt cá chân tôi nhột nhạt; chuyện có thể nói về tất thảy những gì đã xảy ra với cha con tôi và bốn người chú, xảy ra ‘Một cách đột ngột’, ‘Nhiều năm về trước’, và ‘Ở một nơi nào đó xa xôi’, - như trong những chuyện cổ tích mà thứ Sáu nào cô giáo cũng đọc cho cả lớp nghe.

Bọn thú thủy tinh không chớp mắt. Chúng không hề cười. Chúng không bao giờ nhướng một bên mày hay nghiêng đầu khi lắng nghe. Chúng không gật đầu đồng tình hay giậm chân xuống đất phản đối. Chúng không đặt câu hỏi. Chúng dường như không muốn biết bất cứ thứ gì. Tôi trở nên chán ngấy việc nói chuyện với chúng và cảm thấy rằng nếu bị phơi dưới nắng quá lâu, chúng có thể vỡ tan.

Tôi kéo căng gấu áo phông và nhấc bọn chúng khỏi gờ cửa sổ, đặt từng con vào chiếc áo đóng giả cánh buồm của mình. Khi đem chúng về tủ, tôi có thể cảm thấy những cái chân khẳng khiu của chúng chọc vào người mình qua lần vải áo. Tôi sẽ sắp xếp bọn thú theo thứ tự cao, thấp, cao, y hệt như mẹ bác Mel đã xếp chúng cho bác lúc đầu. Tôi đóng lại cửa chiếc tủ kính trưng bày với bọn thú thủy tinh đang nhìn về phía trước. Chúng không hề nhớ tôi là ai. Khi tôi trốn trong khoảng trống nhỏ giữa chiếc tủ và bức tường, chúng không một lần quay đầu lại hay ấn mặt vào cửa tủ kính để tìm tôi. Các chú không biết rằng không phải con bướm, mà đúng hơn là bọn thú thủy tinh mới không có hồn vía.

Con bướm nằm trong túi áo ấn vào người tôi khi tôi đi xung quanh văn phòng bác Mel. Tôi thích sức nặng của nó. Tôi thích nó như tôi thích đứng tại khu vườn sau nhà, mắt nhắm và hai tay đút vào túi, trong lúc từ từ quay mặt về phía mặt trời. Màu sắc của con bướm lúc tôi giơ nó lên chỗ ánh sáng giống như mùi vị mặt trời vào những ngày đó, khi tôi đứng tại khu vườn sau nhà và thè lưỡi ra.

Một chiều thứ Sáu nọ của tháng Mười Hai, một tuần trước kỳ nghỉ lễ Giáng sinh, tôi đã cố gắng giải thoát cho con bướm. Kết cục là bác Mel bảo cha con tôi và bốn người chú thu dọn đồ đạc ra khỏi nhà. Ba nói đó không phải lỗi của tôi, cũng chẳng phải lỗi của ai hết. Ba bảo chuyện thường tình ấy mà.

Ngày hôm đó tôi đã kể cho bọn thú thủy tinh nghe về giấc mơ đêm hôm trước của mình. Trong mơ, tôi đánh cắp một trong những tấm biển báo băng qua đường từ người cầm biển ở trường và mang về nhà bác Mel. Tôi kéo lê tấm biển xuôi theo hành lang dài và dựng đứng nó lên như cột buồm một con tàu. Ba và bốn chú đang ngủ. Tôi đánh thức họ dậy và bảo họ trèo lên trên tấm biển. Tôi cột họ vào thân trụ để họ không rơi ra; trong lúc họ đứng chờ, tôi chạy từ phòng này sang phòng khác và bật lên toàn bộ vòi nước trong nhà.

Tôi kể cho bọn chúng nghe rằng dòng nước cuồn cuộn trong giấc mơ đã nhấc cha con tôi và bốn chú ra khỏi nhà, xuống năm bậc thang, đi vào phố, ngang qua trường tôi học và khu chơi bi-a của các chú, rồi vượt quá những toà chung cư in hệt nhau mà bên trong có những căn phòng trắng loá. Khi chúng tôi giong buồm qua những con đường trên tấm biển báo, tôi giơ cái đĩa thủy tinh giống như chiếc kính viễn vọng lên mắt và qua cơ thể con bướm, tôi thấy Má đang đứng trên một bãi biển xa xăm.

Bọn thú thủy tinh kiên nhẫn lắng nghe nhưng không có ý kiến gì về giấc mơ của tôi. Tôi nhấc chúng khỏi bậu cửa sổ và mang trở về chiếc tủ trưng bày. Tôi đóng tủ lại rồi leo lên chiếc ghế xoay bọc da của bác Mel và cứ thế xoay vòng tròn. Tôi xoay người đến hoa mắt trong lúc nhớ lại khuôn mặt Má trong giấc mơ và cố nghĩ cách giải thoát con bướm của tôi khỏi chiếc đĩa thủy tinh.

Khi ghế ngừng quay, tôi để ý thấy mấy mảnh kính vỡ trên ngăn dưới cùng của một kệ sách gần tủ trưng bày. Tôi leo xuống chiếc ghế xoay và đi lại chỗ tủ sách. Con bướm đang nằm trong túi và nó trì áo tôi xuống khi tôi khom mình nghiên cứu những mảnh kính vỡ. Đó là một khung ảnh.

Khung kính đã vỡ tan nhưng bức ảnh bên dưới trông còn nguyên vẹn. Bác Mel và mẹ mình thời còn trẻ đang mỉm cười qua lớp kính vỡ. Vòng tay của họ quanh người nhau khá là chặt và tôi cảm thấy ôm như vậy thì thật khó thở, nhưng họ có vẻ thích điều đó. Mũi họ hồng hào và bóng lưỡng. Răng bà lão hồi đó sáng và đều một cách khó tin, còn những lọn tóc xoăn của bác Mel thì rực lên trong nắng. Tôi thấy hai mẹ con bác trông rất khoẻ khoắn.

Giống như cha con tôi, mẹ con bác Mel đang đứng ở một nơi đầy tuyết và tựa người vào chiếc xe hơi xanh dương. Trên nền tuyết thấp thoáng một cái bóng, hẳn là nó thuộc về người chụp ảnh.

Mắt tôi liếc lên cái tẩu thuốc nằm nghiêng trong tủ kính, trong nõ tẩu vẫn còn nhét vài sợi thuốc lá.

Tôi đứng dậy khỏi bức ảnh và nhìn quanh phòng, nó có cảm giác thật đông đúc. Trên các kệ nhồi nhét những chồng giấy lộn xộn, còn trên sàn la liệt những thùng sách đầy một nửa trong những tư thế kỳ quặc vì bị đẩy tới đẩy lui trong lúc bác Mel đi lại xung quanh. Những chiếc thùng rỗng thì bị dựng đứng lên.

Mắt tôi quét qua bốn bức tường trong văn phòng bác Mel trước khi đậu lại ở khoảng trống giữa tủ kính trưng bày và bức tường gần cửa. Tôi đi đến đó và dùng tay đo đạc nó, đầu tiên ấn một lòng bàn tay vào tường rồi đến lòng bàn tay kia.

Vẫn dán mắt vào khoảng trống, tôi lùi người khỏi bức tường cho đến khi đứng cạnh cái bàn ở giữa phòng. Tôi lấy chiếc đĩa ra khỏi túi áo và giữ nó trong lòng bàn tay khum lại. Tôi lắc nhẹ nó và cảm nhận sức nặng của nó trong tay mình.

Con bướm nằm bất động trong đĩa, giống như người đang giả chết hay một bậc thầy về khoa nín thở.

Tôi giơ chiếc đĩa lên tai và lắng nghe. Trái tim tôi đang đập và sẽ không chịu im lặng. Tôi giang cánh tay giơ chiếc đĩa ra xa, lắc đầu, rồi đưa nó về lại gần tai.

Ở đó có một tiếng động mơ hồ, như một bức màn nhẹ tênh, hầu như trong suốt đang khẽ lay động lao xao trên cửa sổ.

Tôi siết chặt những ngón tay quanh chiếc đĩa, giang cánh tay ra sau xa hết mức có thể, nhắm vào giữa khoảng trống nhỏ có bề ngang bằng ba gang tay đó, tôi dứ người lấy đà và vung cánh tay về trước, làm chiếc đĩa bay vèo.

Chiếc đĩa bay nhanh và mạnh nhưng không đáp xuống nơi tôi đã dự định mà đâm xuyên qua cửa tủ kính trưng bày. Đầu gối của bọn thú thủy tinh oằn xuống. Khi chúng ngã, một số con mất đầu trong khi cơ thể những con khác gãy làm đôi. Cơ thể vỡ vụn của một số con đã bảo vệ những con khác khỏi cảnh nát bấy hoàn toàn. Một số con nằm nghiêng và nhìn ra ngoài cửa sổ.

Chiếc đĩa đập vào phần sau tủ, dội vào đám đồ sứ trước khi bắn ngược trở lại phòng. Văn phòng bác Mel bị lấp đầy trong những âm thanh mà bọn thú tạo ra.

Ba và các chú giật tung cánh cửa.

Tôi đang xoay tròn trên ghế, mắt quét khắp trần để tìm con bướm.

“Xườ-xườ/xườ-xườ”.
“Xì-tốp!/Xì-tốp!”
“Xườ-xườ /xườ-xườ”.
“Xì-tốp!”

– Còn tiếp –

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Điều gì kìm hãm chúng ta?

Từ chốn công sở truyền thống đến các công ty khởi nghiệp hiện đại, những người giỏi nhất sẽ nhận được phần thưởng khổng lồ, trong khi những người chỉ kém họ một chút thì nhận phần tầm thường hơn nhiều.

Published

on

By

Trích từ: Think Big
Tác giả: Tiến sĩ Grace Lordan
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 12.2022

Mơ lớn thì dễ, nhưng biến chúng thành hiện thực thì lại khó. Định hướng công việc ngày nay rất phức tạp, và các kỹ năng chúng ta cần có thì luôn thay đổi chóng mặt. Những tiến bộ trong lĩnh vực công nghệ và quá trình toàn cầu hóa diễn ra nhanh chóng đang định hình những loại công việc đặc thù trong từng giai đoạn nào đó. Ngày càng nhiều người trong chúng ta nhận thấy nơi mình làm việc giống như một đấu trường mà “người thắng được tất”. Từ chốn công sở truyền thống đến các công ty khởi nghiệp hiện đại, những người giỏi nhất sẽ nhận được phần thưởng khổng lồ, trong khi những người chỉ kém họ một chút thì nhận phần tầm thường hơn nhiều.

Phấn đấu đến vạch đích cụ thể nào đó là một hành trình mệt mỏi, tuy nhiên mọi thứ sẽ còn tồi tệ hơn nếu bạn làm việc chăm chỉ nhưng không có phương hướng hoặc mục tiêu trong đầu. Để thành công, nhiều người trong chúng ta hy sinh cả việc chăm lo cho bản thân. Chúng ta bỏ lỡ các sự kiện gia đình, lờ đi các buổi khám sức khỏe, quên béng các dịp đặc biệt và nhiều điều khác nữa. Nếu chấp nhận đánh liều với sức khỏe và hạnh phúc, vậy chắc hẳn chúng ta phải được khen thưởng tương xứng với tầm ảnh hưởng, kỹ năng, năng lực và tài năng của mình chứ? Nếu không, những rủi ro mà chúng ta đang gánh đâu có được đền bù xứng đáng.

Thế là chúng ta nỗ lực và nâng cao kỹ năng của mình. Những kỹ năng mới này tạo ra một điều tuyệt vời nào đó: Nghiên cứu đột phá, chiến lược sáng tạo hoặc một sản phẩm giúp mọi người đều được hưởng lợi. Và rồi chúng ta cũng được tưởng thưởng hậu hĩnh. Đúng chứ?

Thật không may, quá trình xác định ai nhận phần thưởng gì, và tại sao lại thế lại không mấy chính xác và thường không công bằng. Những sản phẩm mới mẻ tuyệt vời vẫn thất bại hằng ngày, những tài năng thực sự không được chú ý, những đổi mới có giá trị bị gạt sang một bên. Những thiên kiến nhận thức thường là lý do khiến ý tưởng của chúng ta lung lay và sự nghiệp bị đình trệ. Chúng có thể ảnh hưởng đến bạn và sự nghiệp của bạn hết lần này đến lần khác, hay thậm chí tác động trắng trợn đến mức khiến bạn phát khóc. Thật khó chịu khi những người có ảnh hưởng đến sự nghiệp của bạn lại bộc lộ những điểm mù khiến tiến trình ấy thêm dài hơn – thậm chí là tệ hơn – và kém thú vị hơn. Bạn thấy nản chí khi những câu chuyện kiểu “ở đây thì phải làm thế” cản trở những ý tưởng đổi mới của mình, hoặc lãng phí thời gian vào những cuộc thảo luận liên tu bất tận nảy sinh bởi tệ quan liêu, cứng nhắc, và thói vận động hành lang. Bạn cảm thấy bực bội khi chứng kiến thiên kiến cản trở tiến trình sự nghiệp của những người thông minh phi thường chỉ vì họ không học ở những ngôi trường hàng đầu, không có mạng lưới quan hệ phù hợp hoặc không có ngoại hình hợp nhãn.

Nhưng thiên kiến nhận thức không chỉ liên quan đến các đối tượng xung quanh – ảnh hưởng của những thiên kiến đó không gói gọn trong hành động (hay hành vi thụ động) của người khác. Tự chúng ta cũng có những thiên kiến nhận thức kìm hãm chính mình.

Bạn nghĩ mình là người ra quyết định tốt. Bạn luôn suy nghĩ kỹ lưỡng về những lựa chọn đưa ra. Bạn không cho phép cảm xúc lấn lướt lý trí. Bạn khá logic, đúng chứ?

Sai rồi.

Khoa học hành vi khẳng định rằng, trong hầu hết thời gian, việc ra quyết định của chúng ta thường xuyên bị cản trở bởi thiên kiến và điểm mù nhận thức, bất kể chúng ta đã cân nhắc thấu đáo đến đâu. Chúng ta tin rằng bản thân đang hành động có mục đích trong khi sự thực không phải như vậy. Chúng ta không lý trí như mình tưởng đâu.

Làm thế nào mà những thiên kiến nhận thức lại kìm hãm chúng ta trong công việc? Để tôi lấy ví dụ nhé, với những ai đang làm việc trong công ty lớn, hãy tự hỏi bản thân tại sao bạn không định tự đề bạt mình vào năm tới. Có phải vì bạn không đáp ứng được hết các yêu cầu đề ra, hay vì (trong hầu hết các trường hợp) các tiêu chí thăng chức không rõ ràng và bạn muốn đảm bảo rằng mình vượt trội hơn hẳn những tiêu chí đó?

Thử lùi lại một bước nào. Quyết định lý trí lúc này là gì đây?

Nếu là người lý trí, tôi muốn nhận được những lợi ích từ việc thăng chức càng sớm càng tốt. Tôi muốn có thêm thu nhập, địa vị, và không muốn mất thì giờ vào những việc lặt vặt nữa. Trong trường hợp các tiêu chí không rõ ràng, vậy chẳng phải tôi càng nên nhắm đến việc thăng chức sớm hơn sao? Tôi nên nắm lấy cơ hội mới phải chứ?

Nhưng có lẽ tôi đang quá áp lực với cái giá phải trả khi bị từ chối.

Nếu bạn thấy chuyện này giống với tình huống của mình thì đó là vì thiên kiến nhận thức đang kìm hãm bạn đấy. Bạn đang đánh giá quá cao cái giá của việc bị từ chối (cảm giác đau đớn, xấu hổ, v.v.) và đánh giá quá thấp lợi ích của khả năng thành công.

Đối với hầu hết mọi người, nỗi lo sợ bị từ chối khủng khiếp đến nỗi chúng ta không dám ra quyết định thường xuyên, điều đáng lẽ chúng ta nên làm. Chúng ta lo mình bị chối bỏ, lo đến mức không dám nghĩ đến việc đối mặt với điều đó. Tuy nhiên, trải nghiệm thực tế của việc bị từ chối không tệ như chúng ta nghĩ. Và chưa kể sau cơn mưa trời còn sáng hơn nữa mà. Với tôi, sau mỗi lần bị từ chối, thường tôi sẽ ngồi nhấm nháp một ly vang đỏ thượng hạng cùng một ít sôcôla để động viên bản thân trước khi thử lại lần nữa. Điều quan trọng hơn cả là, chúng ta sẽ học được rất nhiều điều từ việc cố gắng và thất bại. Đó chính là kinh nghiệm sống, không chỉ từ bản thân việc cố gắng và thất bại, mà còn là việc rút kinh nghiệm từ đó.

Để tôi nêu một ví dụ khác nhé. Bạn ghét công việc hiện tại và mơ ước thành lập một doanh nghiệp? Có thể bạn đang ấp ủ ý tưởng về một sản phẩm tuyệt vời, nhưng lại toát mồ hôi lạnh khi nghĩ đến viễn cảnh không còn nhận được khoản lương tháng đều đặn nữa. Thế là bạn tiếp tục ngày ngày đi làm, và mơ hồ lo lắng niềm đam mê thực sự đang lướt qua mình.

Đây có phải là suy nghĩ lý trí? Bạn có nhìn nhận quyết định này theo kiểu được ăn cả ngã về không? Bạn có đánh giá thấp cái giá phải trả của sự hối tiếc? Bạn có tính đến cái giá của những câu “giá mà” khi đã 80 tuổi mà vẫn chưa theo đuổi ước mơ của mình? Bạn thấy không, tự chúng ta cũng có những thiên kiến nhận thức kìm hãm chính mình. Trên thực tế, với hầu hết mọi người, đây là vấn đề mấu chốt. Nếu soi xét bản thân công bằng, tôi sẽ đặt cược ở tỉ lệ 80 (do tôi): 20 (do người khác). Tôi bị mắc kẹt với các dự án quá lâu khi đáng lý tôi phải dẹp bỏ chúng đi. Điều này khiến tôi trở thành nạn nhân của ảo tưởng chi phí chìm, đó là xu hướng tiếp tục thực hiện dự án chỉ vì tiếc các nguồn lực đã đầu tư trước đó. Tôi cũng đã đánh giá thấp thời gian cần thiết để thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản và trở thành nạn nhân của ảo tưởng lên kế hoạch, thứ sẽ ngóc đầu vùng dậy khi chúng ta tin rằng các mục tiêu mình theo đuổi sẽ luôn diễn ra trong tình huống khả quan nhất. Ở nhiều giai đoạn trong sự nghiệp, tôi còn cảm thấy mình hệt một kẻ giả tạo khi cố gắng thể hiện bản thân, mặc dù tôi có đủ bằng cấp và kinh nghiệm để có thể tự tin nêu ra quan điểm. Điều đó nói lên một điều là, ngay cả những người nhận thức được hội chứng kẻ mạo nhận cũng dễ dàng rơi vào cái bẫy này. Tôi cũng đã trì hoãn rất nhiều lần (kể cả việc viết cuốn sách này), để tránh cảm giác đau thấu tâm can khi thất bại hoặc bị từ chối.

Bản thân chúng ta là một phần nguyên nhân khiến cho tiến trình sự nghiệp bị kéo dài, bị va vấp, chững lại, đảo ngược và thậm chí lao tới mép vực rất nhiều lần. Khi nhận ra thực tế đó, chúng ta sẽ cảm thấy như được giải phóng. Việc thừa nhận nhiều khả năng chính những thiên kiến của bản thân đang kìm hãm chúng ta sẽ cho phép chúng ta trở nên chủ động hơn. Nếu nhìn vào tỉ lệ ở trên, tôi có thể kiểm soát đến 80% những thiên kiến nhận thức đó, điều ấy sẽ tác động rất lớn đến việc sự nghiệp của tôi tiến triển như thế nào. Và điều ấy cũng đúng với bạn – mặc dù tỉ lệ của bạn có thể khác hơn chút.

Kể từ hôm nay, tôi muốn bạn kiểm soát hành trình sự nghiệp của mình và áp dụng những hiểu biết khoa học hành vi để xác định và theo đuổi mục tiêu mới tương ứng với việc nghĩ lớn, hoặc vượt qua vạch đích và hiện thực hóa giấc mơ đã ấp ủ lâu nay.

– Còn tiếp –

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Cafe sáng